Thứ Hai, 16 tháng 9, 2019

Những người sống và những người chết - Chương 9

Những người sống và những người chết

Tác giả: Kônxtantin Ximônốp
Người dịch: Trọng Phan & Hà Ngọc
Người biên tập: Lê Anh Hiền
Nhà xuất bản Cầu vồng - Maxcơva - 1987

Chương Chín

Sang buổi tối thứ ba sau mọi việc xảy ra trên đường ôtô Iukhơnốp, có ba người đang đi trong rừng rậm cách nơi xảy ra tai biến chừng năm chục cây số. Nói đúng hơn thì chỉ có hai người trong bọn họ đi bằng hai chân của mình, đó là chính trị viên Xintxốp và chiến sĩ Dôlôtarép. Còn người bạn đường thứ ba là bác sĩ quân y Opxianhicôva mà trong lúc đi đường Xintxốp đã bắt đầu gọi một cách đơn giản hơn nữa là Tanhia, bây giờ đây kể từ hôm nay đã hoàn toàn không thể tự mình đi được nữa rồi. Vì vậy, hai người đàn ông đã phải thay phiên nhau địu cô trong tấm áo mưa bằng vải bạt như khoác một chiếc đẫy trên vai vậy.
Bây giờ đang đến lượt Xintxốp. Anh vừa đi vừa cúi lom khom thật thấp và nhẩm đếm một ngàn bước cuối cùng còn lại trước khi tới chỗ nghỉ chân. Anh cuộn chặt góc tấm áo choàng mưa vào nắm tay để nó đừng tuột ra khỏi những ngón tay đã mỏi rời và để cho cô bác sĩ khỏi rơi xuống đất. Cái đầu nóng như lửa đốt của cô gục trên vai anh như một vật vô tri vô giác, cứ lắc lư mỗi khi anh bước hụt chân. Thỉnh thoảng anh cúi gập người để đưa nắm tay quệt dòng mồ hôi nóng hổi chảy vào mắt, anh lại trông thấy đôi chân của nữ bác sĩ lủng lẳng thò ra khỏi áo ở dưới cùi tay bên phải của anh: một bàn chân đi ủng, còn chân kia để trần, không ủng vì đã bị sai khớp; bàn chân của cô nhỏ xíu như chân trẻ con. Nếu vào lúc khác, dù chỉ một mình Xintxốp thôi thì cái địu này cũng chả đến nỗi đáng sợ, nhưng bây giờ cả hai người đàn ông mệt nhoài sau bốn giờ cuốc bộ như thế đã cảm thấy mình kiệt sức rồi, nên Xintxốp tiếc rằng ngay lúc đầu đã không dừng lại để đẵn cành cây làm cáng. Dù sao, tới chỗ nghỉ chân cũng không thể bỏ qua việc đó được.
Giờ đây, tất cả những ai đã thoát trong mấy phút đầu ở trên đường ôtô, dù đi về phía nào cũng có thể gặp những rủi ro và nguy hiểm khác, cũng có thể sẽ gặp một cuộc sống khác hay một cái chết khác cũng nên.
Những người đã lủi vào khu rừng rậm bên trái đường trông chờ trời tối, đều đã bị bọn xạ thủ tiểu liên đi càn quét trong rừng bắn chết hết trước lúc mặt trời lặn. Có lẽ trong trường hợp khác bọn Đức đã bắt họ làm tù binh, nhưng không biết một viên đạn lạc của ai đó, hay chỉ là một viên đạn điềm tĩnh hiếm có của một người nào đó đã giết chết tươi tên trung đoàn trưởng trung đoàn xe tăng SS đang đứng trên tháp súng xe tăng của mình để quan sát chiến trường, nên bọn Đức đã thẳng tay thanh toán cái món nợ máu bất ngờ này.
Trái lại, những ai chạy vào chỗ tưởng như không an toàn gì hết, vài cái bụi cây nhỏ bé bên phải đường, thì lại vẫn sống sót; bọn Đức không sục tìm họ ở đây và ngay đêm ấy họ đã chạy thoát ra được phía ngoài vòng vây của quân Đức.
Sau khi xảy ra tai biến được một giờ, có mấy chiến sĩ đã tập trung lại được xung quanh trung úy Khôrưsép và không để mất thời gian, dưới sự chỉ huy của Khôrưsép họ đã quay trở lại ngay phía sau và đến tối đã gặp được các chiến sĩ xe tăng của lữ đoàn Klimôvíts và cùng các anh em chiến sĩ xe tăng, họ lại phải vượt ra khỏi một vòng vây mới.
Những người nào đã lủi được vào rừng rồi băng qua rừng hòng tiến thẳng về phía bắc, tưởng là để lánh xa quân Đức thì ngược lại, đã sa đúng vào tuyến vận động của các đoàn xe tăng và bộ binh Đức đang gấp rút khép chặt một vành đai lớn xung quanh Viadơma.
Xintxốp chính là ở trong số này. Sau khi nhẩy vọt xuống xe. anh đâm bổ vào rừng và lúc đầu anh đi suốt một giờ liền không nghỉ, chỉ mong sao lánh đi càng xa càng tốt! Thoạt đầu khi mới nghe tiếng súng, trông thấy xe tăng và thấy bọn Đức đang từ xe bọc sắt nhẩy ra, hai tay anh liền vồ vào khoảng không trước ngực là nơi thường vẫn đeo khẩu tiểu liên... Nhưng tiểu liên không có, chẳng có cái gì hết, kể cả súng lục. Thế là anh bèn nhẩy qua thành xe, chạy vọt vào rừng.
Một giờ sau, anh gặp Dôlôtarép. Sau khi vừa chạy vừa đi được vài cây số. Cuối cùng anh dửng lại, tựa vào gốc cây tùng già để thở lấy hơi, thì đúng lúc đó Dôlôtarép mặc chiếc áo da rách nát và điều chủ yếu là có khẩu súng trường khoác trên vai đã tiến lại bên anh.
- Đồng chí chính trị viên, đồng chí có ra lệnh gì không ạ?
Những lời nói đầu tiên này của Dôlôtarép, hơn tất cả mọi lời nói khác trên đời, đã có thể lấy lại tinh thần cho một con người không có vũ khí và đã ngã lòng, một con người suốt một giờ qua đã quên mất rằng không những mình đã là người chỉ huy mà vẫn còn có trách nhiệm là người chỉ huy.
- Chúng mình sẽ quyết định ngay bây giờ, - Xintxốp vừa đáp vừa cố tỏ ra bình tĩnh, và trong phút ấy, anh nhìn vào khẩu súng trường của Dôlôtarép nhiều hơn là nhìn vào đồng chí đó.
“Thế là chúng mình đã có hai người, và ít ra cũng đã có một khẩu súng trường”, - anh nghĩ thầm như vậy, và để hoàn toàn trấn tĩnh lại, anh bảo Dôlôtarép:
- Ngồi xuống, hút điếu thuốc cái đã.
Họ ngồi xuống ngay dưới gốc thông, Xintxốp móc một bao “Kadơbếch” vừa mới bóc, rồi hai người châm thuốc hút.
Theo lệnh của Klimôvíts, trong thời gian giao nộp vũ khí, người trợ lý hậu cần của anh đã phát loại thuốc lá “Kadơbếch” này cho tất cả những cán bộ chỉ huy vừa thoát khỏi vòng vây.
- Đồng chí chính trị viên, chúng mình sộp thật, - Dôlỏtarép khoái chí rít một hơi thuốc lá.
- Ờ, sộp vô song! - Xintxốp nói. - Hai người mới có độc một khẩu súng trường!
- Thế đồng chí không có súng lục à? - Dôlôtarép hỏi.
- Tớ có cái phiếu lĩnh tiểu liên của lão trưởng ban quân nhu phát cho đây! - Xintxốp nói, vẫn với vẻ dữ tợn. - Có chuyện gì thì tớ sẽ mang cái phiếu ấy ra để bắn vậy!
- Không sao, đồng chí chính trị viên ạ, sẽ tìm được thôi! - Dôlôtarép tỏ vẻ thông cảm và trình bày thêm rằng anh ta đã đi theo sau Xintxốp được gần nửa giờ: đồng chí chính trị viên đi đâu là anh đi đấy, nhưng chưa vội đến gặp ngay.
Trong lúc đang ngồi hút thuốc, Xintxốp lại nhớ tới lúc hai người đã cùng ngồi như thế này cách đây tháng rưỡi, vừa hút thuốc vừa liếc nhìn Baranốp. “Thế là cậu chiến sĩ này một lần nữa lại được vượt vòng vây tay đôi với thủ trưởng, - anh nghĩ như vậy về Dôlôtarép và cảm thấy vô tình mình phải chịu lấy cái trách nhiệm chua xót về những hành vi của lão Baranốp đáng nguyền rủa kia. - Mà tại sao lại tay đôi nhỉ? - Anh lại lập tức nghĩ ngay như vậy. - Trong rừng đâu phải chỉ có một mình chúng ta, biết đâu là trước khi trời tối chúng ta còn tập hợp được cả một lô nữa kia”.
Nhưng những niềm hy vọng đó chỉ là bão huyền. Nửa giờ sau khi hút thuốc, họ đã vớ phải cô bác sĩ nhỏ nhắn, từ đó cho đến tối mịt chẳng gặp thêm một người nào nữa cả.
“Ờ, mà đây quả thực đã có người để mình phải săn sóc rồi!” - khi trông thấy cô bác sĩ nhó bé, Xintxốp lại sực nhớ đến lời dặn dò của Xerpilin.
Một điều rõ ràng là bất kỳ ai cũng sẽ có lúc cạn hết mọi sức lực mà mình có thể có. Chính đó là tình cảnh của người phụ nữ nhỏ nhắn dẻo dai kia trong lúc này. Cô đã làm biết bao nhiêu việc trong suốt thời gian bị bao vây, cô đã bò qua biết bao nhiêu thước đất để băng bó cho thương binh ở những nơi dễ sợ đến nỗi không ai dám ngóc đầu lên!... Thế mà lúc này cô đang đi tập tễnh một cách khó nhọc, bộ mặt cô hốc hác, đỏ bừng lên vì sốt. Và thậm chí khẩu súng lục mà thường khi cô vẫn đeo bên sườn bây giờ cũng có vẻ nặng trĩu xuống. Sáng nay, Smakốp đã định điều cô sang tiểu đoàn quân y nhưng cô đã đòi đi theo anh em cho bằng được. Đấy thế là cô đã đòi được rồi đấy nhé!
Nhác thấy Xintxốp và Dôlôtarép, cô mừng lắm và khập khiễng bước nhanh về phía họ đến nỗi suýt ngã lăn ra
- Ôi, tôi mừng quá! - Cô vừa nhắc lại như trẻ con vừa níu lấy vạt áo capốt của Xintxốp. - Thế không còn ai nữa à? Chỉ có hai anh thôi ư? Không thấy ai nữa à?
- Còn chị, chị có thấy ai không? - Đến lượt Xintxốp hỏi lại.
- Tôi cũng không. Chỉ thấy anh em chạy tán loạn trong  rừng. Sau đó, tôi bị trẹo chân, cứ thế đi một mình. May mà đồng chí Smakốp đã kịp thời ngồi sang xe tải! - Bỗng cô vui mừng reo lên.
- Đồng chí ấy sang ngồi xe khác là tốt, nhưng còn chị lại không sang ngồi...
- Nếu đồng chí ấy biết thế thì cũng chẳng sang ngồi xe khác đâu, - cô bác sĩ nói tựa hồ như sợ Xintxốp có thể nghĩ xấu về chính ủy.
- Cố nhiên rồi, - Xintxốp nhếch mép cười. - Nếu chúng ta mà biết thì nói chung...
Anh khoát tay trước những ý nghĩ chua chát và nói rằng chị còn sống và hai người đã gặp chị, như thế dù sao cũng là tốt rồi.
- Còn tốt cái nỗi gì! - cô nói và trỏ xuống một bên chân. - Tôi bị trẹo chân đây này, lại còn bị sốt nữa. - Cô áp lòng bàn tay của Xintxốp vào trán mình. - Thấy không?
- Không sao, cô em ạ! - Dôlôtarép nói, anh thấy hình như nữ bác sĩ Ốpxianhicôva quá trẻ và quá bé bỏng, nên không tiện gọi là bác sĩ. - Không sao, cô em ạ! - Anh ta nhắc lại với vẻ thông cảm. - Dù có phải cõng nữa thì chúng tôi vẫn đưa cô về đến nơi đến chốn! Chúng tôi đã trông thấy tất cả những việc cô làm cho anh em, thằng nào không cõng cô đi, thằng ấy là đồ chó!
Và hôm nay đây, sang tới ngày thứ ba, tình hình đã xảy ra đúng như lời Dôlôtarép đã thề nguyện theo tấm lòng tốt của anh. Buổi trưa, cô bác sĩ đã bước hụt phía bên chân trẹo, lại bị sai khớp cả bàn chân, và thế là họ đã phải thay phiên nhau cõng cô ta đã hơn bốn tiếng đồng hồ liền.
Thực vậy, sau khi bị sai khớp, cô vẫn cố tìm cách chữa chạy để đi cho được, đã bắt tháo ủng ra cho mình và bảo Xintxốp thử kéo giúp xương chân cho hết sai khớp. Cô ngồi xuống hai tay bám vào những rễ cây từ dưới đất chồi lên. Dôlôtarép ở đằng sau ôm lấy ngang thắt lung, còn Xintxốp thì làm theo lời chỉ dẫn của cô: anh toát cả mồ hôi, cố sức vặn và kéo chân cho cô. Nhưng mặc dầu cô đã chỉ dẫn cho anh với giọng thều thào, nghẹn ngào vì đau đớn, anh vẫn không giúp gì cho cô được. Thế là đành phải buộc túm tấm áo mưa vải bạt lại, xốc cô lên lưng.
Và đây, anh đang cõng cô, vừa đi vừa đếm từng bước khoảng cách từ đây đến chỗ nghỉ chân mà họ tự quy định, đã mỗi lúc một gần lại - ba trăm... hai trăm... một trăm năm mươi...
Còn cô thì cảm thấy anh đi vất vả quá, sau khi đã thức dậy khỏi cơn nửa mê nửa tỉnh, qua hơi thở nóng hổi thì thầm vào tận tai anh:
- Bỏ tôi lại!... Nghe thấy không, bỏ tôi lại đi... Anh khổ sở vì tôi thế này, tôi lại càng đau thêm... Để tôi ở lại đây một mình tôi sẽ đỡ đau hơn...
Làm sao có thể trách mắng cô về những câu nói ấy được, bởi vì cô nói thật lòng. Và ngay cả bây giờ, cô vẫn nghĩ tới người khác nhiều hơn nghĩ tới mình.
Cuối cùng cũng đã tới chỗ nghỉ chân. Dôlôtarép trải lên một mô đất tấm áo capốt của Xintxốp mả anh tạm khoác lên người mình trong khi Xintxốp cõng cô bác sĩ, rồi đến giúp chính trị viên đặt cái địu xuống.
Người ốm bắt đầu động đậy. Trong khi cô được vác như một cái bị, toàn thân cô đã tê dại đi.
- Sao, ngủ lại đây ư? - cô khẽ hỏi.
- Chưa đâu, - Xintxốp đáp. - Nằm tạm đây nhé. Để chúng tôi bàn xem sao đã.
Anh vẫy tay ra hiệu cho Dôlótarép, rồi cùng nhau đi ra một phía.
- Làm thế nào bây giờ? Hồi trưa cánh mình vội vàng quá. Lẽ ra phải làm cáng ngay mới phải.
- Đồng chí chính trị viên, còn vội mới vàng gì nữa nhỉ? - Dôlôtarép phản đối, - Lúc bấy giờ đường cái thông thống ra, mà xe cộ thì chạy rầm rập. Nếu dừng lại làm cáng ở đó thì đồng chí thử nghĩ xem, có lẽ bọn phát xít đã đến “chào” chúng ta rồi.
- Cứ cho là như vậy đi, - Xintxốp tán thành. Nhưng bây giờ thì thế nào? Vẫn phải buộc cáng thôi.
- Đồng chí chính trị viên, không cần buộc cáng, mà phải làm sao cứ xẩm tối đến được chỗ có người, rồi để cô ấy ở lại đấy với họ, như thế là hay hơn cả, - Dôlôtarép nói với vẻ tin chắc. - Nếu mang đi nữa e cô ấy chết mất.
- Nhỡ gặp quân Đức thì sao? Chúng ta đã mò đến ba làng rổi, mà làng nào cũng toàn bọn Đức.
- Làm thế nào được, đành cứ tiếp tục tìm thêm trong rừng vậy thôi. Biết đâu cũng sẽ tìm được ngôi nhà nào đó trong rừng, chẳng có lẽ rừng này lại không có người.
- Để cô ta lại một mình thì gay go lắm.
- Sao lại một mình, mà là cùng ở với người ta chứ.
- Dù sao cũng vẫn gay go lắm.
- Thế nếu để cho cô ấy chết trên tay chúng ta thì lại không gay go à? - Dôlôtarép lắng tai nghe ngóng rồi nói. - Cô ấy gọi đấy.
Vậy là chưa bàn định xong, họ đã phải quay lại chỗ cô bác sĩ. Cô ta vẫn nằm, chỉ chống khuỷu tay, hơi nhổm dậy chút ít. Mặt đỏ bừng, cô lo lắng nhìn họ.
- Sao các anh thình lình bỏ đi thế?
- Tanhia, nào chúng tôi có bỏ cô đi đâu kia chứ? - Xintxốp nói.
Nhưng cô đâu có nghĩ như anh nói, cô không hề lo lắng về việc đó.
- Sao các anh bàn định mà không cho tôi tham gia? Đã cùng đi thì phải cùng bàn định chứ?
- Được, nào ta bàn đi. - Xintxốp thấy đã đến lúc phải hoàn toàn sòng phẳng với cô. - Tôi có bàn với Dôlôtarép chuyện làm cáng, tìm cách tiếp tục mang chị đi, nhưng sau đó lại nghĩ rằng đi xa chị không chịu nổi
- Thế là phải rồi. - cô đáp vậy, tuy chưa biết họ tính chuyện gì, nhưng cô cũng đã sẵn sàng giúp họ giải quyết được dễ dàng bất kỳ bằng cách nào.
- Chúng tôi tính là sẽ tìm người gửi chị ở lại đây, còn chúng tôi thì tiếp tục vượt vòng vây.
Cô thở dài.
- Ngu khổ, ngu sở, ngu quá, thật là ngu khổ ngu sở!
Đó là cô tự mắng mình đã để sai khớp chân đến nỗi không sao đi cùng với hai anh được, cô cũng hiểu là họ nói đúng, nhưng cô thấy bây giờ dù mình có phải chết chăng nữa thì cũng còn không đáng sợ bằng ở lại một mình mà không có họ.
Nghỉ chân xong, họ lại lên đường, và khi trời gần tối, họ chợt thấy một con đường mòn đi sâu vào rừng và là con đường ít người qua lại.
Xintxốp liền quyết định rẽ vào con đường đó, và họ rẽ ngay không để mất hút con đường, nhưng luôn luôn đi cách nó một quãng để đề phòng.
Một giờ sau, con đường đã dẫn họ đến một khoảng rừng thưa có mấy ngôi nhà nhỏ và một dãy lán dài của xưởng cưa gỗ. Trong khoảng rừng này không thấy có xe cộ mà cũng chẳng thấy người. Xưởng cưa không làm việc nữa. Nhưng những chồng gỗ súc và ván xẻ cho biết rằng cách đây không lâu công việc của xưởng vẫn còn tấp nập lắm.
Dôlôtarép đi trinh sát, còn Xintxốp ở lại với cô bác sĩ.
- Anh Xintxốp ơi, - cô khẽ nói,- nếu gặp người xấu thì đừng để tôi lại nhé. Anh trả khẩu súng lục lại cho tôi, thà tôi tự sát còn hơn
- Người xấu là thế nào? - Xintxốp bực mình đáp. - mọi người đều xấu cả, chỉ có tôi với chị là tốt thôi hay sao?
- Anh với Dôlôtarép là tốt đấy, các anh đã cõng tôi đi bao nhiêu lâu đây! Tôi đâm xấu hổ ra nữa ấy.
- Thôi đi chị! - Xintxốp vẫn bực dọc nói - Chị nói với ai chứ nói với tôi thế mà được à! Chúng tôi đã được biết chị ba tháng trời, hiểu chị là người thế nào rồi. Đừng cho chúng tôi đi tầu bay nữa! Nếu không phải chị, mà là tôi bị sai khớp chân, thì thử hỏi chị có phải cõng tôi đi không nào?
- Cõng anh thì khó thật đấy, anh cao lênh khênh như thế kia cơ mà! - cô nói và mỉm cười, không phải cười vì Xintxốp cao lêu đêu, mà là vì cái anh chàng chính trị viên cao kều và thường hay cau có này, bây giờ đang nói với cô một cách bực tức như vậy chỉ là do lòng tốt, chứ không phải do một nguyên nhân nào khác. - Thế anh có vợ chưa? - cô im lặng giây lát rồi hỏi. - Tôi muốn hỏi anh từ lâu nhưng thấy anh cứ cáu kỉnh đến lạ...
- Thế bây giờ thì sao, tôi hiền lành đi rồi hả?
- Không, chẳng qua là tôi định hỏi thế thôi.
- Tôi có vợ rồi. Có cả một đứa con gái nữa. Nó cũng tên là Tanhia như chị, - anh cau có nói.
- Thế việc gì anh cứ phải cáu kỉnh như vậy? Nào tôi có đến dạm hỏi anh làm chồng đâu!
Nghe nói thế, anh nhìn vào khuôn mặt phờ phạc của cô hồi lâu, mà nghĩ rằng người ta thường vẫn không hiểu ý nhau như thế đấy. Rồi anh ôn tồn và dịu dàng nói, như nói với một đứa trẻ thơ:
- Chị ngốc lắm, ngốc lắm!... Chẳng qua là tại tôi không biết nhà tôi và cháu gái hiện nay ở đâu thôi, rất có thể là nhà tôi cũng đang ở ngoài mặt trận như chị. Và tôi vừa sực nhớ mọi việc. Còn về chị thì tôi nghĩ rằng chị là một người đàn bà tốt nhất trên đời này, và là một người đàn bà nhẹ nhất nữa, - anh tủm tỉm cười nói thêm. - Chị tưởng là cõng chị nặng lắm sao? Bây giờ chị chẳng được bao nhiêu cân đâu!
Cô ta không trả lời, chỉ thở dài, và trong khóe mắt cô ứa ra một giọt lệ nhỏ.
- Thế đấy, - Xintxốp nói - Tôi tưởng nói đùa cho chị vui, vậy mà chị... À mà Dôlôtarép về kia rồi.
Dôlôtarép cho biết rằng những cảm tưởng ban nãy của họ là hoàn toàn đúng: không thấy có quân Đức, nhưng trong xưởng cưa vẫn có người. Suốt trong mười lăm phút nằm quan sát ở cửa rừng, anh thấy từ trong ngôi nhà nhỏ ở ngoài cùng có một người tàn tật hai lần chống nạng đi ra trông trời. Sau đó thấy một cô bé chạy ra rồi lại chạy vào nhà.
- Ngoài ra không thấy ai nữa!
- Vậy thì ta vào đi, - Xintxốp nói.
Anh bế cô bác sĩ cùng với cả tấm áo mưa lên, không cõng mà ẵm cô như một đứa trẻ.
- Hay là để tôi vào nhà dò xét thêm xem sao đã? - Dôlôtarép ngăn lại.
Nhưng Xintxốp đã nhất quyết.
- Nếu không có bọn Đức thì mình cứ vào thẳng. Mình cũng là người chứ sao?
Anh bỗng cảm thấy nhục nhã mỗi khi cứ phải tiến hành trinh sát ở ngay trên đất nước mình, phải trinh sát cả đến một cái nhà mà trước kia, trước chiến tranh, anh và bất cứ ai cũng đều có thể không ngần ngại bế một người đàn bà đau ốm vào đó bất kỳ giờ phút nào.
- Mình không tin là ở đó có những kẻ khốn nạn, - anh nói. - Mà nếu có bọn khốn nạn, thì chúng ta đã có khẩu súng trường này rồi.
Thế là hai tay bế cô bác sĩ, anh bước tới ngôi nhà ở ngoài cùng và lấy chân thúc thúc vào cửa.
Cô bé mười lăm tuổi vừa sợ hãi mở then cửa ra đã trông thấy một người cao lớn, vai rộng, có bộ mặt dữ tợn và hốc hác đang bế một người đàn bà bọc trong tấm áo mưa. Hai cánh tay to lớn của người ấy run lên vì mệt mỏi, còn trên hai ống tay áo - điều này đập ngay vào mắt cô bé - là những ngôi sao đỏ của chính ủy quân đội.
Người thứ hai, thấp lùn, mặc chiếc áo da rách rưới, cầm khẩu súng trường đứng sau lưng người cao lớn kia.
- Cô bé, dẫn tôi vào, - người cao lớn nói với giọng như ra lệnh, - chỉ chỗ cho tôi đặt người ốm nằm! - Và, thoáng thấy đôi mắt hãi hùng của nó, người đó bèn nói thêm với vẻ dịu dàng hơn: - Đây, em xem các anh có khổ không nào?
Cô bé mở rộng cửa, Xintxốp bế cô bác sĩ bước vào ngôi nhà gỗ, đưa mắt nhìn quanh; căn phòng trông nửa quê nửa tỉnh: một bếp lò kiểu Nga, một chiếc trường kỷ rộng kê dọc tường, một tủ chè, một chiếc bàn trải vải sơn, những cái giá treo tường với diềm hoa giấy...
-Ngoài em ra, ở đây còn ai không? - anh hỏi cô bé.
- Có chứ, sao lại không, - một giọng nói hơi khàn khàn vang lên sau lưng anh.
Xintxốp ngoái đầu lại và trông thấy người cụt chân chống nạng đúng như Dôlôtarép đã nói, đang đứng ở khung cửa ăn thông sang căn phòng bên cạnh. Người ấy đã đứng tuổi, đẫy đà, với mớ tóc rũ rượi và bộ râu rậm cứng, màu nâu nhạt, trên khuôn mặt phát phì.
Thoáng thấy Xintxốp đang định đặt cô bác sĩ nằm lên trường kỷ, bác ta liền giơ tay ngăn lại:
- Hẵng gượm... Lenka, lấy cái đệm trên giường bên phòng ngủ sang đây, đừng lấy chăn và vải trải giường, chỉ lấy đệm không thôi!... Mà nhanh tay lên! Chú ấy chờ hết hơi rồi kia!
Xintxốp nhìn chòng chọc vào người chủ nhà và hẳn là vẻ mặt anh đã biếu lộ những gì anh nghĩ trong lòng mặc dầu đang có chiến tranh và đang bị bao vây, anh cương quyết đòi hỏi ở đây cũng phải có đầy đủ tất cả những gì mà một người Xô viết lâm nạn có quyền được hưởng ở một người Xô viết khác.
- Cậu nhìn gì? Tớ không vui vẻ gì với các cậu hả? - Người chủ nhà hỏi. - Nhưng vui vẻ nỗi gì kia chứ? - Đường ngay lối thẳng, nếu bọn Đức kéo đến thì chúng tớ và các cậu đi đời ráo. Lúc ấy biết làm thế nào?... Đây, đây, đặt vào bên mép này, rồi gập bớt đằng đầu lại, chiều dài đủ đấy, - bác quay sang bảo cô bé đang hối hả đặt tấm đệm lên chiếc trường kỷ.
Xintxốp đặt cô bác sĩ xuống, rồi ưỡn thẳng lưng lên một cách khó khăn. Anh tưởng chừng như tất cả những đường gân của mình đều đã bong ra hết.
- Anh cũng to gan đấy! - thoáng thấy những ngôi sao trên ống tay áo Xintxốp, người chủ nhà đã chuyển sang xưng hô bằng “anh”, nửa ra vẻ giễu cợt, nửa ra vẻ kính trọng. - Bọn Đức kéo đến xung quanh đây đã sang ngày thứ hai rồi: thế mà anh vẫn nghiễm nhiên làm chính ủy... Lenka. mang nước ra uống đi! Không thấy các cô chú ấy mệt nhọc, khát nước à!... Thôi được, ngồi xuống đây, tôi sẽ tiếp đãi các anh. - Bác dựa đôi nạng vào tường, đưa một tay vịn mép bàn rồi ngồi xuống một cách nặng nề khiến chiếc ghế đẩu kêu lên ken két. - Giá có việc gì tôi sẽ giấu các anh xuống hầm nhà, tính tôi thế đấy: sợ thì ra sợ, mà đã không sợ thì ra không sợ!
- Các anh ngủ lại chứ?
Ximxốp gật đầu.
- Còn sau đó?
Xintxốp trả lời là tờ mờ sáng mai hai anh sẽ lại lên đường vượt vòng vây ra với quân ta, còn cô bác sĩ thì các anh muốn gửi lại đây; cô ấy bị sốt và đau chân, phải nằm nghỉ cho khỏi; nếu quân Đức có đến đây chăng nữa thì một người đàn bà cũng không thể gây ra sự nghi ngờ gì đặc biệt cả, nhất là không phải cô ta bị thương gì, mà chỉ bị ốm thôi.
- Hóa ra là bác sĩ. - bác chủ nhà nói. - Thế mà tôi cứ tưởng là vợ anh.
- Tại sao vậy? - Xintxốp hỏi.
- Có phải người đàn ông nào cùng đi ẵm một người đàn bà trên tay như vậy cả đâu. Hóa ra là bác sĩ, - bác chủ nhà nhắc lại rồi cầm lấy nạng, đến cạnh đầu giường người ốm. - Chà, cô ốm nặng quá rồi! - bác ta nói và đặt bàn tay lên trán cô. - Nóng như lửa đốt. Không phải thương hàn chứ?
- Không, chỉ bị cảm lạnh, có lẽ là viêm phổi. - cô bác sĩ nghẹn ngào trả lời.
- Dù thương hàn tôi cùng chẳng sợ. Tôi đã bị đủ mọi loại thương hàn rồi. Còn chân thì sao?
- Sai khớp.
- Mai ta sẽ xem cái chân thế nào, có lẽ phải chườm nước nóng. Không thể nuông chiều cái chân được đâu. Một lần tôi cũng đã nuông chiều nó rồi đâm ra đi cà nhẳc suốt tới giờ. Chúng ta làm quen với nhau đi: tôi là Biriukốp Gavrila Rômanôvíts. Bố tôi tên là Rôman, còn họ thì ông cụ đổi đi cho hợp với vùng rừng núi ở đây. - bác nhếch mép cười và bắt bàn tay nóng bỏng của cô bác sĩ, sau đó bắt tay Xinxốp và Dôlôtarép.
Cô bé bước vào, tay xách thùng nước và cái ca.
- Đem lại cho cô ấy uống trước... - bác chủ nhà hất hàm chỉ cô bác sĩ với vẻ săn sóc cục mịch, một nét đặc biệt trong cách cư xử của bác ta. - Các anh từ đâu tới đây? Đi được mấy hôm rồi?
Xintxốp nhếch mép cười chua chát với số phận của mình và trả lời rằng nếu tính gộp cả lại thì tới hôm nay đã đi được ba mươi ba hôm.
Và để đáp lại câu hỏi “Sao lại thế?” anh vắn tắt kể lại câu chuyện đã xáỵ ra.
Biriukốp thậm chí phải huýt sáo miệng lên vì kinh ngạc:
 - Ờ! Số các anh long đong thật! Có thể nói là vừa về tới nhà thì lại lộn tùng phèo lên hết. Này, Lenka, nghe thấy không, - bác đâm ra tốt bụng hẳn lên và nói. - cứ để cái đệm đấy, mày vào nằm với cô ấy ở nhà trong. Còn cánh đàn ông chúng tao nằm cả ngoài này.
Cô bé vui sướng, lon ton chạy vào chuẩn bị giường nằm. Nó lấy làm hãnh diện về quyết định của bố nó, và chỉ mấy phút sau Xintxốp đã chuyển cô bác sĩ vào căn phòng bên cạnh, đặt cô nằm lên một chiếc giường đôi rộng thênh thang có đủ cả màn và đệm lỏng chim.
- Ôi, tốt quá, thật không ngờ! - cô bác sĩ thều thào, - Em bé, giúp cô cởi áo tí nào. - Cô tưởng cánh đàn ông đã ra hết, nhưng họ vẫn còn ở đó, và khi nghe cô nói thế họ liền bước ra khỏi phòng.
- Lenka, ra đây tí! - Biriukốp quát.
- Cái gì cơ ạ? - Lenka thò đầu ra khỏi cửa có vẻ sốt ruột.
- Không ạ iếc gì cả, cứ ra đây cái đã! Ra rồi khép cửa lại!
Cô bé tiến lại gần bác ta:
- Mày phải cởi quần áo cho cô ấy, nếu quần áo lót kiểu bộ đội thì cũng phải cởi bỏ luôn. Lấy cái sơmi của mẹ mày cho cô ấy mặc. Tất cả những gì trên người cô ấy là bộ đội thì thu nhặt tất mang xuống kho củi. Mày biết giấu vào đâu rồi chứ gì? Vào cái chỗ để bộ quân phục của cái người hôm qua đã đến đây ấy. Nếu không thì chúng nó cũng không coi cô ấy là đàn bà đâu. Lấy giấy tờ ra đưa cho tao, tao sẽ tự tay đi chôn lấy. Hay là các anh cầm đi theo vậy? Bác ta quay sang hỏi Xintxốp.
- Cứ để lại cho cô ấy thì tốt hơn. Sau này có lúc còn cần đến.
- Ờ, thế là thế nào nhỉ! - Biriukốp nhếch mép cười. - Hôm qua cũng đã có một người đi qua ghé vào nhà tôi, tôi sẽ chẳng nhắc đến cấp bậc của anh ta làm gì, kệ xác anh ta. Nhưng anh ta thậm chí lại chẳng đòi ăn uống gì cả, chỉ lo thay đổi quần áo! Có bao nhiêu tiền trong túi anh ta móc ra hết, và dí vào mặt tôi: “Đây, biếu bác tất, chỉ cốt bác cho tôi bộ quần áo nào ranh rách ấy!”. Tôi bèn cho anh ta một tấm áo sơmi và một chiếc quần chùng, thực ra là còn lành lặn bởi vì oái oăm một nỗi là tôi chẳng còn bộ nào nữa. Thế rồi tôi cùng để kệ cho anh ta muốn đi đâu thì tùy. Khi người ta đã sợ đến nỗi mồm cứ lắp ba lắp bắp nói không thành tiếng nữa thì còn lấy của người ta làm gì nữa kia chứ! Tôi đem bộ quân phục của anh ta chôn ráo cùng với cả giấy tờ. Thế đấy, vậy mà các anh lại định cứ mặc thế mà đi à?
Xintxốp gật đầu.
- Ờ, nhỡ ra gặp quân Đức?
- Chúng tôi sẽ chiến đấu, - Dôlôtarép từ nãy vẫn chưa góp chuyện bây giờ mới nói.
- Với cái của kia thì bây giờ cậu đánh nhau được khối ra đấy! - Người chủ nhà hất hàm chỉ khẩu súng trường đang dựng ở chân tường. - Nhưng dù sao tôi vẫn nhận thấy là đánh nhau với bọn Đức cũng đáng sợ, đáng sợ quá.
- Mà đáng sợ thật! - Xintxốp nói.
- Đúng thế đấy, - bác ta đăm chiêu nói. - Ở gần cũng đáng sợ mà ở xa lại càng đáng sợ hơn.
Rồi thấy cô con gái chạy qua phòng, bác ta thét bảo là khi thu xếp cho bác sĩ xong thì phải sửa soạn bữa ăn.
Trong lúc cô bé lăng xăng chạy đi chạy lại, mang mấy chiếc bao tải ra che cửa sổ. rồi chuẩn bị bữa ăn, thì Xintxốp và Dôlôtarép được nghe bác chủ nhà vắn tắt kể lại cái mà bác ta gọi là “câu chuyện đời mình”.
- Đại để là các anh không có quyền lục vấn tôi là ai và tôi như thế nào? - bác ta chủ động mở đầu câu chuyện. - Các anh đến nhà tôi, chứ có phải tôi đến nhà các anh đâu. Nhưng các anh còn để lại ở đây một người, nghĩa là lương tâm đòi hỏi các anh phải biết rõ xem mình đã phó thác lại cho ai. Có phải thế không nhỉ?
Xintxốp đáp là chính thế.
- Ấy đấy! Còn “chính thế” nữa kia! - bác chủ nhà nhếch mép cười.
Bác ta kể lại đời mình một cách khá lộn xộn: khi thì kể chuyện này, lúc lại xoay sang chuyện khác. Cuộc đời bác quả là không may mắn, con người bác thì thật ba chìm bẩy nối.
Hồi nào đấy trong thời gian nội chiến, bác đã từng chiến đấu. rồi giải ngũ về nhà với chức vụ trung đội trưởng. Bác đã từng ở trong Đảng, đã làm đội trưởng sản xuất một thời gian khá lâu ở lâm trường. Chính ở đấy, vì say rượu mà bác đã bị tê cóng trong tuyết giá mà hỏng mất một chân. Vì không có bác sĩ phẫu thuật, người y sĩ đã cưa đứt cái chân của bác đi như cưa một khúc gỗ vậy. Sau đó, do không chịu đựng được cảnh tàn tật, bác lại càng xuống dốc, rượu chè be bét, phá tán hết mọi vốn liếng và ra khỏi Đảng. Thậm chí bác đã từng lê la khắp đầu đường xó chợ. Rồi cách đây sáu năm bác trôi giạt đến đây, đến với người vợ góa của một bạn đồng sự cũ...
Hất hàm về phía căn buồng mà cô bé đang đứng bên trong, bác bảo:
- Mẹ nó có hai con, cả hai đứa đều là con riêng của bà ấy.
Bác đang lao mình xuống hố sâu thì người đàn bà ấy đã lôi bác ra khỏi hố và bác đã ở lại đây, sống với người đàn bà đó, rồi trở thành thợ cơ khí ở xưởng cưa này, và trở thành ông bố hờ của hai đứa con người khác.
Cách đây bốn hôm, một tai họa đã xảy tới với gia đình này. Nghe các chiến sĩ làm việc trong xưởng cưa kháo nhau đủ thứ chuyện về chiến tranh, thằng bé mười bốn tuổi, con riêng của bà chủ, bỗng dưng biến mất. Chắc là nó đi theo cái đơn vị đã đi qua đây trong ngày hôm ấy rồi. Thế là tối đến, mẹ nó chẳng nói gì với ai cả, bỏ đi theo để gọi con về.
- Và bây giờ mọi chuyện đã đến nông nỗi ấy đấy! Tứ phía đều rặt là quân Đức, thế mà tôi đã ba hôm nay vẫn chẳng thấy mẹ chúng nó đâu cả. Khi các anh đập cửa, tôi cứ tưởng là mẹ chúng nó về. Bao lâu nay không uống rượu, thế mà hôm qua buồn quá đã lại nốc vào rồi. Chả là anh em bộ đội còn để lại một chai lít mà! Lenka đã đến cất đi đấy, nhưng tôi vẫn còn nhớ, thậm chí tôi đã đánh nó. Vì say rồi mà lị. Nó chẳng nói ra, nhưng tôi cảm thấy là mình có đánh nó thật. Mà nó thì có bị đòn bao giờ đâu... Thế nào Lenka, dọn lên di, dọn lên đi mà trong chai lít còn một ít rượu đấy, hôm qua mày chả cất đi là gì…
Trong chai lít quả là có còn một ít rượu. Mấy người đàn ông uống mỗi người một nửa cốc nhắm với khoai tây muối mặn chát.
- Cô ấy thế nào rồi? - bác chủ nhà hất hàm về phía cửa mà hỏi. - Mày đã đưa vào cho cô ấy chưa?
- Con đã đưa vào cho cô ấy ăn trước rồi ạ, - cô bé trả lời.
- Thế, thế, thế là đúng đấy...
Ăn uống xong, Dôlôtarép ợ lên một tiếng thỏa mãn và chẳng nói lôi thôi dài dòng, đặt luôn khẩu súng trường bên mình, trùm tấm áo da lên nằm ngủ ngay ở chân tường trên lớp cỏ khô mà cô bé đã đem đến. Xintxốp định vào thăm cô bác sĩ, nhưng cô bé đã giữ anh lại ngay trước cửa, bảo rằng bác sĩ vừa mới ngủ thiếp đi xong.
Xintxốp bèn quay ra ngồi xuống bên bàn.
- Anh có ăn thêm chút gì nữa không? - bác chủ nhà hỏi.
- Cám ơn bác. Sau khi bị đói lâu, ăn no quá, sợ không tốt.
- Có lẽ thế mà đúng đấy.
Bác Biriukốp cho xuống bấc đèn một lát rồi chống khuỷu tay lên bàn, nói:
- Đồng chí chính trị viên, đồng chí nói cho tôi biết: tại sao tình hình lại xảy ra như vậy? Bây giờ đây đồng chí ngồi trước mặt tôi, đồng chí là Hồng quân Công Nông, một khi đồng chí đã không cởi bỏ quân phục thì tuy tôi kính trọng đồng chí, nhưng tôi cũng lại phải chất vấn đồng chí. Tại sao tình hình lại xảy ra như vậy và nó còn kéo dài đến bao giờ? Đừng tưởng rằng tôi hỏi đồng chí là người đầu tiên đâu nhé. Tôi đã nói chuyện cả với anh em chiến sĩ, lại với cả một thượng úy đã ở ngay đây để theo dõi xưởng cưa, nhưng thực ra anh ta cũng chẳng biết được gì nhiều... Lại còn cả một ông tướng chí huy sư đoàn nữa kia. Ông ấy đến đóng quân ngay trong rừng này trước khi ra trận. Tướng chiến đấu hẳn hoi đấy nhé, không chê vào đâu được, vì ông đã từng cùng anh em phá vòng vây ra khỏi vùng biên giới, thu nhặt xong sư đoàn rồi lại xông ngay ra mặt trận... Tôi cũng hỏi ông ta như thế này: “Đồng chí thiếu tướng, chắc đồng chí nằm mơ cũng không tưởng tượng ra được, cũng không đoán ra được là mình phải rút lui đến tận đây, tuy đồng chí không nói với tôi điều đó nhưng tôi thừa hiếu rằng đồng chí đã không sao tưởng tượng như vậy được! Vậy mà mọi việc đã xảy ra không như ý đồng chí. Thế bây giờ đồng chí nghĩ sao, đồng chí cứ nói thật đi, đồng chí không bỏ đây mà đi nữa chứ? Bọn Đức sẽ không đến được cái lều này của tôi chứ?”.
Nói đến những câu này, bác Biriukốp ngẩng đầu lên thong thả đưa mắt nhìn quanh căn nhà một lượt tựa hồ như sắp phải từ biệt nó.
- Ông ta trả lời thế nào nhỉ? Ông ta bảo: “Lẽ cố nhiên! Ngày mai chúng tôi sẽ tiến quân, sẽ tự tay nện cho chúng bò lê bò càng và trước tiên sẽ tống cổ chúng ra khỏi Ennha”. Rồi sao nhỉ? Đúng thế, họ đã tiến quân, họ  đã nện cho chúng bò lê bò càng và đã tống cổ được chúng ra khỏi Ennha! Nhưng bây giờ thì sao? Ông tướng ấy đã rời khỏi đây mà tiến quân lên phía trước, đã chiếm được Ennha, nhưng thế nào mà hôm qua quân Đức lại thọc được vào sau lưng chúng tôi. Mà thọc đến tận đâu ấy nữa kia! Nghe nói hôm qua có một cô điện thoại viên từ Ugra gọi dây nói đến Dnamenka, thế mà ở Dnamenka chúng nó đã xì xồ với cô bằng tiếng Đức rồi, mà đó là còn cách đây những năm mươi cây số về phía đông nữa kia!
- Không thế như thế được! - Xintxốp nói.
- Thì những việc kia cũng không thể như thế được đấy! Ông tướng nói đã chiếm được Ennha mà bây giờ quân Đức lại lù lù ở Dnamenka. Vậy cái ông tướng ấy bây giờ ở đâu rồi? Anh hãy cho tôi biết đi!
- Ở đâu, ở đâu cái gì! - Xintxốp bỗng nổi khùng lên. - Ông ta đang chiến đấu ở một nơi nào đó trong vòng vây chứ còn ở đâu nữa. Mà chúng tôi cũng chiến đấu như vậy thôi, nếu không bị đánh bất thình lình... Gì thì gì, chúng tôi cũng đã từ Môghilép về đến được Ennha. Đã có lúc tưởng chừng phải hạ vũ khí trước kẻ thù, thế mà chúng tôi vẫn không chịu hạ đấy! Những người khác cũng thế thôi, họ cũng chẳng kém chúng tôi đâu!
- Có thể là không kém đâu, nhưng quân Đức lại vẫn cứ bao vây được các anh! Vậy có nên chờ đợi để rồi bị bao vây như thế không? Hay là chính mình phải đến lôi cổ chúng ra khỏi nơi đây và những nơi khác nữa. Nếu không thế chúng ta sẽ cứ đứng đợi để chúng đến bạt tai mình trước. Mà ở đây còn có một vấn đề nữa là: liệu mình có đứng vững được không? Nếu không đứng vững được thì dù anh có nằm xuống rồi, chúng vẫn cứ đánh mãi nữa kia! Anh và cậu chiến sĩ của anh đang là gì vậy? Các anh chính là những kẻ đang nằm rồi đấy.
- Không đâu, - Xintxốp nói.
- Vậy thì các anh đang bò...
- Không, chúng tôi cũng chẳng bò, chúng tôi đang đi đến chỗ quân ta và sẽ đi đến nơi đến chốn.
- Thế nhỡ ra gặp lính Đức?
- Chúng tôi sẽ giết chúng.
- Thế gặp xe tăng? Cũng giết à? Theo tôi thì tốt hơn hết là đừng có gặp ai cả, cứ lặng lẽ mà đi cho tới khi đến được chỗ quân ta. Bởi vì nếu bây giờ gặp quân Đức thì không phải các anh giết chúng mà đúng hơn cả là chúng sẽ giết các anh.
- Điều đó thì tôi chưa biết. - Xintxốp nín lặng, thầm điểm lại tất cả những gì mình đã trải qua kế từ ngày vượt qua cầu Môghilép và ở lại với đơn vị Xerpilin. - Nhưng tôi biết một điều là: chúng tôi có khả năng tiêu diệt được chúng bao nhiêu thì chúng tôi đã tiêu diệt được hấy nhiêu, mặc dù có thể là vẫn còn ít.
- Đó là điều anh đã biết. Vậy còn điều gì anh chưa biết? Anh đã mào đầu là “tôi chưa biết”.
- Điều tôi chưa biết là không hiểu vũ khí, khí tài của chúng ta đi đâu mất. Tựa hồ như nó đã tự thu vào một cái hố, kể cả trên trời và dưới đất!
- Trong khi đó thì máy bay của chúng. - Biriukốp im lặng giây lát rồi nói, - cứ ầm ầm bay qua đây để đến đánh phá Maxcơva. Chiều chiều bay đi, nửa đêm lại bay về. Ngày nào tôi cũng phải ra mái hiên, lắng nghe xem: chúng trở về có nhiều không, tiếng máy bay ầm ì như thế nào ở trên trời... Biết vậy thôi, anh đi ngủ đi! Chớ bực mình là tôi đơm chuyện quấy rầy anh thế, nhưng có lẽ anh là người chính trị viên cuối cùng tôi được nói chuyện, còn ngày mai tôi đã phải nói chuyện với bọn Đức rồi. Khi nào anh đến chỗ quân ta và báo cáo tình hình thì nhờ anh nói hộ tôi là: có thể kế hoạch của các anh là rút lui đến tận Maxcơva như Cutudốp, nhưng cũng phải nghĩ đến nhân dân nữa. Cố nhiên không phải bất cứ con gián nào trong khe tường cũng đều yêu mến chính quyền Xô viết, nhưng tôi không nói chuyện con gián, tôi nói chuyện con người. Giá cứ nói toạc cho tôi biết rằng sẽ rút lui, rằng kế hoạch là như vậy, thì tôi cùng đã cuốn gói đi nơi khác rồi. Còn bây giờ thì sao? Bây giờ tôi cứ phải sống ở đây và đến than thân trách phận với quân Đức chăng? Đến trình với chúng rằng mình là người như thế này, như thế kia, tốt lắm, đã bị tống cổ ra khỏi Đảng, không đồng ý với chính quyền Xô viết... Thế chứ gì? Đem con bỏ chợ như vậy để làm gì nhỉ? Thà tôi cứ bỏ đi nơi khác còn hơn. Anh chính trị viên ơi, cứ nói thế nhé! Chao ôi, mà rồi anh cũng chả nói đâu! Hễ đi đến nơi là anh sẽ chỉ nói: “Báo cáo, tôi đã có mặt để nhận lệnh của đồng chí”. Thế là hết đấy.
- Sao lại thế được?
- Nó thế đấy. Còn về cô bác sĩ thì anh đừng lo. Tôi không đem nộp một người đàn bà cho chúng giết đâu.
- Tôi không sợ thế, tôi tin ở bác.
- Thôi, với anh tôi chẳng còn gì nói thêm nữa đâu, - bác Biriukốp nói, vẻ mỉa mai, sự cau có đã trở lại trong con người bác, và khi bện xong cái bấc đèn, bác nằm phịch xuống trường kỷ, trở mình một lát rồi ngáy ầm ầm.
Xintxốp nằm nhìn lên trẩn nhà, và anh tưởng chừng như không có trần nhà, mà chỉ thấy một bầu trời đen, trong đó nghe có tiếng ẩm ì đứt đoạn của những chiếc máy bay ném bom đang kéo tới Maxcơva. Anh vừa bắt đầu thiếp đi thì chợt một bàn tay trẻ con đụng vào mặt anh.
- Đồng chí chính trị viên, - cô bé ngồi xổm xuống đất, thì thẩm nói, - cô ấy gọi đồng chí.
Xintxốp bèn cất mình đứng dậy và không xỏ ủng, cứ để chân đất theo sau cô bé sang phòng bên cạnh
- Sao, cô thế nào rồi? - Anh cúi xuống bên nữ bác sĩ và hỏi: - Khó chịu lắm ư?
- Không, tôi đỡ rồi, nhưng cứ sợ thình lình bị mê man hay ngủ thiếp đi rồi các anh đi mất mà chẳng chia tay.
- Chúng tôi không bỏ đi mà chẳng chia tay đâu. Chúng tôi phải vào từ biệt cô chứ.
- Anh để khẩu súng lục của tôi tại cho tôi. Nhét xuống dưới gối. Được chứ? Rất muốn đưa cho anh, nhưng tôi cũng cần đến nó.
Song Xintxốp đã không ngần ngại trả lời rằng anh sẽ không trả lại cho cô bởi vì, quả thực, khẩu súng lục đó đang rất cần cho anh, còn đối với cô thì nó chỉ có thể làm hại cô mà thôi.
- Chị cứ tự nghĩ mà xem: bộ quân phục của chị cũng phải đem giấu đi, thậm chí còn phải đổi cả áo sơ mi khác cho chị nữa, thế mà dưới gối lại để khẩu súng lục! Nếu quân Đức không đến thì chị chẳng cần gì đến súng lục, còn nếu chúng đến thì khẩu súng sẽ trở thành mối nguy cho chị và... cho cả những người chủ nhà của chị nữa, - Xintxốp nói thêm như vậy khiến cô không sao phản đối được. - Ngủ đi. Có thực là đỡ hơn không?
- Thực đấy... Nếu anh gặp đồng chí Xerpilin thì kể chuyện về tôi nhé. Được không?
- Được.
Anh khe khẽ siết bàn tay nóng như lửa của cô.
- Theo tôi thì chị sốt nặng hơn rồi đấy.
- Tôi khát nước luôn, còn nói chung thì chả sao đâu.
- Đồng chí chính trị viên, - cô bé níu anh lại nơi ngưỡng cửa, - cháu muốn nói với chú một việc... - cô nín lặng, lắng nghe tiếng ngáy của ông bố. - Chú đừng lo ngại gì về cô Tanhia. Chú cũng đừng nghĩ gì về bố cháu cả, - cô gọi đúng chữ “bố”, chứ không gọi là “dượng”, - đừng nghĩ tại sao bố cháu lại dữ tợn đến như vậy. Bố cháu đang khổ sở về mẹ cháu và thằng em trai cháu đấy... Chú đừng sợ, đừng để tâm những chuyện bố cháu nói, chuyện bố cháu bị khai trừ ra khỏi Đảng, đó toàn là những chuyện từ bao giờ bao giờ rồi ấy! Thế rồi khi chiến tranh bắt đầu, bố cháu đã lên ngay huyện ủy đề nghị xin được vào Đảng trở lại. Đảng ủy lâm trường người ta đã nghiên cứu về bố cháu, nhưng sau đó mọi người đều đi bộ đội ráo cả, cho nên không sao họp hội nghị được. Chú đừng lo ngại gì về bố cháu cả nhé!
- Chú chẳng lo ngại gì đâu!
- Còn cháu thì cháu cũng sẽ làm hết mọi việc! - cô bé lại sốt sắng tiếp tục thì thào. - Cháu sẽ nhận cô Tanhia là có họ hàng với nhà cháu! Cháu đã bàn xong với cô ấy rồi. Cháu lấy danh dự đoàn viên hứa với chú như vậy!
- Cháu đã là đoàn viên rồi kia ư? - Xintxốp hỏi.
- Vâng, từ tháng năm.
- Thế thẻ đoàn viên của cháu đâu?
- Đưa chú xem nhé? - cô bé hỏi và tỏ vẻ sẵn sàng.
- Thôi đừng. Chỉ cốt sao cháu tìm được một người y sĩ nào đến nắn lại chân cho cô ấy thì tốt quá. Chú không biết cách nắn xương, phải biết cách mới nắn được.
- Nhất định cháu sẽ tìm được, cháu sẽ tìm y sĩ, bác sĩ đến! - cô bé vẫn nói với cái vẻ sẵn sàng ấy. - Cháu sẽ làm tất!
Và Xintxốp tin rằng nhất định cô bé sẽ tìm được y sĩ, bác sĩ thực, sẽ dẫn đến thực và sẽ làm tất cả mọi việc, sẽ hy sinh cả tính mệnh cho cô bác sĩ nhỏ nhắn này.
Anh lại đặt mình nằm xuống, và lần này trong nháy mắt đã ngủ lịm đi, không hề nghĩ ngợi một điều gì nữa.
Ánh sáng đã làm anh thức giấc, giữa lúc mơ màng, anh tưởng trời đã sáng, nhưng khi mở mắt ra thì thấy trong nhà vẫn tối om. Anh lại toan nhắm mắt, nhưng một luồng ánh sáng rộng đã loang loáng quét lên khung cửa số. Đây chỉ có thể là ánh đèn pha của một chiếc xe đang chạy vào xưởng cưa mà thôi. Xintxốp nhảy bật dậy và chưa kịp xỏ ủng đã lay gọi Dôlôtarép và bác chủ nhà.
Ánh sáng lại lướt qua cửa sổ.
- Quân Đức đi xe đến! Đợi quá lâu rồi! - bác Biriukốp khàn khàn nói. - Chạy đi thôi!
Vừa nhảy lò cò bằng một chân, vừa đưa hai tay vịn tường, bác lần đến ô cửa sổ trông ra sân, giật tung cánh cửa mở toang nó ra.
- Chạy đi! Qua sân, tắt qua vườn rau mà thoát vào rừng. Chúng không thấy đâu. Nhanh lên!
Qua cửa sổ mở rộng đã nghe thấy tiếng nổ của mấy chiếc xe. Xintxốp để cho Dôlôtarép ra trước, rồi vẫn chưa kịp xỏ ủng, anh vớ luôn lấy nó cùng với đôi xà cạp mà trèo qua cửa sổ.
Và thật là vừa đúng lúc. Những chiếc xe khác đang còn chạy, nhưng một chiếc đã đỗ lại bên cạnh nhà, đã nghe tiếng bọn Đức nói oang oang. Chiếc xe này chở đầy lính.
Sau khi vượt qua vườn rau và chạy giữa những đống gỗ ra đến cửa rừng, Xintxốp cùng Dôlôtarép ngồi tạm xuống để thở. Vừa đi ủng vào chân, Xintxốp vừa ngoái lại nhìn phía đằng sau, nơi mấy chiếc xe Đức đang vòng trở lại, chiếu đèn pha ra bốn phía. Còn trong căn nhà mà Xintxốp và Dôlôtarép vừa chạy ra cách đây năm phút, thì lúc đầu thấy ánh sáng nhen lên trong một ô cửa sổ, sau đó đến ô cửa sổ thứ hai. Ánh sáng xuyên qua lớp bao tải che không kín khung cửa sổ mà lọt ra ngoài, thậm chí đứng đây nhìn cũng thấy được.
Nhìn làn ánh sáng đó, Xintxốp đau xót cảm thấy mình bất lực. Mới cách đây một giờ, ít ra họ còn có thể bảo vệ người đàn bà đang nằm ở đấy, dù là bằng khẩu súng trường và khẩu súng lục này. Nhưng giờ đây cô ta đã bị bỏ lại một mình, không gì che chở, phó thác cho lương tâm của con người và lòng nhân từ của quân địch.
Dôlôtarép cũng nghĩ đúng như thế.
- Chỉ mong sao trong cơn sốt, cô ấy đừng có nói nhảm điều gì! - anh nói rồi đế thêm: - Chúng mình tranh thủ rít vài hơi chứ đồng chí chính trị viên? Trong bụng thấy bồn chồn quá.
- Sợ chúng trông thấy mất!
- Không sao, chúng không thấy được đâu. Ta lấy áo capốt che đi chứ...
Thế là họ chỉ còn lại có hai người chứ không phải ba nữa, và họ cũng sẽ chỉ đi với nhau thêm sáu ngày đêm nữa, cho đến lúc số phận lại ném tung cả hai người về hai phía khác nhau.
Trong sáu ngày đêm đó, họ đã phải chịu đựng tất cả những gì có thể trút xuống số phận của hai người mặc quân phục và cầm súng trong tay đang đi qua dinh lũy của quân thù để về với quân ta. Họ đã nếm đủ mùi đói rét, đã bao phen kinh hoàng trước cái chết. Đã mấy lần tính mạng họ chỉ treo đầu sợi tóc, suýt bị chết hoặc bị bắt làm tù binh, và họ đã từng nghe thấy tiếng quân Đức nói, tiếng súng ống Đức va nhau lách cách, tiếng gầm rú của xe cộ Đức và ngửi mùi xăng Đức chỉ cách mình có hai chục bước.
Bốn lần họ đã ngủ đêm trong khu rừng tháng mười ẩm ướt, tê cóng vì lạnh, và hai lần đã ghé vào nhà dân để ngủ nhờ.
Ở một nhà dân, người ta mừng rỡ khi thấy họ, còn ở nhà kia, người ta lại hoảng sợ, không phải sợ họ mà sợ là quân Đức biết rằng họ đến ngủ nhờ ở đây. Nhưng cả hai nơi họ ngủ nhờ, ai nấy đều đặc biệt chú ý tới việc họ vẫn mặc quân phục mà đi. Ở nhà thứ nhất thì người ta tự hào về họ, còn ở nhà thứ hai, người ta kinh sợ cho bản thân mình.
Và khi rời khỏi ngôi nhà thứ nhất lúc trời tảng sáng, Dôlôtarép đã bảo Xintxốp:
- Đây mới chính là những người Nga! Phải không, đồng chí chính trị viên?
- Đúng!
Còn khi họ rời khỏi ngôi nhà thứ hai cũng vào lúc trời tảng sáng thì Xintxốp lại báo Dôlôtarép:
- Đã thế thì cho đến chết cánh mình cũng sẽ không cởi bỏ quân phục, dù chỉ để chọc vào mắt những kẻ bo bo ích kỷ kiểu đó.
Còn Dôlôtarép thì đáp rằng, đồng chí chính trị viên thuận trả cho họ một trăm rúp về khoản thức ăn thì thật phí hoài. Đáng lẽ ra cứ nhổ toẹt vào mõm chúng nó!
- Thì tớ đã nhổ rồi đấy, nhổ bằng cách trả cho chúng một trăm rúp đó. Cứ để cho chúng nuốt lấy cái nhục ấy.
- Thế mà chúng còn mở mồm bảo là con trai chúng nó ở trong quân đội! - Dôlôtarép vẫn chưa thôi bứt dứt. Thật kẻ mạt kiếp mới phải đi đổ máu cho những thứ bố mẹ như vậy!
- Ngoài bố mẹ ra, còn có chính quyển Xô viết nữa chứ.
- Có thì cùng có đây, nhưng dù sao vẫn rất khổ tâm! - Dôlôtarép không chịu đồng ý với Xintxốp.
Và cuộc trò chuyện đó cũng suýt nữa trở thành lần trò chuyện cuối cùng của họ, bởi vì nửa giờ sau họ vừa leo lên khỏi một khu rừng dốc đứng thì chạm trán ngay với hai tên lính thông tin Đức đang kéo cuộn dây điện thoại. Cuộc gặp gỡ này là bất ngờ đối với cả hai bên, nhưng hai người Nga đang vượt vòng vây vốn tinh khôn như thú rừng, nên dù sao vẫn xử trí nhanh hơn là hai tên Đức vừa mới uống cà phê buổi sáng xong và đang huýt lên một điệu sáo với cái dạ dày no căng.
Dôlôtarép giương súng trường bắn vào một tên Đức trước khi hắn kịp giật súng trường ra khỏi vai. Còn tên Đức thứ hai hoảng quá, bỏ chạy lẩn vào bụi cây, Xintxốp đuổi theo dùng súng lục bắn, mãi đến viên đạn thứ bảy, viên đạn cuối cùng, mới giết được nó.
Sau đó, họ thu lấy một khẩu súng trường và một bao đạn rồi cứ xuyên rừng mà chạy để xa lánh nơi bắn nhau đó, chạy mãi cho đến khi mệt nhoài, ngã khuỵu xuống trong một bụi rậm. Mãi tới đây họ mới nằm ôn lại mọi sự việc vừa xảy ra.
“Thế là chúng mình đã giết được chúng nó rồi đây”,- Xintxốp nghĩ thầm và nhớ tới câu bác Biriukốp hỏi hôm trước, nơi xưởng cưa: “Thế nhỡ ra gặp lính Đức?” - và câu mình trả lời: “Chúng tôi sẽ giết chúng”.
- Đi thôi, - Dôlôtarép nói, - kẻo chúng nó lại vào càn quét trong rừng đấy, chúng mình chạy chưa xa lắm đâu...
- Ừ, phải, - Xintxốp nói đoạn khoác khẩu súng trường Đức lên vai, rồi lại nói thêm: - Có vẻ nặng. Lâu không mang súng trường đến nỗi không quen vác nó nữa.
Dôlôtarép bèn khuyên anh quẳng khẩu súng lục đi, vì dù sao cũng đã bắn hết nhẵn đạn rồi. Song Xintxốp thấy tiếc, báo rằng sẽ còn tìm ra đạn và rút cục vẫn giữ khẩu súng lục.
Nhưng sau đó, anh lại chỉ còn trơ mỗi khẩu súng lục không đạn ấy mà thôi. Số là ban đêm họ phải qua sông, trong khi lội nước ngập đến cổ thì thình lình anh bị thụt xuống cái hố sâu, đánh rơi xuống nước mất cả áo capốt lẫn khẩu súng trường Đức mà anh đã dùng thắt lưng buộc lại với nhau và giơ lên cao khỏi đầu. Rồi hết lặn lại mò mà anh vẫn không sao tìm thấy một thứ gì cả. Thế là cả hai người chỉ còn có một khẩu súng trường với một tấm áo da.
Qua sáu hôm, họ đã gặp đủ mọi điều, chỉ thiếu mỗi một điều là không thể làm thế nào để đến được chỗ quân ta, họ càng thọc sâu về phía đông bao nhiêu thì té ra quân Đức lại còn tiến sâu hơn cả họ.
Cuối cùng, cái ước mơ tìm đến tuyến mặt trận của họ dường như đã bắt đầu tỏ ra không sao thực hiện nổi. Nỗi cô đơn đã đè nặng lên lòng họ nhiều hơn cả. Đôi khi trò chuyện với nhau về điều đó, họ lại nẩy ra cảm tưởng hình như quãng đường gian khó cùng đi với Xerpilin từ Môghilép tới Ennha vẫn còn là sung sướng hơn, nếu đem so với những điều mà họ phải chịu đựng trong lúc này. Giá mà gặp được một đơn vị đang phá vây để cùng đi với nhau thì sướng biết bao.
Thực ra, có một lần gần tối, họ đã gặp được một thượng úy mặc quân phục với bảy chiến sĩ có vũ khí. Xintxốp và Dôlôtarép tỏ ý muốn nhập bọn với họ và viên thượng úy không phản đối việc ấy. Nhưng qua một đêm anh ta đã nghĩ lại, có lẽ là sau khi nghe Xintxốp kể lại rằng hai người vượt vòng vây suốt từ dạo tháng bảy tới giờ, thì anh ta đâm ra nghi ngờ. Gần sáng Dôlôtarép chỉ còn nghe thấy tiếng những bụi cây chớm phủ tuyết đọng đầu mùa đang gãy, kêu răng rắc. Tám người kia đã dậy kéo nhau đi riêng mà không đánh thức họ.
- Sao, ta đuổi theo chứ? - Dôlôtarép hỏi Xintxốp.
Nhưng Xintxốp trả lời:
- Họ đã không tin mình thì cứ kệ cho họ đi.
Và hai anh đã tìm mãi, tìm mãi mà không thấy một đơn vị nào vừa thoát vòng vây vừa chiến đấu, để có thể nhập bọn được. Rõ ràng là các đạo quân từ Viadơma vượt ra đã đột phá theo các hướng khác...
Lần cuối cùng họ đã phải ngủ dêm trong rừng. Mép rừng lượn quanh theo đường ôtô mà trên đó dòng xe cộ của quân Đức qua lại hầu như không ngớt.
Nhân cơ hội thuận tiện, họ chạy vụt qua đường, tiến sâu vào rừng thêm chừng hai cây số nữa, bẻ những cành thông và chui vào giữa đám cành lá rậm rạp, lấy tấm áo da rách của Dôlôtarép trùm lên đầu. Mấy hôm trước, trời còn khô ráo, nhưng hôm nay vào lúc gần tối, lần đầu tiên trời lại đổ mưa. Dù đã phải nằm sát vào nhau cho ấm, họ vẫn bị lạnh và bị ướt trong khi ngủ. Thêm nữa cái đói lại còn hành hạ: sáng nay đã vừa hết nhẵn thức ăn cuối cùng mà họ đã xoay được khi ngủ nhờ lần cuối cùng trong nhà dân.
Cả hai đều không sao ngủ được.
- Tiếc quá, cái thắt lưng rơi xuống sông mất, - Xintxốp nhếch mép cười ỉu xìu. - Nếu không thì cũng thắt chặt được bụng lại cho dễ chịu hơn.
- Chúng mình dại, không lục lọi túi dết của mấy  thằng Đức xem có thức ăn gì không.
Dôlôtarép đã tỏ ý tiếc rẻ việc này không phải lần đầu.
- Con đường ta vừa chạy qua lại là đường rải dá, - Dôlôtarép lặng im chốc lát rồi hỏi: - Không biết nó là con đường nào nhỉ?
- Hình như đường đi Vêrêa, còn Mêđưn thì đã ở về phía nam. Có thể đấy chính là con đường từ Mêđưm đến Vêrêa.
- Thế từ Vêrêa đến Maxcơva bao nhiêu cây?
- Gần một trăm cây.
- Ờ... - Dôlôtarép trầm ngâm nói. - Nghĩa là chỉ còn gần một trăm cây số nữa thì sẽ đến được Maxcơva, thế mà cánh mình vẫn ở trong hậu tuyến của bọn Đức. Chịu, không sao tin nổi nữa... - Anh lắng nghe tiếng gầm rú thấp, nặng nề rền rĩ trên trời. - Chúng kéo đến Maxcơva đấy. Còn phải bay thế này nghĩa là chưa chiếm được Maxcơva đâu!
Họ lại nằm im lặng mấy phút.
- Xintxốp, Xintxốp ơi! - Dôlôtarép gọi.
Họ đều là những người cùng một thế hệ: chính trị viên Xintxốp đang độ ba mươi, còn chiến sĩ hồng quân Dôlôtarép thì chưa đến hăm bảy tuổi; cảnh hoạn nạn đã kết họ thành anh em, và giữa cuộc sống hiện nay họ đang trải qua một cuộc sống mà đôi lúc họ tưởng như đã ruồng bỏ hai người họ với nhau trên toàn bộ quá đất này, họ đã bắt đầu gọi nhau bằng “cậu tớ” lúc nào mà không hề hay biết.
- Cái gì vậy?
- Thế là rút cục tớ với cậu đã phải để cô bác sĩ lại, không cứu được cô ấy.
- Vậy cậu định cứu bằng cách nào? Nếu chìm xuống nước, thì còn nâng cô ta lên trên đầu được. Chứ như thế này thì còn làm gì được nữa? Để cô ta chết dọc đường thì tốt hơn à?
- Ừ, thực thế đấy, - Dôlôtarép đồng ý. Rồi anh thở dài nhắc lại: - Nhưng rút cục cánh mình đã bỏ cô ta lại!
- Vậy cậu còn muốn gì nữa nào? - Xintxốp đáp với vẻ không bằng lòng.
- Tớ thì muốn nhiều thứ... Muốn mà không được. Thế mới bực... Nhưng cậu có biết là tớ muốn gì không?
- Nào, muốn gì?
- Giá người ta bảo tớ: “Dôlôtarép, chúng tớ sẽ ném cậu như một quả bom vào đầu thằng Hítle, nhưng có điều là nếu cậu khử được nó thì cậu cũng ra tro, vậy cậu có bằng lòng không?!”, thì tớ sẽ hỏi: “Nhưng liệu ném có trúng không?”, và nếu họ cam đoan “Trúng chứ”, thì tớ sẽ đáp “Ném đi!”. Cậu có tin không?
- Tin chứ.
- Mà đôi khi tớ còn nghĩ: tại sao số mình lại hẩm hiu thế, chui đi làm lái xe? Tớ hoàn toàn có thể lái được xe tăng cơ mà!
- Thế thì sao?
- Chả sao cả. Tớ chỉ muốn ít ra cũng được một lần giã chúng không phải bằng súng trường, mà bằng đại bác, và tự tay mình giã cơ! Dùng sức của mình nghiền nát ra như cám một cái gì đó, một chiếc xe tăng hay là một chiếc ôtô của chúng cũng được! Khi nào ra khỏi vòng vây tớ cóc đi làm lái xe nữa. Quẳng mẹ cái nghề này đi.
- Họ biết cậu là lái xe là họ vẫn sẽ điều động cậu thôi.
- Tớ sẽ giấu chứ! Tớ sẽ giấu chứ! - Dôlôtarép ngừng nói. - Xintxốp, Xintxốp này!
- Cái gì?
- Cậu bảo liệu quân Đức có chiếm được Maxcơva không?
- Tớ không biết.
- Nhưng cậu nghĩ thế nào chứ?
- Tớ không tin.
Một loạt tiếng gầm rú trầm trầm lại rền rĩ kéo qua bầu trời.
- Chúng nó lại bay đấy...
- Xintxốp, thế trước cậu học ở đâu?
- Lúc đầu học ở trường cấp hai, sau học ở trường dạy nghề.
- Tớ cũng vậy. Cậu học ở trường nào.
- Trường chế biến gỗ. Còn cậu?
- Tớ học nghề thợ nguội, thuộc công ty máy móc nông nghiệp Rôxtốp. Thế sau đó?
- Sau đó mình đi làm. Rồi lại đi học.
- Ở đâu?
- Ở ĐABACÔ.
- ĐABACÔ là cái gì?
- Trường đại học báo chí cộng sán chủ nghĩa.
- Còn tớ thì công tác suốt, lái máy kéo và xe tải, chỉ khi vào bộ đội mới chuyển sang lái xe con. Nhưng cậu nghĩ thế nào, liệu ông Xerpilin có khỏi không?
- Tớ chả biết. Bác sĩ bảo là sẽ khỏi.
- Giá mà lại được về đơn vị ông ta thì hay quá nhí?
- Bao giờ thoát vòng vây chúng mình sẽ viết thư cho ông ấy.
- Cậu bảo tớ là trước cậu công tác ở Viadơma phải không? - Dôlôtarép chợt hỏi.
- Ừ, ở Viadơma, - Xintxốp đáp, và sau đó anh im lặng hồi lâu.
Bản thân anh cũng đã nhiều lần nhớ tới Viadơma, và bây giờ, sau câu hỏi của Dôlôtarép anh nhẩm tính xem từ đây đến đó bao nhiêu cây số, rồi quyết định nếu không thể vượt qua được vòng vây thì đành phải rẽ sang Viadơma, tìm người quen mà tham gia đánh du kích ở đó.
Đêm ấy, cả anh lẫn Dôlôtarép đều nghĩ rằng Viadơma đã nằm lại sâu trong hậu tuyến của quân Đức thì tất nhiên đã bị chúng chiếm từ lâu. Dù sao chăng nữa, chắc là hai anh vẫn sẽ cảm thấy nhẹ nhõm hơn, nếu được biết những việc đã xảy ra ở đó trong thực tế.
Vành đai xung quanh Viadơma ngay trong đêm đó cũng vẫn mỗi lúc một khép chặt thêm mà không sao có thể khép chặt đến cùng được, các đạo quân bị bao vây của ta đang bỏ mạng ở đó trong những trận chiến đấu cuối cùng, những trận chiến đấu tuyệt vọng với các quân đoàn xe tăng và bộ binh Đức. Nhưng chính do đó mà mấy hôm sau, ở trước thành Maxcơva, Hítle đã thấy thiếu những quân đoàn đã bị giam chân tại Viadơma ấy.
Tình trạng bị bao vây và phải rút lui từng mảng lớn một cách bi thảm trên mặt trận miền tây và mặt trận Brianxk trong tháng mười, đồng thời cùng lại là một chuỗi xích liên tiếp của những trận phòng ngự, đã khiến người ta sửng sốt về tính chất ngoan cường. Nó tựa hồ như một thứ cát, khi thì từng hạt khi thì từng núi, đổ ra dưới bánh xe không để cho cái dòng thác lũ sắt thép của quân Đức thừa thắng tràn đến Maxcơva.
Hai con người đêm đó đang nằm trong khu rừng gần Vêrêa và đang tự cảm thấy mình vừa nhỏ bé, vừa hẩm hiu, vừa hầu như không có vũ khí gì, tuy vậy cũng vẫn là hai hạt cát đã tự ý mình tung ra dưới bánh xe bộ máy chiến tranh của quân Đức.
Họ cũng không để cho bọn Đức tiến đến tận Maxcơva, mặc dầu đúng vào đêm ấy, chính họ đã rùng mình khi nghĩ rằng phải chăng chúng ta có thể để cho thủ đô lọt vào tay quân thù, và họ cũng chưa được biết là Maxcơva sẽ không bao giờ bị bỏ rơi vào tay quân thù cả.
Gẩn sáng, tiếng súng của một trận chiến đấu ác liệt ở gần đó đã đánh thức họ dậy. Trong rừng mới hơi mờ sáng. Họ đứng lên và đi về phía những tiếng súng ấy, vì họ biết rõ một điều: nếu đó là một trận đánh thì có nghĩa rằng ở đó không chỉ có quân Đức mà còn có quân ta, và may ra còn có hy vọng vượt được vòng vây đến với quân ta.
Chiến tranh lại có cách đo lường riêng của chiến tranh, và họ đã đi đến những âm thanh chết chóc của những quả đạn pháo đang nổ tung và những tràng súng máy quạt lia lịa ấy, cùng với tâm trạng sốt ruột, chẳng khác nào lúc người ta đi theo tiếng gọi của cuộc sống, đi đến ngọn đèn biển, đi đến làn khói cùa một ngôi nhà giữa vùng tuyết giá.
- Có lẽ chính đấy là hỏa tuyến chăng? - Dôlôtarép hỏi.
Xintxốp cũng muốn tin là như vậy, nhưng suy nghĩ giây lát anh cho rằng chưa chắc đã phải thế. Nếu hỏa tuyến chạy qua đây thì ban đêm đã không yên tĩnh như vậy. Chắc hẳn đây là quân ta đang đột phá vòng vây qua hậu tuyến quân Đức.
Họ đi về phía trước và hình như trận đánh cũng tiến lại phía họ; đã có thể phân biệt được rằng đây không phải là loại súng máy nào khác mà chính là loại “Mácxim” của ta đang nã từng loạt ngắn ở đâu rất gần đây.
- Họ bắn tiết kiệm đạn, - Dôlôtarép nói.
Xintxốp gật đầu.
Họ đi thêm hai trăm bước nữa. Trong rừng đã sáng hẳn. Càng đi, họ càng phải thận trọng hơn, sợ vấp phải quân Đức trước khi gặp quân mình.
Bỗng một quả đại bác nổ tung cách họ một trăm thước, họ vọt tiến rồi nằm ngay vào cái hố đạn còn đang bốc khói, trong lúc ấy đạn pháo bắt đầu nổ hết quả này đến quả khác ở cả bên trái lẫn bên phải họ.
Ít ra thì cũng có tới mấy đại đội pháo cùng phát huy hóa lực.
Thoạt tiên Xintxốp nghĩ rằng quân Đức không tính toán gì, bắn bừa vào chỗ trống. Anh đã mừng thầm trong bụng, do vậy trong chốc lát đã quên khuấy mất sự nguy hiểm.
Nhưng đạn pháo vẫn tiếp tục rơi đúng vào dải đất đó một cách có hệ thống, khiến Xintxốp hiểu rằng bọn Đức đang dựng lên một bức tường lửa thép ở đây để chặn đường không cho quân ta mở đột phá khẩu về phía này.
- Thế nào, nằm chờ hay đi? - Xintxốp hỏi Dôlôtarép.
Đằng trước vẫn nghe có tiếng súng máy ròn rã.
- Đi thôi.
Họ bắt đầu vọt tiến, khi thì nằm xuống hố đạn, khi thì nằm xuống khe rãnh, khi thì chỉ chúi đầu xuống đất.
- Chả có lẽ chúng mình sắp đến chỗ quân ta thật sao? Không thể tưởng tượng nổi nữa, - Xintxốp nói vậy trong khi phải thở hồng hộc sau một lần vọt tiến mau lẹ, và trong khi lại một lần nữa họ phải lăn kềnh xuống cạnh gốc một cây thông cao lớn.
Và đó là những lời nói cuối cùng của Xintxốp mà Dôlôtarép còn được nghe thấy.
Một quả đạn nổ. Khi Dôlôtarép ngóc đầu dậy thì thấy chính trị viên đã nằm dang rộng hai tay, còn đầu và trán thì máu đã chan hòa.
- Xintxốp, Xintxốp! - Anh lay hai vai Xintxốp. - Xintxốp!
Nhưng Xintxốp không đáp.
Dôlôtarép bèn xốc cái thân hình vô tri vô giác của Xintxốp lên vai mình, rồi tiếp tục đi về phía có tiếng súng máy ở đằng trước.
Đi được bốn chục bước, anh khuỵu xuống vì vác quá nặng nhưng đứng dậy ngay, lại xốc Xintxốp lên vai rồi lại ngã lăn ra. Anh nằm và cảm thấy rằng dù sao mình cũng không thể cõng nổi Xintxốp đến chỗ quân ta.
Trong khi ấy, những giây đồng hồ cứ trôi qua, và anh thấy hình như tiếng súng máy bắt đầu xa dần.
Anh liền quyết định chạy đến chỗ quân ta càng nhanh càng tốt để lấy một người giúp sức, rồi sẽ cùng quay trở lại đón Xintxốp.
Sau khi nhét giấy tờ của Xintxốp vào túi áo bằng những ngón tay run lẩy bẩy, anh lưỡng lự một giây rồi cầm lấy ống tay tấm áo quân phục đã rách nát, dứt khuy mà kéo ra khỏi người Xintxốp.
Tuy anh quyết định sẽ quay trở lại đón Xintxốp nếu gặp được quân ta, nhưng anh tính rằng cuộc gặp gỡ đó cũng có thể không xảy ra, do đó anh không muốn để quân phát xít thấy tấm áo quân phục mà nhận ra chính trị viên và sẽ làm nhục anh, dù là khi anh còn sống hay đã chết.
Chạy được một lúc, Dôlôtarép quẳng chiếc áo vào đám cành lá rậm rạp của một cây thông nhỏ, và chạy được hai trăm bước nữa thì anh bắt gặp bốn chiến sĩ hồng quân đang vọt tiến, kéo cả khẩu “Mácxim” theo sau. Ba người trong số đó mặc quân phục lính xe tăng, còn người thứ tư thì chính là trung úy Khôrưsép bằng xương bằng thịt hẳn hoi, với món tóc bạch kim lòi ra dưới chiếc mũ calô đội lệch.
Dôlôtarép bắt gặp trung đội trưởng của mình đúng vào giây phút mà anh ta, sau khi vọt tiến, đang phục xuống đằng sau khẩu súng máy. Anh ta là người đầu tiên trông thấy Dôlôtarép đâm bổ về phía mình, và mỉm cười, không tỏ vẻ ngạc nhiên gì cả, tựa hồ như chính mình đang đợi người chiến sĩ này, anh kêu to:
- Thế là Dôlôtarép đã hiện ra đây rồi, từ trên trời rơi xuống hả! Có đạn không?
- Có.
- Thế thì nằm xuống, bắn đi! Bọn “phritx” sắp thò mặt ra bây giờ đấy.
Còn có mấy chiến sĩ nữa mặc quân phục lính xe tăng và quân phục lính bộ binh chạy ngang qua họ và nằm xuống giữa những gốc cây. Ai nấy đều nhớn nhác ngoái nhìn lại đằng sau, phía rừng rậm nơi mà Khôrưsép đã quay mũi súng chĩa vào đó.
Không nhìn Dôlôtarép, anh hỏi:
- Một mình à?
- Cùng với Xintxốp.
- Thế chính trị viên đâu rồi?
- Anh ấy bị thương nặng. Nằm ngay gần đây thôi. Anh cho tôi một người. Chúng tôi sẽ cõng anh ấy về!
- Thế cậu để anh ấy lại chỗ nào?..
Dôlôtarép giơ tay trỏ áng chừng về phía mà, theo anh, anh đã để Xintxốp nằm lại đó.
- Anh ấy bị thương vào đầu? - chắc là Khôrưsép đang thầm tính xem nên mang chính trị viên ra bằng cách nào thì tốt hơn. nên đã hỏi Dôlôtarép như vậy, nhưng đang nói nửa chừng thì anh đã phải dán mình xuống đất: những tràng tiểu liên đã quạt vào đám cành cây trên đầu họ, khiến những chiếc lá úa rơi lả tả. - Chúng mày quạt chúng ông thì chúng ông lia lại chúng mày! - Khôrưsép chửi rủa, hét lên như vậy, rồi lia ngay một băng đầu tiên trước khi Dôlôtarép trông thấy mục tiêu mà Khôrưsép bắn vào.
Sau đó, Dôlôtarép cũng đã trông thấy bọn Đức đang luồn qua các gốc cây để vọt tiến.
Khẩu súng máy của Khôrưsép vừa lên tiếng thì cạnh đó một khẩu trung liên cũng cất tiếng và xa hơn về phía bên phải là một khẩu đại liên.
Còn các loạt đạn tiểu liên Đức vẫn quạt vào đám cành cây trên đầu.
Dôlôtarép đã mấy lần kịp thời nổ súng vào bọn Đức đang vọt tiến. Sau đó thấy bọn chúng nằm rạp cả xuống.
Khôrưsép liền ra hiệu vọt tiến. Họ vọt tiến lên chừng một trăm thước rồi lại chiếm lĩnh vị trí.
Nhưng quân Đức cũng không hề chờ đợi: những quả đạn súng cối hạng nhẹ của chúng đã bắt đầu nổ giữa các gốc cây nhưng bóng lính Đức đang vợt tiến lại đã thấy hiện ra ở đằng trước
Khẩu súng máy của Khôrưsép và những khẩu khác ở bên phủi anh lại nhả đạn, ép chặt quân Đức xuống đất, và các anh lại thay đổi vị trí.
- Làm thế nào bây giờ? - Dôlôtarép bò lại gần Khônrưsép hỏi. - Cho tôi một chiến sĩ để tôi đi tìm, đem chính trị viên về...
- Cậu đi đâu được bây giờ? - Khôrưsép ngắt lời, - Ngốc hết sức. Nào, cậu định đi đâu, chỉ xem nào, đi vào chỗ nào?
Dôlôtarép cũng đành đưa tay chỉ vu vơ, nhưng bản thân cũng đã thấy được rằng bây giờ do diễn biến của trận đánh, quân Đức đã nằm chắn ngang giữa mình với nơi mình định đến để tìm Xintxốp.
- Đáng lẽ phải cõng đi ngay lúc ấy, chứ bây giờ còn làm thế nào được nữa! - Khôrưsép giận dữ nói.
- Thì tôi đi một mình vậy! - Dôlôtarép nói.
- Đừng có đâm đầu vào thòng lọng! Kìa, nổ súng đi! Thấy không, bọn “phritx” đang tiến kia!
Quả là bọn Đức lại đang len lỏi chạy giữa những gốc cây, và lần này chúng đã tiến lại gần hơn trước. Mặc dầu tuyệt vọng trong lòng, nhưng vẫn tỏ ra cố gắng và thành thạo như khi làm bất cứ việc gì trong đời lính, Dôlôtarép bắt đầu nổ súng vào những bóng màu xanh lục đang vọt tiến phía trước mặt mình.
Trung úy Khôrưsép cùng mười chiến sĩ của mình và mười chiến sĩ xe tăng, trong một khu vực nhỏ hẹp đêm ấy, vẻn vẹn chỉ có thế mà yểm hộ cả một bên sườn cho lữ đoàn xe tăng của Klimôvíts chọc thủng hậu tuyến quân Đức.
Về phần mình, lữ đoàn Klimôvíts cũng chỉ là một trong những đơn vị thuộc mặt trận phía tây, sau khi đi qua hậu tuyến của quân Đức vẫn tiếp tục chiến đấu, vừa rải xác quân mình và xác quân địch trong các khu rừng vùng lân cận Maxcơva, vừa công phá vành đai quân Đức suốt đêm hôm ấy, suốt ngày hôm sau và cả một nửa đêm sau nữa, bị mất tới nửa quân số, nhưng dù sao vẫn đột phá ra được khỏi vòng vây.
Họ lập nên chiến công thần kỳ đó bằng hỏa lực ít, máu nhiều. nhưng sau khi đã phá vây, họ vẫn không hề được nghỉ ngơi và bổ sung thêm, mà vẫn phải ở lại nguyên tại chỗ.
Hỏa tuyến vẫn mỗi lúc một nhích lại gần Maxcơva, và trong những ngày ấy, tiền duyên của quân ta chốc chốc lại vỡ ra trước những đòn công kích của quân Đức. Người ta đã lấp ngay một trong những lỗ hổng đó bằng những đơn vị vừa ra khỏi vòng vây, sau khi đã tiếp tế lương thực, lựu đạn và đạn súng bộ binh cho họ.
Ngay tối hôm ra khỏi vòng vây, những chiến sĩ đó đã lại phải chiến đấu, nhưng bây giờ mặt trận của họ không quay về hướng đông mà quay về hướng tây, Maxcơva không ở đằng trước họ nữa mà ở đằng sau họ, và họ đã có một ít pháo binh cùng các bạn láng giềng bên phải và bên trái. Và mặc dầu đã mệt mỏi quá mọi sức chịu đựng của con người, họ vẫn vui mừng về việc đó.
Nhưng Dôlôtarép vẫn cảm thấy mình là một con người bất hạnh, và mặc dầu anh chỉ là một con người bé nhỏ, một binh nhì không hơn không kém, ngay buổi sáng hôm thứ hai sau khi ra khỏi vòng vây, anh đã chứng minh được cho mọi người thấy rằng anh cần phải được gặp lữ đoàn trưởng xe tăng, trung tá Klimôvíts.
Nhờ một sự tình cờ hoàn toàn, Klimôvíts vừa thoát chết trong một trận pháo kích dầy đặc của địch. Anh mới từ đài quan sát trở về chỉ huy sở và đang đứng bên một ngôi trường làng đã bị đạn đại bác hủy hoại. Anh bỏ mũ, giơ cái đầu nhẵn nhụi ra hứng lấy những giọt mưa thu đang đều đặn rơi xuống, như người ta gội đầu dưới cái hương sen, trông thật khoan khoái.
- Cứ mưa thế này cho một tuần là thấy nhau ngay, đường sá sẽ ngập hết, hai bên đều vất vả nhưng bọn Đức vẫn sẽ gay hơn, - anh vừa nói với một đại úy xe tăng đứng cạnh mình, vừa liếc mắt nhìn Dôlôtarép mới bước tới.
- Gì thế đồng chí?
Dôlôtarép báo cáo đầu đuôi sự việc. Anh thấy rõ là lữ đoàn trưởng không có thời giờ nói chuyện với mình lâu, nhưng Klimôvíts đã nghe anh nói mà không tỏ vẻ sốt ruột gì. Trung tá chỉ ngắt lời một lần, khi Dôlôtarép nói rằng mình có nghe chính trị viên bảo là đồng chí ấy có quen biết đồng chí trung tá.
- Chuyện quen biết thì không dáng kế! - Klimôvíts cắt ngang. - Ngày nào chúng ta cũng bỏ mình cho cả những người quen và không quen, có phân biệt gì đâu! Trong chiến tranh thì quen với biết mà làm gì?!
Và giọng nói của anh đượm nỗi chua xót của một người đã chính mắt mình trông thấy biết bao con người tốt chết đi, đến nỗi không phải do dửng dưng mà là vì lòng công bằng anh đã không thể thương tiếc một người nào nhiều hơn tất cả mọi người khác được.
Khi Dôlôtarép nói xong và móc giấy tờ của Xintxốp ở trong áo quân phục ra, anh có nói thêm, nhưng cũng chỉ vẻn vẹn mấy câu thôi.
- Sao, cậu đã không quay lại tìm anh ấy nên bây giờ lương tâm cắn rứt lắm hả?
- Vâng.
- Thế cậu, khi đi, tưởng là sẽ quay trở về được đấy hả?
- Vâng.
- Thế thì chẳng có gì phải tự trách mình cả đâu. Mình muốn làm cho thật tốt, nhưng sự việc lại xảy ra theo mệnh lệnh của chiến tranh kia! Có nhiều trường hợp cả ông trời cũng chẳng đoán ra nữa! - Ngay phút đó, Klimôvíts sực nhớ rắng nếu chính mình không quyết định làm thế nào cho tốt hơn, không để cho gia đình đi từ Xlônin đến Xlútxk bằng xe ôtô thì họ đã không bị chết trong trận ném bom đó, mà nếu cứ để sáu giờ sau mới ra đi bằng xe lửa thì họ lại vẫn còn sống sót như nhiều gia đình khác.
- Đưa đây!
Anh cầm mọi giấy tờ của Xintxốp từ tay Dôlôtarép trao cho người đại úy đứng cạnh mà báo:
- Ivanốp, cậu cất vào chỗ các giấy tờ của chúng ta ấy.
Anh không nói rõ ý của mình. Nhưng cả hai người đều hiểu rõ: giấy tờ của tất cả những người đã bỏ mình trong chiến đấu đều lần lượt được xếp vào một chiếc hòm sắt như táng vào một nấm mồ chung, và chiếc hòm sắt ấy đã đi theo họ trong suốt thời gian vượt vòng vây...
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét