Những người sống và những người chết
Tác giả: Kônxtantin Ximônốp
Người dịch: Trọng Phan & Hà Ngọc
Người biên tập: Lê Anh Hiền
Nhà xuất bản Cầu vồng - Maxcơva - 1987
Chương Hai
Trời vừa sáng, bốn chiếc xe tải của tòa
soạn đã phóng ra khỏi cổng nhà in. Trên mỗi xe có hai phóng viên và một chục
tập báo mới in xong. Phương pháp phát hành vẫn như hôm qua: chở báo tỏa đi khắp
các ngả đường, gặp người của đơn vị nào thì phân phát cho đơn vị ấy, đồng thời
dọc đường thu lượm tài liệu cho số báo sau.
Xintxốp chỉ ngủ cả thảy được có ba giờ trên
nền nhà in, mà lại ngủ làm hai giấc, vì lúc gần sáng đã bị tổng biên tập đến
đánh thức dậy mất một lần. Hoàn toàn đờ đẫn, anh cất mình đứng dậy, ra vòi té
nước vào mặt, rồi siết chặt thắt lưng, bước ra sân, ngồi vào buồng lái chiếc xe
tải. Mãi khi xe sắp chạy sang con đường ô tô Bôbruixk, anh mới thật tỉnh hẳn.
Trên trời, có tiếng máy bay gầm rú, ở phía sau, một cuộc không chiến đã diễn ra
trên không phận Môghilép: những chiếc máy bay ném bom Đức đang bổ nhào xuống
đánh chiếc cầu bắc qua sông Đniép, còn những chiếc tiêm kích yểm hộ cho chúng -
có tới bảy hoặc tám chiếc - thì đang giao chiến ở tít trên cao với một bộ ba
chim kền kền ngắn mũi của ta cất cánh từ sân bay Môghilép.
Xintxốp đã từng nghe nói là ở Tây Ban Nha
và Mông Cổ, những con chim kền kền nhỏ đó đã trị được những máy bay tiêm kích
Đức, Ý và Nhật. Ở đây cũng vậy, lúc đầu một chiếc “Messerschmitt 109” đã bốc
cháy và rơi xuống. Nhưng sau đó, hai chiếc tiêm kích của ta lộn nhào và rơi
xuống liền một lúc. Trên không chỉ còn lại mỗi một chiếc.
Xintxốp cho đỗ xe lại, bước xuống và theo
dõi thêm gần một phút nữa, xem chiếc tiêm kích của ta nhào lộn giữa đám máy bay
Đức. Rồi tất cả những chiếc tiêm kích cùng biến trong mây còn những chiếc máy
bay ném bom thì vẫn gầm rú, bổ nhào xuống chiếc cầu mà dường như chúng không
tài nào đánh trúng được.
- Thế nào, ta đi chứ? - Xintxốp hỏi người
cùng đi với mình đang ngồi trên những tập báo ở trong thùng xe. Đó là một chính
trị viên phó có cái tên như tên con gái: Liuxin.
Cậu Liuxin này là một anh chàng đẹp trai,
hồng hào, cao lớn, lanh lẹ, có mớ tóc hoe hoe lòi ra khỏi vành chiếc mũ kêpi
mới toanh và đỏm dáng. Cậu ta mặc bộ quân phục có nếp phẳng phiu, chẽn mình
trong những chiếc đai da mới toanh, lại luôn đeo khẩu cácbin cũng mới toanh
trên vai, nên trông có vẻ quân nhân hơn hết thảy mọi quân nhân mà Xintxốp đã
gặp trong những ngày vừa qua, và Xintxốp lấy làm sung sướng thấy mình may mắn
có một người bạn đường như vậy.
- Báo cáo chính trị viên, xin tuân lệnh, -
Liuxin hơi nhổm dậy đáp và đưa tay lên vành mũ.
Ngay từ đêm qua, khi họ cùng nhau lên khuôn
và phát hành tờ báo, Xintxốp đã để ý tới sự cố gắng giữ đúng điều lệnh của
Liuxin, một sự cố gắng hiếm có trong đám cán bộ tòa báo quân đội.
- Có lẽ tôi cũng sẽ lên ngồi trong thùng xe
đấy, - Xintxốp báo.
Nhưng Liuxin đã phản đối một cách có lễ độ:
- Báo cáo chính trị viên, tôi không dám
khuyên đồng chí làm như thế đâu ạ! Cán bộ chỉ huy cấp trên phải ngồi trong
buồng lái kia ạ, nếu không cũng có điều bất tiện cơ đấy. Người ta sẽ có thể
chặn xe lại. - Rồi anh ta lại đặt tay lên vành chiếc mũ kêpi.
Xintxốp ngồi vào buồng lái và xe chuyển
bánh. Cũng vẫn chỉếc xe vận tải tấn rưỡi và vẫn người lái xe hôm qua đã đưa anh
từ bộ tham mưu mặt trận trở về Môghilép. Thú thực anh cùng muốn chuyển ngồi lên
hòm xe, vì sợ người lái xe lại gợi những câu chuyện về bọn phá hoại hôm trước
ra để tán cho đỡ buồn. Nhưng người lái xe ngồi sau tay lái, mặt cau có không
nói một lời nào. Hoặc là anh ta đã không ngủ được đẫy giấc, hoặc anh ta không
khoái cái chuyện đi về phía Bôbruixk này.
Xintxốp thì trái lại, tinh thần rất phấn
chấn. Hồi đêm đồng chí tổng biên tập có kể với anh rằng hôm qua, bên kia sông
Bêrêdina, ở cửa ngõ Bôbruixk, các đơn vị của ta đã đánh cho quân Đức tơi bời,
và anh hy vọng hôm nay được đến đó.
Cũng như nhiều người khác vốn bản tính
không nhút nhát, đã từng trải qua và chịu đựng những ngày chiến tranh đầu tiên
trong cảnh hoang mang bỏ chạy tán loạn trên các con đường gần mặt trận, lúc này
anh đã bị một sức mạnh đặc biệt lôi cuốn về phía trước, nơi hai bên đang giáp
chiến.
Quả thực người tổng biên tập cũng không sao
cho biết đích xác được là những đơn vị nào đã đánh cho bọn Đức tơi bời và việc
đó đã xảy ra cụ thể ở chỗ nào. Nhưng do thiếu kinh nghiệm, nên Xintxốp cũng
chẳng lo ngại gì lắm về điều này. Anh đã mang theo tấm bản đồ mà người tổng
biên tập đã đưa ngón tay vạch xung quanh Bôbruixk một cách mơ hồ, và bây giờ
anh vừa đi vừa nhìn bản đồ, tính áng chừng xem đi ba chục cây số một giờ như
thế này thì sẽ mất bao lâu. Té ra mất tới khoảng ba tiếng đồng hồ.
Ngay sau khi ra khỏi Môghilép, lúc đầu anh
thấy có những cánh đồng với những khu rừng nhỏ xen kẽ. Một dải cỏ cây xanh um
bị những vạt đất hung đỏ - cái rộng, cái hẹp - cắt đứt quãng ở nhiều nơi: người
ta đang đào những công sự và hố chống xe tăng ở hai bên đường. Hầu hết những
người làm việc đều mặc thường phục. Chỉ thỉnh thoáng mới thấy những chiếc áo
quân phục mùa hè của những người công binh điều khiển công việc thấp thoáng
giữa những chiếc áo cánh và những tấm khăn quàng.
Sau đó, xe chạy vào một khu rừng rậm rạp.
Bốn bề xung quanh liền trở nên vắng vẻ và im lìm. Chiếc xe vận tải tấn rưỡi
chạy mãi, chạy hoài trong rừng mà chẳng gặp một ai: không người, không xe cộ.
Thoạt đầu Xintxốp không lo ngại gì lắm cả. nhưng về sau anh bắt đầu cảm thấy có
vẻ kỳ lạ. Bộ tham mưu mặt trận đóng ở Môghilép, nhưng trận chiến đấu với quân
Đức đang diễn ra ở bên kia Bôbruixk, anh cho rằng giữa hai điểm đó tất phải có
cảc ban tham mưu và có bộ đội đóng, và như vậy nhất định phải có xe cộ chạy đi
chạy lại.
Nhưng họ đã đi được nửa đường, lại thêm
được mười cây số rồi lại mười cây số nữa, mà trên đường cái vẫn vắng tanh như
trước. Cuối cùng, ở một ngã tư, chiếc xe tải của Xintxốp suýt nữa thì đâm phải
một chiếc “Emka” từ đường rừng xông ra. Xintxốp mở cửa xe, giơ tay vẫy. Chiếc
“Emka” đỗ lại. Trong xe có một đại úy bộ binh tự giới thiệu là sĩ quan tùy tùng
cho một chỉ huy trưởng quân đoàn bộ binh. Thấy hiện giờ tất cả những tập báo
vẫn còn nằm nguyên trong xe, Xintxốp định đi theo anh ta để phân phát báo cho
các đơn vị của quân đoàn. Nhưng người sĩ quan tùy tùng vội trả lời rằng anh vừa
đi vắng một thời gian về, quân đoàn đã di chuyển đi đâu chẳng rõ. Bây giờ chính
anh cũng đang đi tìm đơn vị, cho nên đi theo anh là việc vô ích, tốt hơn hết là
hãy bỏ cho anh vài tập báo vào chiếc “Emka”, khi nào tìm thấy quân đoàn anh sẽ
phân phát hộ. Liuxin bèn lấy ra hai tập trong hòm xe đưa cho đại úy, ông ta ném
những gói đó lên ghế sau, rồi chiếc “Emka” rú ga, biến vào sau lùm cây, còn
chiếc xe tải thì tiếp tục chạy theo hướng Bôbruixk.
Những chiếc “Messerschmitt” bay qua đầu mấy
lần. Rừng lan ra sát tận đường cái, máy bay thường lao ra từ sau ngọn cây một
cách bất ngờ, do đó chỉ có một lần Xintxốp kịp nhảy phắt ra khỏi xe. Nhưng bọn
Đức không bắn vào chiếc xe tải này, chắc là chúng đang bận những việc quan
trọng hơn.
Theo bản đồ thì chỉ còn có mười cây số nữa
là đến bờ sông Bêrêdina. Nếu những cuộc chiến đấu đang diễn ra phía sau
Bôbruixk, ở bờ sông bên kia, thì những bộ phận hậu cần hoặc những đoàn xe vận
tải thứ hai tất phải đóng ở bờ sông bên này. Xintxốp hết quay đầu sang phải lại
quay sang trái, căng mắt nhìn sâu vào trong rừng rậm
Tình trạng vắng lặng một cách khó hiểu trên
đường cái mỗi lúc một làm cho anh thêm bồn chồn.
Bỗng người lải xe hãm sịch xe lại.
Nơi ngã tư ăn thông vào một con đường hẻm
chạy tít về phía chân trời, một người lính hồng quân không có súng, đeo hai quả
lựu đạn ở thắt lưng, đang đứng bên vệ đường.
Xintxốp bèn hỏi xem anh ta thuộc đơn vị nào
và có người chỉ huy nào ở gần đây không.
Người lính hồng quân bảo rằng anh ta thuộc
một đội quân gồm hai chục người do một trung úy chỉ huy. Mới chiều hôm qua, đội
anh được xe tải chở từ Môghilép tới đây, đặt vọng gác để giữ những cá nhân lẻ
tẻ đi từ phía tây lại rồi dẫn họ về bên trái theo đường hẻm tới khu kiểm lâm là
nơi trung úy đang thành lập đơn vị.
Căn vặn thêm thì được biết rằng anh đã đứng
ở đây từ chiều hôm qua, rằng ở Môghilép người ta đã phát cho họ hai người một
khẩu súng trường, theo hiệu lệnh: “Người thứ hai lấy người thứ nhất làm
chuẩn!”, rằng lúc đầu có hai người đứng gác, nhưng gần sáng người bạn cùng gác
với anh đã chuồn mất, rằng trong thời gian đó, anh đã dẫn được chừng sáu chục
cá nhân đi lẻ tới giao ở khu kiểm lâm, nhưng còn bản thân anh thì chắc người ta
đã quên mất: không ai đến đổi gác cho anh mà từ hôm qua tới nay anh chẳng được
miếng gì vào bụng cả.
Xintxốp liền cho anh một nửa số bánh
bíchcốt nhét đầy trong túi dết và ra lệnh cho người lái xe cho xe chạy tiếp.
Đi được một cây số nữa thì có hai người
cảnh sát mặc áo mưa bằng vải nhựa màu xám từ trong rừng nhảy vọt ra chặn xe
lại.
- Báo cáo đồng chí chỉ huy, - một người
trong bọn họ nói, - đồng chí có mệnh lệnh gì không ạ?
- Mệnh lệnh nào? - Xintxốp ngạc nhiên hói
lại. - Các đồng chí có thủ trưởng của các đồng chí chứ?
- Chúng tôi không có thủ trưởng ạ, - người
cảnh sát nói, - hôm kia chúng tôi được phái đến khu rừng này để bắt bọn nhảy dù
do quân Đức thả xuống, nhưng bây giờ bọn chúng đã vượt qua sông Bêrêdina rồi
thì chúng còn thả dù làm gì nữa chứ!
- Ai nói với đồng chí thế?
- Người ta bảo thế. Đấy, đã có tiếng trọng
pháo... Đồng chí không nghe thấy sao?
- Không có lẽ! - tuy nói vậy nhưng khi lắng
tai nghe, chính Xintxốp cũng thấy hình như ở phía trước có tiếng gầm của trọng
pháo thật, - Láo toét! - để tự trấn an mình anh ngắt lời với một giọng biểu lộ
sự bướng bỉnh nhiều hơn là lòng tin tưởng.
- Báo cáo thủ trưởng, - người cánh sát nói,
mặt anh ta tái nhợt nhưng đầy vẻ kiên quyết, - chắc là đồng chí đang trên đường
về đơn vị. Xin đồng chí cho chúng tôi được đi theo, phiên chế cho chúng tôi vào
đơn vị! Chẳng lẽ chúng tôi cứ chờ ở đây cho tới khi bọn phát xít treo cổ chúng
tôi lên cành cây sao? Hay chúng tôi cởi bỏ quân phục đi chăng?
Xintxốp đáp rằng quả thực anh đang đi tìm
một đơn vị nào đó và nếu anh em cảnh sát muốn đi với anh thì họ cứ việc trèo
lên xe.
- Nhưng đồng chí sẽ đi đâu ạ? - người cảnh
sát hỏi.
- Đến đằng kia, - Xintxốp chỉ tay một cách
mơ hồ về phía trước. Thực ra lúc này chính anh cũng không biết mình đi đâu và
đi tới bao giờ nữa.
Người cảnh sát nói chuyện với Xintxốp liền
đặt chân lên bánh xe. Người kia lại níu lấy áo mưa kéo anh ta lại thì thầm cái
gì đó, rõ ràng không muốn đi về hướng Bôbruixk.
- À, thế thì cậu đi đi! - người cảnh sát
thứ nhất vặn lại, khinh bỉ giằng ra và thúc giày vào ngực bạn, băng mình qua
thành xe.
Xe chuyển bánh. Người cảnh sát thứ hai bối
rối đứng nhìn xe lướt qua trước mặt, rồi thất vọng khoát tay, chạy theo bám lấy
thành xe và cất mình qua thành xe, lăn vào bên trong. Dù sao ở lại một mình
cũng vẫn đáng sợ hơn là tiến lên phía trước.
Sáu máy bay ném bom ban đêm to lớn kiểu
“TB-3” bốn động cơ lừ lừ bay trên khu rừng với tiếng rống ì ì chậm chạp tưởng
chừng như chúng không bay mà đang bò trên trời. Bên cạnh chúng, không thấy một
máy bay tiêm kích nào của ta. Xintxốp lo lắng nghĩ đến những chiếc “Messerschmitt”
vừa mới sục sạo trên đường xong và anh cảm thấy trong người bồn chồn. Nhưng
những chiếc máy bay ném bom biến khỏi tầm mắt một cách yên ổn và mấy phút sau
đã nghe có tiếng những quả bom hạng nặng nổ ở phía trước.
Theo những cột mốc thấp thoáng hiện ra bên
đường thì chỉ còn bốn cây số nữa là đến bờ sông Bêrêdina. Bây giờ Xintxốp đinh
ninh rằng mình sắp sửa gặp những đơn vị quân ta, vì dù sao cũng không thể nào
lại không có ai ở bờ bên này sông được. Bỗng lại có mấy người từ trong rừng
nhảy vọt ra, vẫy tay cuống cuồng. Người lái xe nhìn Xintxốp có ý hỏi, nhưng
Xintxốp không nói gì và xe vẫn tiếp tục chạy. Những người đã nhảy ra đường bèn
chụm tay lên miệng làm loa gọi với theo í ới:
- Đỗ lại! - Xintxốp bảo người lái xe.
Một trung sĩ công binh thở hổn hển chạy đến
bên xe và hỏi Xintxốp xem xe đi đâu.
- Đi Bôbruixk.
Người trung sĩ lau mồ hôi nhễ nhại trên mặt
và sau khi nuốt nước bọt đánh ực một cái khiến cục hầu đưa lên đưa xuống trên
cổ, anh cho biết là bọn Đức đã vượt sang bờ bên này Bêrêdina rồi.
- Đức gì vậy?
- Xe tăng...
- Ở chỗ nào?
- Cách đây bảy trăm mét. Chúng tôi vừa
choảng nhau với chúng xong! - trung sĩ chỉ tay về phía trước. - Toàn đội chúng
tôi đang tiến theo hành trình đã định để tới khu vực gài mìn thì bị một xe tăng
của chúng nã súng ra, chỉ một quả đại bác đã giết mất của chúng tôi mười người.
Đây, chúng tôi còn có... - anh lúng túng nhìn những người lính hồng quân đứng
bên, - còn lại có bảy người cả thảy... ít ra cũng có lấy một quả bộc phá hay
một ít lựu đạn, chứ còn cái ngữ này thì làm gì được xe tăng?! - Trung sĩ bực
tức nện báng súng xuống đất.
Xintxốp vẫn phân vân chưa chịu tin rằng
đích thực bọn Đức đã tiến gần đến thế, nhưng động cơ chiếc xe tải đã tắt và lập
tức nghe rõ tiếng súng máy nổ ròn phía bên trái đường sắt ngay cạnh đó, chắc
hẳn là ở bên này sông Bêrêdina.
- Báo cáo đồng chí chính trị viên! - lần
đầu tiên trong suốt chặng đường, Liuxin từ trong hòm xe cất tiếng nói ra. -
Đồng chí cho phép nói ạ? Có lẽ chúng ta hãy quay trở lại chờ cho đến lúc điều
tra rõ tình hình.
Nỗi sợ hãi lộ rõ trên sắc mặt thường vốn
hồng hào của anh ta, lúc đó đã tái nhợt đi, tuy vậy anh ta vẫn nói với Xintxốp
theo đúng điều lệnh.
- Quay lại thôi. - Xintxốp nói và mặt cũng
tái đi nốt.
Cho tới giờ anh không hề nghĩ rằng chỉ đi
nửa cây số hay một cây số nữa là họ sẽ sa vào tay bọn Đức! Sau khi nhả côn, rú
ga ầm ĩ, người lái xe cho xe quay trở lại và trước mặt Xintxốp thoáng hiện ra
những bộ mặt bối rối của các chiến sĩ bị anh bỏ lại trên đường.
- Đỗ lại! - xấu hổ với thái độ yếu đuối của
mình, anh quát lên và bóp vào vai người lái xe mạnh đến nỗi anh này bị đau kêu
ai ái. - Trèo lên xe đi! - Xintxốp thò đầu ra khói buồng lái gọi những người
lính hồng quân. - Đi theo tôi.
Mặc dầu đã phục vụ một năm rưỡi trong tòa
báo quân đội, đây là lẩn đầu tiên trong đời anh thực sự ra lệnh cho những người
khác theo quyền hạn của người có nhiều sao trên phù hiệu hơn họ. Những người
lính hồng quân lần lượt nhảy lên thùng xe, chỉ có người cuối cùng là lề mề ì
ạch. Các bạn đều đưa tay dìu kéo anh lên và mãi bây giờ Xintxốp mới nhận ra là
anh ta bị thương: một chân anh ta đi ủng, còn chân kia đã phải tháo ủng ra, bê
bết máu.
Xintxốp liền nhảy ra khỏi buồng lái, ra
lệnh xếp cho người bị thương ngồi vào chỗ của mình. Thấy mệnh lệnh của mình
được tuân theo, anh tiếp tục ra lệnh, và mọi người lại nghe theo anh. Người
lính hồng quân đã được chuyển lên ngồi ở buồng lái, còn Xintxốp thì trèo sang
thùng xe. Bị thôi thúc trước tiếng súng máy bây giờ nghe mỗi lúc một rõ thêm,
người lái xe phóng xe quay trở lại Môghilép.
- Máy bay! - một chiến sĩ hốt hoảng kêu
lên.
- Máy bay ta đấy! - một người khác nói.
Xintxốp ngửng đầu nhìn lên. Ba chiếc “TB-3”
bay không cao lắm, đang quay trở về ngay phía bên trên đường. Những tiếng bom
nổ mà Xintxốp vừa nghe thấy chắc hẳn là kết quả công việc chúng đã làm. Bây giờ
chúng quay về một cách bình yên vô sự, thong thả lấy lại độ cao tối da. Nhưng
cũng như ban nãy, khi những chiếc máy bay này bay đi ném bom, bây giờ linh tính
nhạy bén vẫn báo cho Xintxốp biết là sẽ có chuyện không hay xảy ra khi chúng trở
về.
Quả thế, từ một nơi nào ở phía trên cao,
một chiếc “Messerschmitt” bé nhỏ, nhẹ nhàng như một con ong bò vẽ, đột nhiên
lao ra khỏi những đám mây thưa thớt và bắt đầu đuổi theo mấy chiếc máy bay ném
bom với một tốc độ đáng sợ.
Mọi người ngồi trên xe tải im lặng bám chặt
lấy thành xe, quên cả bản thân và cả nỗi kinh hoàng vừa choán lấy tâm trí họ,
quên tất cả mọi sự trên đời, nơm nớp nhìn lên trời. Chiếc “Messerschmitt” bay xiên qua phía dưới đuôi chiếc máy bay ném
bom cuối cùng đã bay tụt lại sau hai chiếc kia và chiếc máy bay ném bom này lập
tức bốc cháy một cách đột ngột, tựa hồ như khi người ta châm lửa vào tờ giấy
đặt trong lò vậy. Nó còn tiếp tục bay, vừa bay vừa chúi thấp xuống và mỗi lúc
một bốc khói nhiều hơn, sau đó lơ lửng tại chỗ trong chốc lát rồi rơi xuống
rừng, để lại một vệt khói đen trên không.
Chiếc “Messerschmitt” lấp lánh dưới ánh nắng thành một mảnh thép
mỏng manh, vút lên cao, lộn trở lại và rít lên, lao vào đuôi chiếc máy bay ném
bom thứ hai. Tiếng súng máy vang lên ùng ục một loạt ngắn. Chiếc
“Messerschmitt” lại vọt lên cao, còn chiếc máy bay ném bom thứ hai thì kéo lê
trên khu rừng chừng nửa phút, mỗi lúc một nghiêng về một bên cánh rồi lộn ngửa
ra, đâm sầm xuống khu rừng theo chiếc thứ nhất.
Chiếc “Messerschmitt” rít lên, nhào lộn một
vòng rồi theo đường chếch từ phía trên lại sà xuống đuôi chiếc máy bay ném bom
thứ ba, chiếc cuối cùng đang bay phía trước nó.
Và cảnh tượng ban nãy lại diễn ra lần nữa:
tiếng súng máy ùng ục từ xa khẽ vọng đến, tiếng rít lanh lảnh của chiếc
“Messerschmitt” đang vút lên sau khi bổ
nhào, một làn khói đen dài lặng lẽ trải ra trên khu rừng và tiếng nổ ầm ầm đằng
xa.
- Máy bay ta lại còn đến nữa kìa! - một
trung sĩ đã hốt hoảng kêu lên, khi mọi người chưa kịp hoàn hồn sau cảnh tượng
vừa trông thấy.
Anh ta đứng trong thùng xe đưa cả hai tay
lên vẫy, nom kỳ dị tựa hồ như muốn ngăn lại và cứu thoát một tốp ba chiếc máy
bay nữa vừa đi ném bom về, từ phía sau hiện ra trên khu rừng.
Xintxốp hết sức sửng sốt nhìn lên không,
hai tay nắm chặt lấy chiếc quai đeo súng lục; người cảnh sát ngồi bên anh thì
chắp tay lại như cầu nguyện các phi công hãy trông thấy, nhanh nhanh trông thấy
con ong bò vẽ bằng thép đáng sợ đang quay cuồng ở trên trời kia!
Tất cả mọi người ngồi trên xe cũng đều cầu
khấn như vậy, nhưng các phi công hoặc là không nhận thấy gì hoặc là đã trông
thấy nhưng không thể làm gì được. Chiếc “Messerschmitt” lao vút lên những đám
mây và bỗng biến mất. Xintxốp thoáng nảy ra tia hy vọng là tên phi công Đức đó
không còn đạn nữa.
- Trông kìa, chiếc thứ hai! - người cảnh
sát nói. - Trông kìa, chiếc thứ hai!
Và Xintxốp đã trông thấy không phải một
chiếc mà là hai chiếc “Messerschmitt” nữa đã từ trong đám mây lao ra. Và gần
như sát cánh nhau, với một tốc độ ngoài sức tưởng tượng, chúng đã đuối kịp ba
chiếc máy bay đang bay lừ đừ, lướt ngang qua chiếc bay cuối cùng. Chiếc máy bay
ném bom này bắt đầu bốc khói, còn chúng thì hí hửng vọt lên cao như vui mừng
được gặp gỡ nhau và tránh nhau ở trên không, chúng đổi chỗ cho nhau rồi lại
lướt trên đầu chiếc máy bay ném bom, xả súng máy ròn rã. Nó lập tức bùng cháy
và rơi xuống, rã ra từng mảnh ngay khi còn ở trên không.
Thế rồi hai chiếc tiêm kích ấy lại đuổi
theo những chiếc ném bom kia. Hai chiếc máy bay nặng nề vẫn cố ngóc lên cao.
bướng bỉnh kéo lê, kéo lê mãi trên khu rừng, rời xa chiếc xe tải đang đuổi theo
chúng trên đường với những con người lặng lẽ quây quần lại với nhau trong một
nỗi đau khổ chung.
Lúc này, những phi công trên hai chiếc máy
bay bay đêm âm thầm ì ạch ấy đang nghĩ gì, hy vọng vào cái gì? Họ có thể làm gì
được ngoài việc kéo lê mãi trên khu rừng với một tốc độ chậm chạp đến tuyệt
vọng và chỉ còn mỗi một hy vọng là địch sẽ chủ quan, thiếu tính toán và bất ngờ
tự lao đầu vào mũi súng máy đặt ở đằng đuôi những máy bay của họ.
“Tại sao không nhảy dù nhỉ? - Xintxốp nghĩ
thầm - Hay là họ chẳng có dù nữa cũng nên?”
Lần này thì tiếng súng máy nổ trước khi
những chiếc “Messerschmitt” đến gần được chiếc máy bay ném bom: nó đã tìm cách
bắn trả lại. Rồi chiếc “Messerschmitt” đã bổ nhào đến gần sát chiếc máy bay ném
bom ấy bỗng không ngóc lên được nữa, và biến mất sau rừng. Tất cả những sự việc
đó đã diễn ra nhanh như chớp đến nỗi những người ngồi trên xe tải cũng không
kịp hiểu ngay là chiếc máy bay Đức đã bị hạ nữa; đến khi hiểu ra, họ đã reo hò
vui sướng, nhưng tiếng hò reo lập tức ngừng bặt lại: chiếc “Messerschmitt” thứ
hai đã lại một lần nữa lướt qua trên chiếc máy bay ném bom và bắn cháy nó. Lần
này, hình như để trả lời những ý nghĩ của Xintxốp, mấy hòn nhỏ kế tiếp nhau văng
ra từ chiếc máy bay này, một hòn lao vút xuống như một hòn đá, còn phía trên
bốn hòn kia thì đã xòe ra những chiếc dù.
Tên phi công Đức đã bị mất đồng bọn liền
xoay ra lượn tròn trên đầu những người nhảy dù, xả súng máy để trả thù. Nó bắn
chết những phi công đang lơ lửng trên khoảng rừng - những người ngồi trên xe
tải đều nghe thấy những loạt đạn ngắn gọn của nó. Tên Đức tiết kiệm đạn, nhưng
những chiếc dù hạ xuống rừng quá chậm khiến cho tất cả những người đi trên xe
lúc này, nếu có thể nhìn được nhau thì đều sẽ thấy tay họ đang cùng làm một động
tác giống nhau, như muốn nói lên: xuống đi, xuống đi, xuống đất đi !
Chiếc “Messerschmitt” lượn vòng trên đầu
các phi công nhảy dù, theo họ xuống tới tận rừng, sà xuống sát trên ngọn cây
tựa hồ như còn tìm kiếm cái gì ở dưới đất, rồi biến mất.
Chiếc máy bay ném bom thứ sáu, chiếc cuối
cùng đã nhòa đi ở phía chân trời. Trên bầu trời chẳng còn gì nữa, tưởng như
trên đời này không hề và chưa bao giờ có những chiếc máy bay to lớn, chậm chạp
và bất lực ấy; chẳng có cả máy bay, cả những người ngồi trên đó, cả tiếng súng
máy ùng ục, cả những chiếc “Messerschmitt”, - chẳng có gì cả, chỉ có bầu trời
hoàn toàn trống không với mấy cột khói đen đã bắt đầu tỏa lan trên khu rừng.
Xintxốp vẫn đứng trên chiếc xe tải đang
phóng trên đường, anh khóc nấc lên vì uất hận. Vừa khóc anh vừa đưa lưỡi liếm
những giọt nước mắt mằn mặn chảy xuống môi và không nhận thấy là tất cả mọi
người cũng đang cùng khóc với anh.
- Đỗ lại! Đỗ lại! - anh sực tỉnh trước tiên
và nắm tay đấm thình thình lên nóc buồng lái.
- Gì thế? - người lái xe ló đầu ra hỏi.
- Phải đi tìm mới được! - Xintxốp nói. -
Phải đi tìm, biết đâu có thể họ vẫn còn sống, những anh em nhảy dù xuống ấy
mà...
- Nếu muốn tìm họ thì phải đi thêm một
quãng nữa, đồng chí thủ trưởng ạ. Họ bị gió đẩy đi đấy, - người cảnh sát nói,
mặt anh sưng mọng nước mắt như mặt một đứa trẻ con.
Họ đi thêm một cây số nữa rồi dừng lại và
xuống xe. Ai nấy đều nhớ là quân Đức đã vượt qua sông Bêrêdina, nhưng đồng thời
cũng quên khuấy cả điều đó. Khi Xintxốp ra lệnh chia nhau đi men theo hai bên
vệ đường để tìm các phi công thì không ai bàn cãi gì nữa cả.
Xintxốp, hai người cảnh sát và người trung
sĩ sục sạo hồi lâu trong khu rừng bên phải đường, hú gọi ầm ĩ nhưng cũng chẳng
tìm thấy ai: không thấy anh em phi công mà cũng chẳng thấy có chiếc dù nào. Thế
nhưng những anh em đó đã rơi xuống đâu đây, trong khu rừng này, nhất định phải
tìm bằng được, nếu không thì bọn Đức sẽ tóm được họ. Sau một giờ tìm kiếm kiên
trì và vô hiệu, cuối cùng Xintxốp đành chịu trở ra mặt đường.
Liuxin và những anh em khác đều đã đứng bên
xe. Mặt mũi Liuxin sây sát, chiếc áo sơ mi bộ đội rách toạc, còn hai túi áo thì
nhét đầy ắp đến nỗi một bên đứt bật cả cúc. Tay anh ta vẫn cầm một khẩu súng
lục.
- Báo cáo đồng chí chính trị viên, chúng nó
đã bắn chết cả hai người, - Liuxin nói với vẻ đau khổ và đưa tay chùi bộ mặt
sây sát.
- Đồng chí làm sao vậy?
- Tôi vừa trèo lên một cây thông. Tội
nghiệp một đồng chí bị mắc tít trên ngọn cây, treo ngược chân lên trời. Đồng
chí ấy đã tắt thở, chúng nó đã bắn chết đồng chí ấy từ lúc còn ở trên không.
- Còn người thử hai?
- Cũng bị giết nốt.
- Tên phát xít coi người như rác! - một
chiến sĩ hồng quân căm thù nói.
- Tôi đã thu lượm lại giấy tờ, - Liuxin nói
và sờ tay vào chiếc tủi đã bị đứt khuy. - Trao lại cho đồng chí chứ ạ?
- Đồng chí cứ giữ lấy.
- Vậy xin đồng chí cầm lấy khẩu súng lục, -
Liuxin trao cho Xintxốp khẩu “Braoninh” xinh xắn.
Xintxốp xem qua khẩu “Braoninh” rồi nhét
vào túi.
- Còn đồng chí không tìm thấy gì sao, đồng
chí chính trị viên? - Liuxin hỏi.
- Không.
- Nhưng tôi cho rằng những người nhảy dù
xuống bên phải đường đã bị gió tạt đi xa hơn,- Liuxin nói. - Phải đi thêm
khoảng bốn trăm mét nữa, tất cả xuống xe dàn hàng ngang ra mà càn khu rừng.
Nhưng họ chẳng phải càn khu rừng. Khi xe
chạy được thêm bốn trăm thước nữa và đỗ lại thì đã thấy một phi công thấp lùn,
to ngang, mặc sơ mi bộ đội mùa hè và đội chiếc mũ bay sụp xuống tận mắt đang từ
trong rừng đi về phía họ, vừa đi vừa cúi gập người vì vác nặng. Anh cõng một
phi công thứ hai mặc bộ áo liền quần. Anh này bị thương, tay quàng qua cổ bạn,
còn chân thì kéo lê dưới đất.
- Đỡ lấy! - người phi công nọ nói gọn lỏn.
Liuxin và những người lính hồng quân chạy
lại đỡ lấy người bị thương ở trên vai anh ta, đặt xuống vệ cỏ bên đường. Cả hai
chân người phi công này đều đã bị bắn nát, anh nằm trên cỏ, thở nặng nhọc, đôi
mắt khi thì mở ra khi thì nheo lại. Trong lúc Liuxin nhanh nhẹn dùng dao díp
rạch ủng, rạch quần áo, rồi lấy băng cá nhân băng bó cho người bị thương thì
người phi công thấp lùn, bỏ mũ ra lau mồ hôi nhễ nhại trên mặt và làm mấy động
tác thư duỗi đôi vai ê ẩm vì vác nặng. Sau khi đã lau mồ hôi xong, đội mũ vào
rồi ấn sụp nó xuống tựa hồ như chính anh không muốn nhìn ai mà cũng không muốn
cho ai trông thấy mặt mình, cuối cùng anh buồn bã hỏi:
- Các đồng chí trông thấy rồi chứ?
- Ngay trên đầu chúng tôi... - Xintxốp nói.
- Các đồng chí thấy đấy, chúng nó đã tiêu
diệt những con chim ưng của Xtalin như lũ mèo mù, - người phi công mở đầu câu
chuyện. Giọng anh run run chua chát, nhưng rồi anh đã lấy lại được nghị lực,
không nói gì thêm nữa, kéo sụp thêm chiếc mũ xuống mặt.
Xintxốp nín lặng. Anh không biết trả lời ra
sao.
- Tóm lại, chúng tôi đã đánh trúng được nơi
địch vượt sông, đã nhận chìm được cái cầu cùng lũ xe tăng của chúng xuống nước,
đã hoàn thành được nhiệm vụ, - người phi công nói. - Giá mà có ít ra cũng là
một chiếc tiêm kích đi yểm hộ cho cả bọn chúng tôi!
- Chúng tôi cũng đã tìm thấy hai đồng chí
khác, nhưng họ hy sinh cả rồi, - Xintxốp nói.
- Chúng tôi cũng chết dở, - người phi công
nói. - Các đồng chí đã thu lượm lại giấy tờ và vũ khí cả rồi chứ? - Anh nói
tiếp với một giọng khác hẳn, giọng của một người quyết tâm lấy lại bình tĩnh và
đã hoàn toàn trấn tĩnh.
- Đã thu lượm cả rồi, - Xintxốp nói.
- Một đồng chí hoa tiêu cừ nhất trung đoàn
về bay mò và bay đêm đấy, - quay sang phía người bị thương đang được Liuxin
băng bó, người phi công nói. - Hoa tiêu của tôi đấy! Một tổ bay cừ nhất trung
đoàn, thế mà đã bị nướng rẻ như bèo! - Anh ta lại nghẹn ngào kêu lên rồi vụt lấy
lại bình tĩnh như hồi nãy, anh hỏi một cách thiết thực: - Ta đi chứ?
Người ta đặt anh hoa tiêu bị thương lên
thùng xe sát vào buồng lái cho đỡ xóc và lót vài chồng báo dưới chân anh. Người
phi công ngồi cạnh người hoa tiêu của mình, ở đằng sau, đoạn tất cả anh em khác
cũng lên xe. Xe chuyển bánh nhưng rồi đỗ sịch lại gần như ngay sau đó.
Đây chính là cái ngã tư mà hồi nãy Xintxốp
đã chia bánh bíchcốt cho người lính gác. Người chiến sĩ hồng quân vẫn đứng ở đó
như trước, khi trông thấy chiếc xe tải trở lại liền nhảy ra giữa đường vung quả
lựu đạn lên tựa hồ như sắp sửa ném nó vào gầm xe.
- Báo cáo chính trị viên, - anh ta nói với
một giọng làm cho Xintxốp thấy lạnh toát cả người. - Báo cáo chính trị viên,
thế là thế nào ạ? Hai ngày đêm mà không đổi gác... Báo cáo chính trị viên, chả
lẽ không có một lệnh nào khác hay sao?
Xintxốp cũng biết nếu trả lời dứt khoát
rằng sẽ không có lệnh nào khác, rằng sẽ có người đến đổi gác thì nhất định anh
ta vẫn cứ sẽ đứng mãi ở đó thôi. Nhưng ai bảo đảm đích thực là sẽ có người đến
đổi gác cho anh ta?
- Tôi cho phép đồng chí rời trạm gác, -
Xintxốp nói, cố nhớ lại công thức ra lệnh mà cấp trên phải dùng để đổi gác, nó
hình như đã cố tình nhảy ra khỏi đầu óc anh đúng vào giây phút này. - Tôi cho
phép đồng chí rời khỏi trạm gác, đồng chí sẽ báo cáo sau! - Anh nhắc lại vì
không nhớ ra được điều gì khác và sợ người chiến sĩ thấy mệnh lệnh phát ra
không được chính xác sẽ không tuân theo, sẽ cứ ở lại trạm gác và sẽ bị giết. -
Lên xe đi với tôi!
Người lính thở dài nhẹ nhõm, cài lựu đạn
vào thắt lưng rồi trèo lên đằng sau xe.
Xe vừa chuyển bánh thì trên trời lại hiện
ra ba chiếc “TB-3” nữa đang bay về phía Bôbruixk. Lần này chúng được một máy
bay tiêm kích hộ tống. Chiếc tiêm kích bay vút lên trời cao rồi lại lao vùn vụt
xuống phía trên đoàn máy bay ném bom để điều hòa sự vận động chậm chạp của bạn
với tốc độ nhanh gấp đôi của mình.
- Ít ra phi đội này cũng được hộ tống, -
anh phi công của chiếc máy bay ném bom đã bị hạ nói với Xintxốp; giọng nói của
anh lộ rõ một tâm tình nhẹ nhõm, khác hẳn với tai họa mà chính anh vừa gặp
phải.
Nhưng Xintxốp chưa kịp trả lời thì hai
chiếc “Messerschmitt” đã từ trong mây
bất thình lình vọt ra. Chúng lao tới những chiếc máy bay ném bom; chiếc tiêm
kích của ta liền lộn trở lại đón đánh chúng, trên đường bay đón đầu đã vút
thẳng lên cao, lật cánh, lướt qua một chiếc “Messerschmitt” và bắn cháy nó.
- Cháy rồi, cháy rồi! - người phi công reo
lên. - Trông kìa, cháy rồi!
Thù được trả, niềm vui sướng tràn ngập
trong lòng những người ngồi trên xe. cả người lái xe cũng buông một tay, vươn
cả người ra khỏi buồng lái. Chiếc “Messerschmitt” bốc cháy rơi xuống; tên phi
công từ trong máy bay bung ra, mở dù cao tít trên không.
- Bây giờ cả chiếc thứ hai cũng sẽ bị hạ
cho mà xem - người phi công reo lên. - Đấy, trông kia! - Anh ta cứ lắc tay
Xintxốp hoài mà không để ý.
“Con chim kền kền nhỏ” đang vọt thẳng lên
cao, nhưng không hiểu sao chiếc máy bay Đức thứ hai đã bay ở phía trên nó rồi;
tiếng súng máy lại âm vang, chiếc “Messerschmitt” bay vút ngược lên, còn chiếc
tiêm kích của ta thì bốc khói đâm nhào xuống. Từ trong máy bay văng ra một hòn
nhỏ đen đen và, với một tốc độ nhanh đến nỗi hầu như mắt thường không thấy kịp,
nó rơi xuống mỗi lúc một thấp và mãi khi tới sát ngọn thông, vào lúc tưởng
chừng như không còn hy vọng gì nữa thì cuối cùng chiếc dù mới xòe ra. Chiếc
“Messerschmitt” ung dung đảo một vòng rộng rồi bay về hướng Bôbruixk đuổi theo
những chiếc máy bay ném bom.
Người phi công đứng phắt dậy trong thùng
xe, chửi rủa kinh khủng và vung cả hai tay lên, nước mắt chảy ròng ròng trên
mặt. Còn Xintxốp đã trông thấy tất cả cái cảnh đó tới lần thứ năm rồi, giờ đây
đành ngảnh mặt đi để khỏi phải thấy thêm một lần nữa. Anh chỉ nghe tiếng súng
máy lại ùng ục từ đằng xa vẳng tới, nghe thấy người phi công nghiến răng kèn
kẹt, thất vọng kêu lên: “Thế là xong”, rồi thấy anh ta đưa tay lên che mặt,
ngồi phịch xuống sàn xe.
Xintxốp ra lệnh dừng xe lại. Chiếc dù của
tên Đức vẫn lơ lửng cao tít trên đầu, còn người phi công của ta đã xuống tới
đất và cứ theo mắt nhìn thì cách đây không xa lắm, chỉ chừng hai cây số về phía
Bôbruixk.
- Đồng chí vào rừng tóm cố tên phát xít ấy
lại! - Xintxốp bảo Liuxin. - Mang chiến sĩ đi theo!
- Bắt sống chứ ạ? - Liuxin hỏi một cách
năng nổ.
- Tùy tình hình!
Đối với Xintxốp thì việc bắt sống hay giết
chết tên Đức đó cũng đều được cả, anh chỉ muốn sao cho khi những tên Đức khác
đến đây thì thằng này không gặp được bọn chúng nữa, thế thôi!
Hai người bị thương là người hoa tiêu và
người chiến sĩ đang ngồi trong buồng lái đều được đưa xuống và đặt dưới gốc
cây. Người được cắt lại để canh phòng cho họ là anh đội viên có lựu đạn mà
Xintxốp đã cho thôi gác. Xintxốp nghĩ thầm: “Dù có xảy ra chuyện gì chăng nữa
thì anh ta cũng không thể bỏ rơi những người bị thương”.
Liuxin, trung sĩ và các chiến sĩ khác vào
rừng bắt tên Đức, còn Xintxốp thì mang theo người phi công và hai người cảnh
sát đánh xe quay trở lại.
Họ lại chạy về hướng Bôbruixk, hết sức chú
ý quan sát hai bên đường, hy vọng rằng đứng trên xe cũng có thể trông thấy
chiếc dù, tưởng là nó đã hạ xuống ngay sát đường.
Chính trong lúc đó thì quả là người phi
công mà họ đi tìm đang nằm cách đường một trăm bước trong một khu rừng thưa
nhỏ. Không chịu để cho bọn Đức bắn mình ở trên không, anh đã bình tĩnh mở dù
thật chậm, nhưng không tính toán được đến nơi đến chốn, anh giật nút dù chậm
mất mấy giây. Chiếc dù gần như xuống sát mặt đất mới mở, người phi công bị gẫy
cả hai chân, cột sống gẫy nát do đập vào một gốc cây cụt. Lúc này anh nằm bên
gốc cây đó, biết rằng thế là hết: cơ thể từ thắt lưng trở xuống không sao điều
khiển được nữa, đã liệt mất rồi, dù có muốn bò trên mặt đất cũng không thể
được. Anh nằm nghiêng, vừa khạc ra máu vừa nhìn lên trời. Chiếc “Messerschmitt”
đã hạ anh đang đuổi theo những chiếc máy bay ném bom lúc này không được bảo vệ
gì nữa, trên bầu trời đã thấy một chiếc tỏa khói ở đằng đuôi.
Cái người đang nằm trên mặt đất ấy chưa bao
giờ sợ chết cả. Trong quãng đời ngắn ngủi của mình, đã nhiều lần anh bình thản
nghĩ rằng một lúc nào đó anh có thể bị bắn rơi hay bị bắn cháy, cũng như anh đã
nhiều lần bắn rơi và bắn cháy những kẻ khác vậy. Mặc dầu bản chất can đảm của
anh đã làm bạn bè phải thèm muốn, vậy mà lúc này anh thấy khiếp sợ đến tuyệt
vọng.
Anh bay đi hộ tống tốp máy bay ném bom,
nhưng một chiếc đã bốc cháy ngay trước mắt anh, hai chiếc khác thì biến về phía
chân trời và anh không còn giúp gì cho chúng được nữa. Anh cho là mình đã nằm
trong khu vực bị bọn Đức chiếm và căm giận nghĩ tới lúc bọn phát xít sẽ đứng
bên cạnh anh, vui mừng thấy kẻ chết lăn lóc dưới chân chúng là một người mà kể
từ năm một nghìn chín trăm ba mươi bảy, từ cuộc chiến tranh Tây Ban Nha, đã
được báo chí nói đến hàng chục lần! Cho tới nay anh vẫn lấy làm tự hào và đôi
khi còn kiêu hãnh về điều đó. Nhưng lúc này anh sẽ sung sướng, nếu chưa bao giờ
báo chí viết gì về anh hết, nếu bọn phát xít khi tới đây chỉ thấy xác của một
thượng úy vô danh bốn năm trước đây đã hạ chiếc “Focke-Wulf” đầu tiên trên bầu
trời Mađrít, chứ không phải xác của trung tướng Côdưrép. Anh căm giận và thất
vọng nghĩ rằng dù cho anh có đủ sức để xé nát giấy tờ đi nữa thì bọn Đức vẫn
nhận ra anh và sẽ khoe khoang là đã hạ được Côdưrép, một trong những phi công
thiện chiến đầu tiên của Liên Xô, bằng một giá rẻ mạt.
Lần đầu tiên trong đời anh nguyền rủa cả
cái ngày giờ mà trước đây anh vẫn lấy làm tự hào, khi chính Xtalin đã gọi anh
về, sau những trận chiến đấu ở Khankhingôn và đề bạt thẳng từ đại tá lên trung
tướng, bổ nhiệm anh chỉ huy lực lượng tiêm kích của cả một quân khu.
Bây giờ giáp mặt cái chết, anh không cần
phải dối trá ai nữa cả: anh chẳng chỉ huy được ai ngoài bản thân mình, và tuy
đã là cấp tướng nhưng thực ra anh vẫn chỉ là một thượng úy. Điều đó đã được
chứng thực ngay từ ngày đầu chiến tranh một cách vô cùng khủng khiếp, và chẳng
phải chỉ đối với riêng mình anh. Lý do của những sự đề bạt kiểu chớp nhoáng như
vậy là lòng dũng cảm tuyệt vời và những tấm huân chương kiếm được bằng xương
máu. Nhưng những ngôi sao cấp tướng không đem lại cho anh năng lực chỉ huy hàng
ngàn con người và hàng trăm máy bay.
Trong suốt những năm gần đây, những năm
tháng đã khiến anh say sưa ngây ngất, thì lúc này dở sống dở chết, thịt nát
xương tan, nằm ì trên mặt đất mà không đủ sức để nhích khỏi chỗ, lần đầu tiên
anh cảm thấy thấm thía tất cả tính chất bi thảm của biến cố đã xảy ra với mình
và toàn bộ mức độ nghiêm trọng trong sự lầm lỗi vô tình của mình, lầm lỗi của
một người đã vọt thẳng một mạch lên đến tột đỉnh vinh quang, vượt qua những bậc
thang dài dằng dặc trong võ nghiệp. Anh nhớ lại là mình đã tỏ ra chẳng lo lắng
gì đối với cuộc chiến tranh sắp bùng nổ và khi chiến tranh xảy ra thì mình đã
chỉ huy tồi. Anh nhớ lại những sân bay của mình với nửa số máy bay không trong
tình trạng sẵn sàng chiến đấu, nhớ lại những chiếc máy bay của mình đã bốc cháy
ngay trên mặt đất, nhớ lại những phi công của mình đã liều lĩnh cất cánh dưới
bom đạn và đã hy sinh mà chẳng kịp bay lên cao. Anh nhớ lại những mệnh lệnh mâu
thuẫn mà chính mình đã phát ra giữa cơn hoang mang và choáng váng trong những
ngày đầu, trong khi lồng lộn lái chiếc tiêm kích, liều cả mạng mình từng giờ
từng phút mà rốt cuộc vẫn hầu như không kịp cứu vãn được gì.
Anh nhớ lại bức điện trối trăng ngày hôm
nay của một trong những chiếc “TB-3” nọ đã đi ném bom nơi địch vượt sông và đã
bị bắn cháy. Việc phái những máy bay đó đi ban ngày thiếu sự yểm hộ của máy bay
tiêm kích là điều không thể được, là một tội lỗi, nhưng họ vẫn tình nguyện ra
đi và đã cất cánh, vì dù sao chăng nữa cũng phải phá bằng được nơi địch vượt
sông, mà máy bay tiêm kích để yểm hộ thì không còn nữa.
Sau khi hạ được một chiếc “Messerschmitt”
gặp dọc đường, lúc đỗ xuống sân bay Môghilép, anh thấy trong ống nghe tiếng nói
rất quen thuộc của thiếu tá Isencô, một người bạn cũ của anh từ hồi ở trường
không quân Elét: “Nhiệm vụ đã hoàn thành. Chúng tôi đang trở về. Bốn chiếc đã
bị bắn cháy, bây giờ đến lượt tôi. Chúng tôi xin hy sinh cho Tổ quốc. Vĩnh
biệt! Gửi lời cảm ơn Côdưrép đã yểm hộ chu đáo cho chúng tôi!” - nghe xong anh
đưa hai tay lên ôm lấy đầu, ngồi thừ ra đến một phút, cố xua đuổi ý định muốn
rút súng lục ra tự sát ngay trong căn phòng sĩ quan trực chiến này. Rồi anh hỏi
xem những chiếc “TB-3” có còn phải đi ném bom nữa không, nhưng người ta báo anh
rằng chiếc cầu đã bị phá hủy, nên có lệnh phải phá hủy cả bến sông cùng với
những phương tiện vượt sông của địch nữa; cũng như trước, người ta vẫn không có
một phi đội ném bom ban ngày nào trong tay, cho nên lại một tốp ba chiếc “TB-3”
nữa đã cất cánh.
Nhảy ra khỏi phòng thường trực, chẳng nói
với ai một lời nào, anh ngồi vào chiếc tiêm kích và bay lên. Khi ra khỏi đám
mây và trông thấy những chiếc máy bay ném bom còn nguyên vẹn và không bị sứt mẻ
đang bay ở phía dưới thì đó là một trong những phút hạnh phúc ít ỏi của anh
trong suốt những ngày gần đây. Nhưng một phút sau, anh đã giáp chiến với những
chiếc “Messerschmitt” và kết quá của trận chiến đấu đó là rốt cuộc anh vẫn bị
chúng bắn rơi.
Ngay từ ngày đầu chiến tranh, khi hầu hết
những chiếc tiêm kích “MIG” mới mà quân khu vừa nhận được ít lâu đã bị thiêu cháy
trên các sân bay, anh đã chuyển sang lái một chiếc “I-16” cũ kỹ để lấy tấm
gương của bản thân mình mà chứng minh rằng với những chiếc máy bay đó vẫn có
thể giao chiến với những chiếc “Messerschmitt” được. Dĩ nhiên là có thể chiến
đấu được thật, nhưng khó khăn đấy, bởi vì tốc độ không đủ.
Nhất định không để bị bắt làm tù binh, điều
đó thì rõ rồi, nhưng anh chỉ phân vân không biết nên tự sát vào lúc nào, nghĩa
là nếu bọn Đức lại gần thì thoạt tiên hãy cố giết được một thằng đã, hay là nên
tự sát trước để khỏi bị ngất xỉu và bị bắt làm tù binh trong khi chưa kịp tự
kết liễu đời mình.
Trước khi chết, anh chẳng cảm thấy khiếp sợ
gì, mà chỉ lấy làm buồn rằng mình sẽ chẳng bao giờ biết được mọi việc rồi đây
sẽ ra sao. Phải, chiến tranh đã ập đến thật bất ngờ; phải, chúng ta đã không
kịp trang bị lại bằng vũ khí mới; phải, cả anh và nhiều người khác lúc đầu đã
chỉ huy một cách kém cỏi, đã lúng túng. Nhưng toàn bộ bản chất quân nhân của
anh, lòng tin của anh vào quân đội mình, vào đồng chí mình và cuối cùng là lòng
tin vào chính mình, - vì dù sao hôm nay anh cũng đã bổ sung thêm được hai tên
phát xít nữa vào số hai mươi chín tên đã bị hạ ở Tây Ban Nha và Mông Cổ, - tất
cả những cái đó đã chống lại ý nghĩ khủng khiếp cho rằng cả sau này nữa bọn Đức
cũng sẽ tiếp tục đánh lui chúng ta như trong những ngày đầu. Giá hôm nay anh
chưa bị chúng hạ thì anh sẽ còn cho chúng biết tay. Và nhất định chúng ta sẽ
còn cho chúng biết tay! Niềm tin say sưa ấy đang rạo rực trong tấm thân gãy nát
của anh, song một ý nghĩ tối tăm vẫn ám ánh như một cái bóng đen: “Nhưng ta sẽ
không bao giờ được trông thấy điều đó nữa”.
Như những người có tâm hồn chật hẹp, vợ anh
thường hay phóng đại địa vị của mình trong cuộc sống của chồng và sẽ không bao
giờ tin rằng trong giờ hấp hối của anh, anh đã không nghĩ đến chị ta. Nhưng sự
thực đúng là như thế, và không phải vì anh không yêu - anh vẫn yêu vợ - mà
chẳng qua là vì anh đã nghĩ đến một điều khác hẳn. Điều anh đang nghĩ đó là một
điều bất hạnh lớn lao đến nỗi bên cạnh nó không sao dung chứa được một nỗi đau
khổ nhỏ mọn, một nỗi đau khổ không có gì đáng sợ trong giây phút này, nỗi đau
khổ vì không bao giờ còn được trông thấy bộ mặt mỹ miều mà giả dối nữa.
Người ta bảo rằng trước khi chết, con người
thường ôn lại tất cả cuộc đời mình. Cũng có thể như vậy, nhưng anh thì trước
khi nhắm mắt anh chỉ nhớ có chiến tranh! Người ta bảo rằng trước khi chết con
người thường nghĩ đến nhiều việc cùng một lúc. Cũng có thể như vậy, nhưng trước
khi nhắm mắt anh chỉ rặt nghĩ đến chiến tranh. Rồi trong com chập chờn nửa tỉnh
nửa mê, khi chợt nghe thấy tiếng người và khi cặp mắt đẫm máu trông thấy có ba
bóng người tiến lại gần thì lập tức anh không nhớ đến cái gì khác ngoài chiến
tranh, không nghĩ đến điều gì khác ngoài ý nghĩ rằng bọn phát xít đang tiến lại
gần anh và anh phải bắn chúng trước rồi sẽ tự sát sau. Khẩu súng lục đang nằm
trên cỏ dưới tầm tay anh, anh đưa bốn ngón tay sờ soạng cái báng xù xì của nó,
còn ngón thứ năm thì đặt vào cò. Anh nhắc tay khỏi mặt đất một cách khó khăn
rồi liên tiếp bóp cò bắn vào những bóng người xam xám nhòe nhoẹt trong màn
sương mù đỏ máu. Khi đã đếm được năm phát và vẫn còn sợ đếm nhầm, anh lần đưa
khẩu súng lục lên mặt và bắn vào mang tai mình.
Hai người cảnh sát cùng Xintxốp dừng lại
bên cạnh xác của người phi công đã tự sát. Trước mặt họ là một người máu me đầm
đìa, đội mũ phi công, đôi phù hiệu màu xanh da trời trên cổ áo sơ mi quân phục
có đính những ngôi sao cấp tướng.
Mọi việc đã diễn ra chớp nhoáng đến nỗi họ
không kịp định thần. Họ vừa từ trong bụi rậm đi ra khoảng rừng thưa, thấy người
phi công nằm trên cỏ liền kêu ầm lên và chạy tới, thế nhưng mặc cho họ kêu:
“Quân ta đây!”, anh ta cứ nổ súng bắn liên tiếp vào họ. Sau đó, khi họ chạy
được gần tới nơi thì anh đưa tay lên thái dương, giãy giụa rồi đờ ra.
Người cảnh sát nhiều tuổi hơn quỳ xuống cởi
khuy trên túi áo quân phục rồi hãi hùng móc ra giấy tờ của người đã hy sinh,
còn Xintxốp thì bàng hoàng đứng lặng thinh bên cạnh, một tay giữ rịt lấy mạng
sườn bị trúng đạn, chưa cảm thấy đau đớn mà mới chỉ thấy ê ẩm và thấy máu thấm
ra qua áo sơ mi. Ba ngày trước đây anh đã bắn chết một người mà anh muốn cứu
sống, còn bây giờ thì một người khác mà anh cũng muốn cứu sống suýt nữa lại
giết chết anh, nhưng sau đó đã tự sát và lúc này đang nằm dưới chân anh như
người chiến sĩ đã mất trí và đã chết trên đường hôm nọ.
Có lẽ người phi công này tưởng các anh là
bọn Đức do những chiếc áo mưa bằng vải cao su màu xám của anh em cảnh sát
chăng? Nhưng chả lẽ anh ta lại không nghe thấy những tiếng kêu: “Quân ta! Quân
ta!” của các anh sao?
Một tay giữ rịt bên sườn sẫm máu, Xintxốp
quỳ xuống và đón ở tay người cảnh sát tất cả những gì đã lấy ra được từ túi áo
ngực của người chết. Trước hết, đó là tấm ảnh của một thiếu phụ xinh đẹp, mặt
tròn, miệng mỉm cười với đôi môi nở và mọng. Xintxốp biết chắc chắn là mình đã
có thấy người đàn bà này ở đâu rồi, nhưng không nhớ rõ được là bao giờ và ở chỗ
nào. Dưới tấm ảnh là các thứ giấy tờ như thẻ đảng viên, giấy chứng nhận huân
chương và giấy chứng minh mang tên trung tướng Côdưrép.
“Côdưrép, Côdưrép...” - Xintxốp lẩm bẩm
nhắc lại như vậy trong lúc còn chưa chắp nối được đầu đuôi sự việc, nhưng rồi
anh bừng nhớ ra toàn bộ câu chuyện. Không phải chỉ có bộ mặt người đàn bà này
rất quen thuộc đối với anh, quen thuộc từ những năm cắp sách tới trường - đó là
Nađia hay như ở trường thường gọi chị là Nadia Karavaêva - mà cả một bộ mặt đã
bị một viên đạn làm cho méo mó đến kỳ dị cũng rất quen thuộc với anh qua báo
chí.
Xintxốp vẫn còn quỳ bên xác Côdưrép thì
người lái xe và người phi công của chiếc máy bay ném bom nghe thấy tiếng súng
cũng đã chạy tới. Người phi công nhận ngay ra Côdưrép. Anh ta ngồi xuống cỏ bên
cạnh Xintxốp, lặng lẽ xem giấy tờ xong và trao trả lại cũng lặng lẽ như vậy,
rồi tỏ vẻ ngạc nhiên hơn là buồn nản, anh chỉ nói mỗi một câu:
- Phải, tình hình như thế đấy... - sau đó
anh nhìn Xintxốp vẫn còn quỳ, đang ép chặt tay vào chiếc áo sơ mi ướt sũng và
hỏi: - Cậu làm sao thế?
- Anh ấy bắn đấy... Chắc anh ấy tưởng chúng
tôi là bọn Đức, - Xintxốp hất đầu về phía người chết, nói.
- Cởi áo sơ mi ra tớ băng cho, - người phi
công bảo.
Nhưng Xintxốp đã thoát khỏi tâm trạng thẫn
thờ, nhớ tới bọn Đức đang còn sát nách liền bảo để sau khi lên xe băng cũng
được, còn bây giờ phải mang xác trung tướng đi đã. Hai người cảnh sát lóng
ngóng luồn tay xuống nâng vai Côdưrép lên, người phi công và người lái xe thì
khiêng chân anh ta, còn Xintxốp đi sau cùng, chân nam đá chân chiêu, tay vẫn ép
chặt vết thương và cảm thấy mỗi lúc một đau hơn.
- Phải băng ngay cho cậu mới được, - người
phi công nhắc lại khi đã đặt xác Côdưrép lên xe, khi xe đã chuyển bánh.
Trong lúc xe chạy, anh ta vội vã cởi bỏ áo
quân phục, cởi nốt cả chiếc sơ mi lót của mình ra, rồi bất chấp sự phản đối của
Xintxốp, anh túm lấy vạt áo bằng những ngón tay ngắn chắc nịch, nhanh nhẹn xé
áo ra làm mấy mảnh dài.
- Vết đạn xuyên, chóng lành thôi, - người
phi công vén áo của Xintxốp lên, dùng những mảnh sơ mi của mình băng cho anh,
vừa nói bằng một giọng am hiểu. - Đi đến nơi được đấy, không chết đâu. Thôi,
thả áo xuống, được rồi.
Anh kéo lại áo cho Xintxốp và thất chặt dây
lưng lại ở phía dưới vết thương. Xintxốp kêu ối lên một tiếng.
- Không biết thế quái nào ông ấy lại bắn
vào cậu... - người phi công đưa mắt nhìn Xintxốp, nhìn xác Côdưrép rồi lại nhìn
Xintxốp và nói với giọng có ý xin lỗi.
Mấy phút sau, họ đi đến chỗ đã để những
người bị thương lại hồi nãy.
Người hoa tiêu vẫn mê man bất tỉnh, anh
chiến sĩ hồng quân bị thương ở chân thì nằm ngửa ra, thở hồng hộc. Anh chiến sĩ
đeo lựu đạn ngồi bên cạnh họ.
- Còn các anh em khác đâu?-Xintxốp hói anh
ta.
- Họ chạy lại đằng kia ạ, - người đội viên
chỉ tay về hướng Môghilép. - Gió đưa chiếc dù về tít phía đó. Chắc là họ bắt
được rồi. Đã có tiếng súng, tôi nghe thấy.
Thu xếp cho hai người bị thương và người
đội viên lên xe xong, họ lại tiếp tục di.
Bây giờ đến lượt anh phi công nằn nì bắt
Xintxốp phải ngồi vào buồng lái.
- Mặt cậu cắt không còn giọt máu nữa, đừng
có... - anh ta chửi tục, nhưng có vẻ ân cần săn sóc, nên Xintxốp đành phải nghe
theo.
Chốc chốc đại bác lại nổ ầm ầm ở phía sau
và đôi khi từng cơn gió đưa tiếng súng máy vẳng lại. Đi được hai cây số, họ
dừng xe: vẫn không thấy Liuxin và các chiến sĩ hồng quân đâu cả.
Xintxốp phải chật vật lắm mới nén được ý
muốn tiến xa thêm chút nữa. Anh lại lắng nghe tiếng súng từ phía sau vẳng đến
rồi bảo anh em đành phải chờ ở đây cho tới khi các đồng chí đi bắt tên Đức từ
trong rừng quay ra.
Đằng sau vẫn nghe có tiếng súng.
Xintxốp cảm thấy những cặp mắt đang nhìn
mình dò hỏi, nhưng anh quyết định chờ thêm mười lăm phút nữa và ngồi xuống chờ
đợi.
- Hú gọi lần nữa xem, - khi thấy chiếc kim
phút đã chạy tới vạch dự định trên mặt đồng hồ, anh bèn bảo vậy.
Không biết đến lần thứ mấy người cánh sát
nhiều tuổi hơn đã đưa bàn tay lên miệng làm loa. hú gọi vang rừng, nhưng khu
rừng vẫn lặng thinh như trước.
- Ta đi thêm chút nữa, - Xintxốp nói.
Nhưng họ chẳng phải đi đâu xa, mới tiến
được nửa cây số, họ đã bị một trung úy mặc quân phục bộ đội xe tăng xông ra cản
đường. Nét mặt anh trông dữ tợn. Anh đeo một khẩu tiểu liên Đức trước ngực.
Theo gót anh còn có hai chiến sĩ xe tăng từ rãnh nước ven đường nhô lên, súng
trường lăm lăm trong tay.
- Đứng lại! Các anh là ai? - trung úy giật
tung cửa buồng lái ra.
Xintxốp trả lời là anh ở tòa soạn tờ báo
mặt trận và bây giờ đang tìm những người của mình đi bắt tên phi công Đức.
- Người của anh là ai nhỉ? Mấy người?
Xintxốp đáp mình có cả thảy bảy người: một
chính trị viên phó. một trung sĩ và năm chiến sĩ. Chẳng hiểu tại sao anh bắt
đầu cảm thấy mình có lỗỉ, nhưng vì sao có lỗi thì anh cũng chẳng rõ nữa.
- Đây đây, chúng tôi đã giữ họ lại rồi, họ
viện cớ là chính anh đã giúp cho họ đào ngũ đấy! - trung úy mỉm cười độc địa. -
Thôi, hãy cho xe rời khỏi đường cái và đến gặp đại úy của chúng tôi. Đến đó, ta
sẽ tìm hiểu xem những người nào là của chúng tôi, những người nào là của anh và
cả bản thân anh là ai nữa!
Nhưng lời nói ấy làm cho Xintxốp nổi giận,
nhưng do cảm giác mỗi lúc một rõ rệt về sự lầm lỗi vô tình của mình, anh đã tự
kìm mình lại trước cơn giận dữ. Song anh phi công đã nhoài người ra khỏi hòm
xe, nổi xung thay cho Xintxốp:
- Này, cậu kia, lại đây! - anh ta quát
trung úy. - Tôi là thiếu tá nói chuyện với cậu đây! Lại đây mà thò mũi vào này!
Trung úy im bặt, nhưng những thớ thịt trên
mặt anh ta giật giật một cách dữ tợn. Anh tiến lại gần, nhìn vào trong xe.
Những điều trông thấy nếu chưa làm cho anh thay đổi ý kiến thì cùng làm cho anh
bớt nóng phần nào.
- Cứ đi một trăm mét nữa, thấy có lối vào
rừng thì rẽ vào đó! - trung úy càu nhàu nói với Xintxốp hình như để nhấn mạnh
rằng anh chẳng có gì phải xin lỗi cả. - Dù sao thì tôi cũng được lệnh không để
cho ai đi qua hết...
- Porchiaghin! - anh gọi một trong hai
chiến sĩ xe tăng. - Ngồi lên cái chắn bùn, đưa họ tới chỗ đại úy! Đứng lại! -
anh lại hãm chiếc xe vận tải đã bắt đầu chuyển bánh. - Các chiến sĩ xuống xe
đi! Các đồng chí ở lại đây!
Hai người cảnh sát và người chiến sĩ đeo
lựu đạn đành phải nhảy ngay xuống xe. Cái giọng ra lệnh đó không cho phép họ lề
mề được.
- Thôi đi đi! - trung úy phẩy tay nửa như
ra lệnh cho người chiến sĩ xe tăng của mình đang đứng trên bậc xe, nửa như ra
lệnh cho Xintxốp.
Trong khi chiếc xe tải đè gãy răng rắc
những cành cây ngổn ngang trong rãnh bên đường để tiến vào rừng, Xintxốp thấy
có hai khẩu pháo ba mươi bảy ly giấu dưới những bụi cây, chĩa nòng ra đường.
Hai chiến sĩ dạng háng ngồi đối diện nhau bên hai khẩu pháo. Cạnh họ là một
đống lựu đạn và một cuộn dây điện thoại, họ đang lấy dây xâu lựu đạn lại với
nhau.
Chiếc xe tải lượn ngoằn ngoèo giữa những
gốc cây, chạy vào một khoảng rừng thưa nhỏ, đầy người. Ở đây lại thấy có một
chiếc xe vận tải tấn rưỡi chất đầy những hòm đạn và một đống súng trường đang
đỗ cạnh một xe bọc sắt thông tin loại nhỏ phủ kín những cành thông.
Một chuẩn úy xe tăng đang hô khẩu lệnh nhát
gừng cho khoảng bốn chục chiến sĩ mang súng trường tập hợp lại thành hàng hai,
rồi “đằng sau quay”. Trong đám này thấp thoáng thấy những bộ mặt quen thuộc của
các chiến sĩ đã cùng đi xe với Xintxốp.
Một đại úy xe tăng ngồi xệp trên mặt đất,
đầu đội mũ sắt, khuỷu tay tì lên hòm điện thoại dã chiến, cứ nhắc đi nhắc lại
mãi một câu vào ống nghe:
- Tôi nghe đây, tôi nghe đây, tôi nghe
đây...
Một chiến sĩ xe tăng nữa cũng đội mũ sắt
ngồi cạnh anh ta, còn đằng sau là Liuxin đang đứng nhấp nhổm, đổi hết chân nọ
sang chân kia.
- Tôi muốn biết khi nào họ mới đưa được
mạng lưới liên lạc đến? - đại úy đặt ống nghe xuống, đứng lên và hỏi.
Anh ta đã thừa trông thấy chiếc xe mới chạy
vào và thấy cả Xintxốp cùng người phi công đã kịp thời nhảy xuống xe, nhưng anh
vẫn hỏi câu ấy làm như chưa trông thấy ai cả, và mãi sau đó, mới nhìn chòng
chọc vào những người mới tới.
- Tôi là trợ lý hậu cần của lữ đoàn trưởng
xe tăng mười bảy, còn các đồng chí là ai? - anh hỏi nhát gừng, nhét tất cả vào
mỗi một câu.
Mặc dầu anh tự giới thiệu là trợ lý hậu
cần, nhưng trông bề ngoài, anh hoàn toàn không có vẻ gì là hậu cần cả. Anh có
thân hình cao lớn và mặc bộ áo liền quần lấm láp, rách bươm, đã bị cháy ở cạnh
sườn, cổ tay trái quấn băng tới tận ngón, máu thấm qua băng đã đặc quánh lại,
Anh đeo một khẩu tiểu liên Đức trước ngực giống như khẩu của trung úy còn bộ
mặt anh thì đã lâu không cạo, đen xạm vì mệt nhọc với cặp mắt nảy lửa một cách
dữ dội.
- Tôi là... - người phi công trả lời trước,
nhưng bộ dạng của anh đã cho thấy quá rõ ràng anh là ai.
- Đối với đồng chí thì rõ rồi. đồng chí
thiếu tá ạ, - đại úy giơ tay ngắt lời anh ta. - Đồng chí từ chiếc máy bay ném
bom bị bắn rơi nhảy xuống chứ gì?
Người phi công cau mày, gật đầu.
- Còn đồng chí này đưa giấy tờ đây! - đại
úy tiến một bước về phía Xintxốp.
- Thì tôi đã nói với đồng chí rồi đấy thôi,
- Liuxin đừng đằng sau bèn lên tiếng.
- Còn đồng chí thì hãy im đi! - đại úy
không quay lại mà nói qua vai, ngắt lời anh ta. - Đối với đồng chí thì sẽ có
câu hỏi riêng! Đưa giấy tờ đây! - anh nhắc lại với Xintxốp bằng một giọng cộc
cằn hơn.
- Nhưng anh hãy đưa giấy tờ của anh cho tôi
xem trước đã! - Xintxốp nổi xung vì thái độ thiếu thân thiện ra mặt của đại úy,
bèn quát lên.
- Tôi ở trong khu vực đóng quân của đơn vị
tôi, không phải trình giấy tờ với ai hết! - trái hẳn với Xintxốp, đại úy đáp
bằng cái giọng khe khẽ không ngờ.
Xintxốp đành phải rút giấy chứng minh và
giấy đi phép ra nhưng mãi bây giờ mới sực nhớ là mình chưa kịp lấy giấy tờ mới
ở tòa soạn. Cảm thấy không ổn, anh quay ra phân trần vì sao lại thế này, vì sao
lại thế kia, nhưng điều đó lại chí làm cho tình hình càng không ổn thêm.
- Giấy tờ không rõ ràng lắm, - đại úy trả
lại giấy cho Xintxốp và lầm bầm. - Được, cứ tạm cho là tất cả đúng như đồng chí
nói đi. Nhưng tại sao đồng chí lại lôi kéo những người ở tiền tuyến theo mình
về hậu phương? Ai cho đồng chí cái quyền làm như vậy?
Ngay từ lúc ở đường cái người trung úy nói
với anh điều tương tự như vậy, Xintxốp đã nóng lòng muốn mau chóng phân trần
rằng đó chỉ là một sự hiểu nhẩm. Anh bắt đầu kể lại các chiến sĩ đã chạy xô tới
xe ô tô như thế nào, anh đã cho họ đi theo để cứu họ như thế nào, sau đó đã thu
nhận thêm một chiến sĩ nữa như thế nào.
Nhưng anh ngạc nhiên thấy đại úy không hề
coi tất cả câu chuyện ấy là một sự hiểu nhầm.
Trái lại, chính cái đó lại là điều chủ định
của anh ta.
- Thần hồn nát thần tính, thấy đom đóm cũng
tưởng là ma trơi! Một quả đại bác từ xe tăng bắn ra mà quật chết những mười
người một lúc à, mà lại ở trong rừng nữa?.. Láo toét! Họ đã sợ co vòi lại,
người cán bộ cấp trên đáng lẽ phải tập hợp anh em thì lại bỏ rơi mất một nửa,
rồi chính mình cũng cắm đầu cắm cổ mà chạy trên đường cái. Còn đồng chí thì lại
đi dỏng tai lên mà nghe họ! Đang lúc người này hoảng sợ, kẻ kia về hậu phương
tìm đơn vị, tha hồ dẫn họ về hậu phương, dẫn bao nhiêu mà chẳng được... Phải tìm
đơn vị mình ở phía trước, ở nơi có địch ấy chứ! - Đại úy chửi đổng và sau khi
trút bỏ được nỗi bực dọc, anh nói với giọng ôn tồn hơn, vẫy tay về phía người
chuẩn úy đang luyện tập cho các chiến sĩ: - Kia kìa, đang phải làm cho họ tỉnh
ra kia! Chúng tôi sẽ làm cho họ định thần lại và dẫn họ ra trận! Còn kẻ hoang
mang nào cũng đem xe chở về Môghilép thì thiếu gì, ở hậu phương cũng đủ cái
loại đó rồi! Ở đây chúng tôi đang cần người, lữ đoàn trưởng đã ra lệnh cho tôi,
từ giờ đến chiều, phải thu nhặt xong một đội bổ sung ba trăm người gồm những kẻ
đang lang thang trong rừng, cứ yên chí, tôi sẽ thu nhặt được cho mà xem! Tôi sẽ
lấy cả chính trị viên phó của đồng chí, và cả đồng chí nữa, - đại úy nói tiếp
với giọng khiêu khích bất ngờ.
- Đồng chí ấy bị thương ở bên sườn đấy, -
người phi công hất hàm về phía Xintxốp mà nói, vẫn cau có như bất cứ lúc nào. -
Đồng chí ấy phải đi bệnh viện cấp tốc.
- Bị thương hả? - đại úy hỏi lại, đôi mắt
có ý nghi ngờ như muốn bắt Xintxốp cởi áo ra và chỉ cho xem vết thương.
“Lão ta không tin”, - Xintxốp nghĩ thầm và
anh cảm thấy nhục nhã đến chín người.
Nhưng lúc này chính đại úy cũng đã trông
thấy vết máu thẫm hoen trên tấm áo Xintxốp. Anh quay lại Liuxin:
- Đồng chí hãy báo cáo lại cho chính trị
viên của đồng chí biết tại sao đồng chí từ chối không chịu ở lại chiến đấu. Hay
là đồng chí cùng bị thương nốt, nhưng đã giấu tôi chăng?
- Tôi không bị thương! - giọng Liuxin bỗng
như rít lên và bộ mặt đẹp trai của anh ta đanh lại. - Mà tôi cũng chẳng từ chối
gì hết! Tôi sẵn sàng làm mọi việc! Nhưng tôi có nhiệm vụ của tổng biên tập giao
cho phải đi đến nơi về đến chốn, không có lệnh cấp trên trực tiếp thì tôi không
thể tự ý hành động được.
- Vậy đồng chí ra lệnh cho đồng chí ấy thế
nào? - đại úy hỏi Xintxốp. - Tình hình chúng tôi gay go đấy, cả lô bộ đội mà
tôi chẳng có lấy một cán bộ chính trị. Mới hôm qua vừa thoát khỏi vòng vây, mà
hôm nay đã bị ấn đi lấp lỗ hổng của người khác rồi. Trong khi tôi thu nhặt
người ở đây thì những người cuối cùng của lữ đoàn đang bỏ mạng ở đằng kia, bên
sông Bêrêdina.
- Được, tất nhiên nếu đồng chí muốn thì cứ
ở lại thôi, đồng chí Liuxin ạ, - Xintxốp thản nhiên nói. - Vào địa vị tôi, tôi
cũng sẽ... - Anh ngước mắt nhìn Liuxin, và khi bắt gặp cái nhìn của anh ta, mới
hiểu ra rằng anh ta không muốn ở lại tí nào mà chờ đợi ở anh những lời nói khác
hẳn.
- Thôi, thế là xong nhé, - đại úy nói và
nghiêm nghị quay lại nhìn Liuxin chòng chọc. - Đồng chí đến gặp chuẩn úy và
cùng đồng chí ấy nắm quyền chỉ huy trung đội đi.
- Miễn là đồng chí phải báo cáo cho tổng
biên tập biết cái kiểu tự tiện quyết định này và biết rằng cả đồng chí cũng...
- Liuxin quát thẳng vào mặt Xintxốp, nhưng chưa kịp nói hết câu thì đại úy đã
đưa bàn tay quấn băng xoay mạnh người anh, đẩy về phía trước.
- Đồng chí ấy sẽ báo cáo, đừng lo. Cứ việc
thi hành mệnh lệnh đi. Bây giờ cậu thuộc về lữ đoàn chúng tớ rồi. Mà nếu không
phục tùng thì tớ sẽ cho mất mạng đấy!
Liuxin bước đi, vai so lại và trong phút
chốc, anh không còn cái tư thế của một quân nhân nở nang cân đối và hiên ngang
như trước đây nữa; Xintxốp thì cảm thấy mình đuối sức không sao gượng nổi, phải
ngồi phịch xuống dất.
Đại úy ngạc nhiên nhìn Xintxốp, nhưng khi
sực nhớ ra chính trị viên bị thương, anh định nói một điều gì đó thì chiếc máy
điện thoại đã khẽ reo lên, anh phải vớ lấy ống nghe.
- Thưa đồng chí trung tá, tôi nghe đây! Tôi
đã cho một tổ đi theo đường cũ. Đã lập xong tổ thứ hai. Đi đâu ạ? Tôi sẽ đánh
dấu trên bản đồ ngay bây giờ. - Anh rút ở ngực áo ra một tấm bản đồ gấp tư, đưa
mắt nhìn được một điểm nào đó liền bấm mạnh móng tay xuống đánh dấu. - Đúng thế
ạ, anh em đang phục kích ạ. - Xintxốp hiểu rằng anh ta đang nói đến những khẩu
pháo bên cạnh đường. - Và họ đã xâu lựu đạn thành từng chùm phòng khi cần tới.
Chúng tôi sẽ không để cho chúng đi thoát đâu ạ!
Rồi đại úy ngừng lời, lắng nghe điều gì hồi
lâu, vẻ mặt hớn hở.
- Thưa đồng chí trung tá, rõ ạ! - cuối cùng
anh nói. - Rõ lắm rồi ạ. Và chính ở chỗ chúng tôi đây... - anh định báo cáo
thêm điều gì đó, nhưng rõ ràng đã bị cắt đứt ở bên kia đầu dây. - Vâng, xin thôi
ạ! - anh lúng túng nói. - Tôi cũng đã nói hết rồi.
Anh đặt ống nghe xuống hòm, đứng dậy nhìn
vào mặt người phi công với vẻ mặt tựa hồ như mình có khả năng nói một điều gì
vui mừng với con người có chiếc máy bay vừa bị bốc cháy và đã trông thấy anh em
đồng đội hy sinh ngay trước mắt mình. Và đúng là như vậy, anh đã nói lên được
điều duy nhất lúc này có thể làm cho người phi công vui lòng.
- Trung tá báo rằng hôm nay vị tất địch đã
đột phá được theo con đường cái này. Bọn Đức chỉ mới chuyển qua sông được một
số ít xe tăng. Các đồng chí đã chặn được số xe tăng còn lại ở bên kia sông
Bêrêdina. Cầu đã bị phá tan ra cám, không còn thấy dấu tích gì nữa cả.
- Cầu ra cám thì chúng tôi cũng ra cám nốt,
có gì đâu mà hãnh diện! - người phi công ngắt lời, nhưng qua nét mặt anh, người
ta thấy dù sao anh cũng vẫn lấy làm tự hào về chuyện chiếc cầu đó.
- Chà, các đồng chí bốc cháy mới gớm chứ!
Chúng tôi phải đưa nắm tay lên miệng cắn tưởng đến nát cả tay ra! - đại úy nói.
Anh muốn an ủi người phi công. - Thằng Đức rơi xuống đây, tôi muốn bắt sống nó,
nhưng làm sao thuyết phục anh em điều đó, sau khi họ đã trông thấy tất cả mọi
sự việc.
- Vậy thằng Đức đó đâu rồi? - Xintxốp vừa
hỏi vừa gượng cất mình dậy.
- Ở đây, đằng sau mấy cây thông ấy, nhưng
tốt hơn là đừng nhìn nó làm gì, - đại úy phẩy tay. - Trông nó y như đã bị xe
tăng nghiền vậy... - Rồi nhìn Xintxốp đang tái nhợt người đi vì bị mất máu, anh
nói thêm: - Đồng chí đi đi, đồng chí đã bị thương thì tôi không giữ lại đâu!
- Chúng tôi hãy còn hai người bị thương nữa
nằm trong xe. - Xintxốp nói tựa hồ như vẫn muốn tự bào chữa thêm, - Và một
người chết. - Anh định nói rõ người chết đó là một vị tướng, nhưng lại thôi vì
thấy cũng chẳng để làm gì. - Ta đi thôi, - anh bảo người phi công.
- Nhưng có lẽ tôi sẽ ở lại đây, - người phi
công nói chậm rãi mà cương quyết: suốt thời gian trò chuyện, anh đã suy nghĩ về
vấn đề đó, cuối cùng anh đã quyết tâm và không có ý định thay đổi ý kiến nữa. -
Cậu cấp cho tớ một khẩu súng trường chứ? - anh hỏi đại úy.
- Tớ không cấp đâu, - đại úy lắc đầu một
cách dứt khoát. - Chim ưng yêu quý ơi, tớ không cấp đâu! Tớ biết sử dụng cậu
vào việc gì được, mà cấp cho cậu cái đó thì cũng ăn thua gì kia chứ? Cậu hãy đi
lên kia kìa! - Anh giơ bàn tay quấn băng xỉa lên trời. - Chúng tớ đã phải rút
lui ngay từ ở Slútxk, ngày nào cũng khổ tâm thấy các cậu bay ít quá. Cậu hãy đi
đi, bay đi, lạy trời, đó là tất cả những gì đòi hỏi ở cậu! Còn những việc khác
thì chúng mình sẽ tự làm lấy.
Xintxốp dừng lại bên xe ô tô, chờ xem câu
chuyện đó sẽ kết thúc ra sao.
Nhưng những lời nói của đại úy chẳng làm
cho người phi công động lòng được bao nhiêu. Kể ra nếu có hy vọng lĩnh được
chiếc máy bay mới thay thế cho chiếc đã bị hạ thì chính anh cũng chẳng muốn ở
lại đây đâu, nhưng anh không có hy vọng đó và đã quyết tâm chiến đấu dưới mặt
đất.
- Không cho súng trường thì tớ sẽ tự xoay
lấy, - anh nói với Xmtxốp và Xintxốp hiểu rằng vỏ quít dày đã gặp phải móng tay
nhọn. - Cậu cứ đi di, có điều là hãy đưa hoa tiêu của tớ vào bệnh viện cho chu
đáo nhé.
Người sĩ quan xe tăng im lặng. Khi Xintxốp
ngồi vào buồng lái, người lính xe tăng và người lính máy bay vẫn yên lặng đứng
bên nhau, một người thì cao lớn, một người thì thấp bé to ngang, cả hai đều
bướng bỉnh, dữ tợn, bực bội vì những trận thất bại vừa qua và sẵn sàng xông vào
những cuộc chiến đấu mới.
- Đồng chí đại úy, họ tên đồng chí là gì
nhỉ? - ngồi trong buồng lái rồi, lần đầu tiên từ nãy đến giờ Xintxốp mới sực
nhớ đến tòa báo liền hỏi.
- Tên tôi hả? Định đi khiếu nại hay sao
đây? Chẳng ăn thua gì đâu! Tất cả cái nước Nga này đang dựa vào cái tên của tôi
đây nhé. Ivanốp. Cậu hãy ghi sổ đi. Hay là cứ thế cũng đủ nhớ được rồi?
Khi xe từ trong rừng chạy ra đường cái,
Xintxốp còn một lẩn nữa trông thấy người chiến sĩ mà anh đã cho phép rời khỏi
trạm gác; anh ta đang ngồi cạnh hai chiến sĩ khác và cũng làm một công việc như
họ: xâu lựu đạn vào dây điện thoại từng chùm ba bốn quả một.
Phải đi mất hơn hai tiếng đồng hồ mới tới
được Môghilép. Thoạt tiên một loạt đại bác từ phía sau vọng lại, rồi sau đó bốn
bề trở nên im lặng. Cách thành phố không đầy mười cây số, Xintxốp trông thấy
những khẩu pháo do ngựa kéo đang tiến vào vị trí ở cả bên phải và bên trái
đường, một đoàn bộ binh thì đang hành quân trên đường cái. Anh như đang đi
trong một đám sương mù; anh tưởng mình buồn ngủ nhưng thực ra chốc chốc anh
ngất xỉu đi rồi lại hồi tỉnh lại.
Hai chiếc tiêm kích đang bay tuần phòng
trên bầu trời ngoại ô Môghilép. Cứ thấy cao xạ im hơi lặng tiếng cũng đủ biết
những chiếc tiêm kích đó là của ta. Chăm chú nhìn, Xintxốp nhận ra đó là những
chiếc “MIG”. Anh đã trông thấy những chiếc máy bay kiểu mới này từ dạo mùa xuân
ở Grốtnô. Người ta kháo nhau rằng về tốc độ chúng vượt xa những chiếc
“Métxersmít”.
“Không, tất cả chưa đến nỗi nào đâu”, -
Xintxốp thầm nghĩ qua cơn mệt mỏi và dau đớn, mặc dầu chính anh cũng không hoàn
toàn hiểu rõ rằng lòng tin đó đã đến với anh chủ yếu là do anh nhớ lại các sĩ
quan và chiến sĩ xe tăng đã giữ xe anh lại, nhớ tới người trung úy có tác phong
giống như đại úy của mình và nhớ tới người đại úy mà tác phong chắc hẳn cũng giống
như trung tá của mình, hơn là do trông thấy bộ đội pháo binh chiếm lĩnh trận
địa trước Môghilép hoặc cảnh tượng những chiếc “MIG” đang tuần phòng trên bầu
trời thành phố.
Khi chiếc xe tải đỗ lại trước cửa bệnh
viện, lần cuối cùng Xintxốp lại phải thu hết sức lực, bám chặt vào thành xe,
chờ cho người ta khiêng người hoa tiêu đang mê man, người chiến sĩ đang nghiến
răng rên rỉ và vị trung tướng đã chết xuống xe. Rồi anh ra lệnh cho người lái
xe quay về tòa soạn và báo cáo rằng anh đã ở lại bệnh viện.
Người lái xe kéo thành xe đằng sau lên;
Xintxốp nhìn vào những gói báo đầm đìa máu, chợt nhớ ra hầu như mình chưa phân
phối được gì cả, rồi đứng lại một mình trên đường phố rải đá.
Anh còn tự mình bước được vào phòng tiếp
nhận bệnh nhân. Anh móc giấy tờ của trung tướng ở túi áo ra, đặt lên bàn, sau
đó thò tay vào túi tìm giấy chứng minh của mình rút ra đưa cho chị y tá và
trong khi đợi chị cầm lấy, anh quay người sang bên một cách khác thường, rồi
ngất đi, ngã gục xuống nền nhà.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét