Người Ở Đâu Về
(Wo warst du,
Adam)
Heinrich Theodor
Böll
Nobel 1972
Người dịch: Lý
Quốc Sinh.
Nhà xuất bản Nguồn
Sáng, Sài Gòn - 1972
V
Lúc đó Fanhan đang
mắc ra phố để tìm mua nào kim cúc, nào giấy bìa, nào mực Tàu. Anh chỉ kiếm được
có mỗi khoản giấy bìa, màu hồng, quan Quản nhà ta ưa thích để kẻ bảng. Lượt về,
trời mưa, một trận mưa hâm hấp nóng. Fanhan cố giấu cuộn giấy cồng kềnh dưới
nếp áo choàng ngắn, nhưng khốn nỗi cuộn giấy vừa dài vừa to, khi anh thấy nước
mưa thấm vào mép giấy, và màu hồng bắt đầu hoen ố. Anh rảo bước. Tới ngã tư anh
bắt buộc phải ngừng lại: đoàn xe thiết giáp khổng lồ đang quanh cua một cách
khó khăn, người ta phải xoay đầu ngọn đại bác trước, rồi mới tới đuôi, để chạy
về phía Tây Nam. Dân chúng điềm tĩnh đứng nhìn.
Fanhan tiếp tục
hành trình. Mưa mỗi lúc mỗi thêm mau và nặng hột, cây cối nhỏ giọt. Khi anh tới
được khu phố Trung tâm anh đã tạm thiết lập, mặt đất đen xì đã đầy những ao
nước.
Ngoài cửa Trung
tâm treo một tấm bảng lớn màu trắng, trên kẻ hàng chữ: “Trung tâm Tiếp thương
Sengiớcgi” bằng bút chì màu đỏ lạt. Rồi đây, một chiếc bảng khác bằng giấy bìa
hồng kẻ chữ rông viết mực Tàu, như thế và ai cũng thấy. Trong im lặng hoàn toàn
Fanhan bấm chuông. Bên trong có người bấm vào nút. Anh hướng về đồn gác giơ tay
chào, rồi đi thẳng vào tiền đường. Một khẩu tiểu liên và một khẩu súng trường
treo trên mắc áo. Bên cạnh cửa mỗi phòng đều có một hàn thử biểu, lồng trong
một hộp kiếng. Tất cả đều sạch sẽ. Im lặng tuyệt đối, Fanhan nhón gót đi thật
nhẹ nhàng. Anh nghe thấy tiếng quan Quản đang nói trong điện thoại ở căn phòng
đầu tiên. Trên tường căn phòng lớn ăn thông với các phòng khác treo la liệt
hình các giáo sư, toàn là phụ nữ, và một hình màu chụp thành phố Sengiớcgi.
Quẹo về bên phải,
Fanhan bước qua một cánh cửa thì tới sân trường. Bốn chung quanh sân có cây
lớn, sau dãy tường những căn nhà cao dựng lên san sát. Fanhan ngước mắt lên
khung cửa sổ lầu ba; cánh cửa sổ mở rộng. Anh quay trở lại căn phòng ban nãy,
vòng quanh cầu thang. Trên tường chạy dọc theo cầu thang gắn hình bán thân của
các cựu nữ sinh tốt nghiệp. Tất cả các hình đều được lồng trong một mẫu khung
đồng nhất màu nâu mạ vàng. Hình người ló ra giữa khung bầu dục. Khung ảnh đầu tiên
ghi năm 1918. Thì ra năm cô trong hình đều bận áo trắng hồ bột thẳng nếp và
cũng có nụ cười. Ôi! nụ cười mới buồn làm sao, vì gượng gạo. Fanhan đã nhìn
những tấm hình đó nhiều lần, rất nhiều lần, mỗi ngày trong suốt mấy tuần lễ.
Giữa đám hình các cô nữ sinh, nổi bật hình một bà, bận đồ đen trông dễ sợ, lại
thêm cặp kính kẹp mũi; chắc đây là hình bà Hiệu trưởng. Từ năm 1918 đến năm
1932 vẫn còn hình của bà ta, khoảng thời gian mười bốn năm không tàn phá nét
mặt của bà. Có thể bà vẫn dùng một tấm hình mà bác thợ chụp đã phóng ra nhiều
bản để gắn lên tường. Fanhan bước qua năm 1928. À hình cô nữ sinh này ngộ à! Có
mái tóc buông rủ trước trán chấm riềm mi, nét mặt đẹp đấy, nhưng phải cái hơi
nghiêm nghị. Cô ta mang tên Ilôna Káctốc. Fanhan mỉm cười. Anh đã tới khoảng
rộng nghỉ chân của bậc thang, đúng vào chỗ ghi năm 1932 trên tường; chính năm
này anh đậu tú tài. Anh để nhiều thì giờ để ngắm nghía hình các cô nữ sinh lứa
tuổi mười chín như anh vào năm 1932 và tất cả mọi người, bây giờ, đều đã ba
mươi tuổi. Trong đám này cũng có hình một cô gái với mớ tóc rủ xuống trán nhưng
ngắn hơn cô kia. Nét mặt cô này cũng nghiêm nghị nhưng bao quyện vẻ hiền từ,
đoan trang. Cô mang tên Ilôna Káctốc giống hệt như cô chị: Cô không có nụ cười
trong bức hình. Fanhan ưa dáng điệu đó; anh ngưng lại vài giây ngắm nghía chiếc
hình, mỉm cười rồi tiếp tục đi lên lầu ba. Anh cảm thấy nóng, mồ hôi xâm xấp
lưng áo; hai tay đều mắc, nên anh không thể gỡ chiếc nón chào mào, cứ để nó yên
vị trên đầu và bước lên thang. Bên cầu thang. trên một chiếc ngai tượng Đức Mẹ
được trưng bày rất trang trọng. Tượng làm bằng thạch cao, dưới chân có đặt
chiếc bình, hàng ngày, sáng, chiều, đều được thay bông: sáng thì bông uất kim
hương, chiều lại thay bông hường, vàng hoặc đỏ, vừa chớm nở. Fanhan đứng nghỉ
một chút, anh liếc mặt theo chiều dốc lòng cầu thang. Dọc cầu hình các cô nữ
sinh cứ tiếp nhau bất tận, nhìn mãi cũng phát ngán; người ta có cảm tưởng đang
ngắm nghía loài bướm trắng với chiếc đầu xám đã được phân loại và xếp vào trong
hộp, hình nào cũng giống nhau về đại cương thỉnh thoảng xen kẽ một hình lớn hơn
và màu đậm; sự khác biệt đó xảy ra vào những năm ghi 1932, 1940 và 1944. Năm
1944 vẫn còn đó, ở cuối cùng cầu thang, bên trái, vẫn những hình các cô nữ
sinh, bận áo trắng hồ cứng, với nụ cười thiểu não, bao quanh một tấm hình bận
áo đen với nụ cười chẳng tươi hơn chút nào. Anh liếc nhìn năm 1942, lại có hình
của cô nữ sinh mang tên Soócna Káctốc không phơi bày nét đặc biệt nào ngoại trừ
khuôn mặt tròn dễ mến. Tới trạm ngừng chân thứ ba trên cầu thang, Fanhan nghe
thấy tiếng xe cam nhông từ dưới đất vọng lên, phá tan bầu tĩnh mịch của căn lầu
chót. Tạm đặt những món đồ trên tay vào thành cầu thang, anh mở cánh cửa số kế
bên nhìn xuống dưới. Quan Quản nhà ta đang đứng trước đoàn xe cam nhông, tuy ngừng
nhưng động cơ vẫn nổ rầm rầm. Nhiều người đàn ông tay băng bó từ trên xe cam
nhông nhẩy xuống. Một chiếc xe chở hàng sơn đỏ dẫn đầu đoàn xe, từ đó tuôn ra
nhiều binh lính với đồ trang bị kềnh càng. Đường phố bỗng đầy ắp người.
Quan Quản hét với
mọi người:
- Mấy anh theo
tôi, vào căn phòng lớn rồi chờ ở đó!
Một dãy dài màu
xám không hình thù nhất định thu dần dưới hàng hiên dẫn vào trong các căn nhà.
Các cánh cửa sổ của những căn nhà đối diện bên kia hè phố được mở rộng, dưới
đường dân chúng bu nghẹt.
Có nhiều bà đang
thút thít khóc.
Fanhan đóng kín
cánh cửa sổ lại như cũ. Căn nhà bên trong trở lại yên tĩnh, mặc dù tiếng vang
từ lầu dưới đưa lên yếu ớt, không gây chút ảnh hưởng nào. Fanhan chậm rãi bước
giữa những hành lang và tiến tới phía cửa căn phòng cuối cùng. Anh nhấc chân
thúc nhẹ vào cánh cửa. Một giọng nói đàn bà từ bên trong vọng ra: “Xin mời
vào!”. Đầu Fanhan nóng ran khi anh đặt tay lên núm cửa. Anh không kịp nhận ra
người đàn bà ngồi ở chỗ nào; căn phòng đầy ắp nào loài thú nhồi rơm, nào bản đồ
cuốn tròn ngổn ngang trong các hàng kệ, nào những hòm kính khóa kĩ, trong đựng
các loại khoáng chất. Trên tường treo một bảng gỗ sơn màu có gắn nhiều mẫu hàng
len đan, ngoài ra còn nhiều biểu đồ đánh số thứ tự chỉ dẫn cách thức dưỡng nhi.
Fanhan từ ngoài
nói vọng vào.
- Có ai trong này
không?
Tiếng đàn bà lại
vọng lên.
- Có tôi đây!
Fanhan tiến về
phía cửa sổ bằng một lối đi chật hẹp giữa dãy tủ cây và tủ kính. Cô gái ngồi
trước một chiếc bàn nhỏ hẹp. Mắt cô gái bên ngoài tròn hơn trong hình; sự
nghiêm nghị cũng bớt đi và sự dịu dàng, trái lại, rõ rệt hơn. Cô gái lộ hẳn sự
vui mừng khi nhận ra Fanhan; tuy nhiên nàng không giấu vẻ e thẹn; nàng không
lên tiếng chào lại anh mà chỉ gật đầu. Fanhan dắt cuộn giấy cồng kềnh lên thành
cửa sổ, tay trái anh được rảnh rang, giơ lên đầu hạ chiếc mũ chào mào xuống
thấm mồ hôi đang lấm tấm trên mặt.
Fanhan nói:
- Cô Ilôna, tôi
mong cô giúp cho một ít mực tàu.
Ilôna đứng dậy,
tay đóng cuốn sách trước mặt lại.
- Mực tàu? - Ilôna
đáp, - tôi không hiểu danh từ đó!
- Tôi nghĩ rằng
trong chương trình giáo khoa các cô có dạy Đức ngữ mà?
Ilôna cười.
- Thì đó là danh
từ dùng để chỉ loại mực Tàu đen, - Fanhan trả lời cô gái, - có lẽ cô cũng không
biết loại bút rông nữa đấy nhỉ?
- Có chứ, tôi chỉ
nghi ngờ thôi, - Ilôna vừa tủm tỉm cười vừa trả lời người bạn mới.
- Thế thì phiền cô
cho mượn một quản bút có ngòi rông?
- Được chứ.
Ilôna chỉ vào
chiếc tủ đàng sau Fanhan. Anh nhận thấy cô gái phải mất nhiều khó khăn mới bước
ra khỏi chiếc bàn nàng đang ngồi: khoảng cách quá chật hẹp.
Fanhan mới chỉ
quen biết cô gái có ba ngày nay, cũng tại căn phòng này; sau đó ngày nào anh
cũng chui vào đây để nói chuyện với cô hàng giờ. Cô gái luôn luôn đề phòng,
chẳng khi nào đứng gần anh: Ilôna rất đạo hạnh, rất chất phác và rất tinh đời.
Nàng cảm thấy Fanhan dễ mến, tuy vậy không bao giờ nàng đứng gần tầm tay
Fanhan, nàng chỉ e anh ta nổi hứng bất tử ôm đại lấy nàng vào lòng để hôn càn.
Cả hai người thường nói chuyện với nhau rất lâu trong mấy ngày nay về nhiều vấn
đề, kể cả vấn đề tôn giáo. Họ cũng đọc kinh chung với nhau nữa. Ilôna đề phòng
như thế cũng phải; Fanhan đồng ý về cách xử sự của nàng, vì ý tưởng làm càn đã
nhen nhúm trong thâm tâm anh ngay từ buổi đầu, may mà cô gái vẫn giữ khoảng
cách. Fanhan lắc đầu nhăn nhó.
- Nếu cô chỉ cần
nói một câu, - anh nói bóng gió, - chỉ một câu thôi, tôi sẽ không bao giờ đặt
chân đến đây nữa.
Ilôna đổi ngay nét
mặt nghiêm nghị, riềm mi khép nhẹ, đôi môi cắn chặt. Khoảng khắc sau, nàng
hướng mắt về phía Fanhan, nói thật nhỏ:
- Nếu ông làm thế,
không biết tôi nên vui hay buồn! Tôi nghĩ rằng điều đó chẳng lợi ích gì; có
phải thế không?
- Cố nhiên là
không! - Fanhan đáp.
Ilôna cúi đầu.
Fanhan lui về phía
lối đi chật hẹp trông ra cửa phòng. Anh nói:
- Tôi không thể
nào hiểu nổi một giáo sư có thể dạy học mười chín năm tại cái trường mà trước
đây vị đó đã sống đời học sinh.
- Tại sao không
nhỉ? - nàng đáp, - tôi luôn luôn yêu nghề dạy học, ngay cả đến bây giờ cũng vẫn
thế.
- Hiện giờ trường
bị đóng cửa?
- Không, chúng tôi
được chuyển sang dậy ở một trường khác.
- Còn cô, theo như
tôi biết, cô được chỉ định ở lại gác trường? Bà Hiệu trưởng, kể cũng khôn ngoan
đấy chứ, để một cô giáo đẹp nhất ở lại gác, (Anh thấy Ilôna đỏ mặt) ngoài ra cô
giáo cũng giỏi nhất. À! Cô giáo có bản đồ Âu châu không nhỉ? (anh vừa nói vừa
liếc mắt, tìm kiếm chung quanh).
- Có chứ!
- Còn kim cúc?
Ilôna liếc mắt
nhìn anh, tỏ vẻ ngạc nhiên, nàng không trả lời, chỉ gật đầu.
- Vậy thì phiền cô
cho mượn một tấm bản đồ Âu châu và một số kim cúc.
Anh mở cúc túi áo,
lôi ra một bọc giấy cuốn hình sâu kèn, anh thận trọng đổ những gì đựng bên
trong vào lòng bàn tay: những ngọn cờ tí hon bằng giấy bồi màu đỏ; anh giơ một
ngọn cờ cho cô giáo Ilôna coi.
- Lại đây cô giáo!
- Anh nói, - chúng ta chơi trò chơi Tham mưu. Vui lắm cô ạ!
Anh nhận thấy vẻ
ngập ngừng của cô giáo.
- Thì cứ lại đây
mà, - anh khẩn khoản, - tôi hứa không hề đụng chạm đến người cô.
Ilôna rời chiếc
bàn, tiến về phía chỗ để bản đồ. Khi nàng qua mặt Fanhan, anh làm bộ đang nhìn
xuống cảnh sân trường. Anh ngoảnh lại khi nàng qua khỏi, chạy tới giúp nàng lôi
chiếc giá từ trong kẹt ra, rồi dựng nó lên. Tấm bản đồ, được kẹp vào giá. Ilôna
gỡ chiếc băng cột bản đồ, nàng quay tay quay để trải rộng nó ra. Fanhan đứng
cạnh, tay nắm khư khư những ngọn cờ nhỏ xíu.
- Trời ơi! chúng
tôi đâu có phải loài thú mà sao cô sợ sệt tới mức đó? - Fanhan nói lẩm bẩm.
- Đúng vậy! -
Ilôna đáp thật nhỏ, mặt hướng về phía anh.
Anh nhận thấy sự
sợ hãi vẫn đeo đẳng theo nàng hoài.
- Chẳng khác nào
bầy lang sói, - Ilôna nói tiếp, hơi thở gần như đứt đoạn. - Bầy lang sói sẵn
sàng để bất cứ lúc nào cũng có thể nói đến tình thương. Mẫu người như thế không
thể không đáng lo ngại. Tôi xin ông, - nàng hạ thấp giọng, - đừng làm như vậy!
- Làm gì cô chứ?
- Nhắc tới chuyện
yêu đương!
- Ngay bây giờ,
tôi có thể hứa với cô điều đó...
Fanhan chăm chú
nhìn vào tấm bản đồ và không biết Ilôna đang nhếch mép cười.
- Cô làm ơn cho
tôi vài cây kim cúc, - anh nói, đầu không cần ngoảnh lại.
Mắt anh không rời
tấm bản đồ có nhiều màu sắc gợi cảm đến nỗi anh ta quên được phần nào sự bồn
chồn đang ngột ngạt trong anh. Anh đưa cả hai tay lên vuốt mặt tấm bản đồ.
Đường chì vẽ trên tấm bản đồ tượng trưng ranh giới miền Á Phổ không rộng lớn
bao nhiêu. Nếu kéo dọc xuống dưới, ta nhìn thấy từ trung tâm điểm Rốtoaden gần
phía Iembe, một đường cong queo mà không ai quyết đoán đúng hay sai.
Fanhan dằn lòng,
nhìn về phía Ilôna; cô đang lục lọi trong ngăn kéo lớn của chiếc tủ cỡ đại đóng
bằng gỗ cây hạt dẻ. Trong ô ngăn kéo bừa bãi nào áo quần tã lót lại còn cả con
búp bê quần áo đã lột hết. Ilôna vội vã trở lại chỗ ngồi Fanhan đang đứng với
một chiếc hộp lớn bằng sắt đầy ắp kim cúc có đầu đỏ đầu xanh. Ilôna im lặng
quan sát anh, khi anh lấy kim xuyên qua những ngọn cờ tí hon rồi cắm lên bản
đồ.
Ilôna và Fanhan,
nhìn nhau; tiếng ồn ào từ căn phòng chung dưới nhà vọng lên; cánh cửa đập rầm
rầm, đế giầy ủng nghiến trên sàn gạch, quan Quản la hét luôn miệng, còn đám
binh sĩ vẫn tiếp tục chuyển động.
- Cái gì thế ông?
- Ilôna hỏi anh với vẻ sợ sệt.
- Có gì đâu, -
Fanhan đáp, - những quân nhân đầu tiên bị thương đang được chuyển về.
Anh ghim một ngọn
cờ vào giữa chấm tròn có chua tên Nagivarát. Bàn tay anh quét nhẹ trên địa phận
Nam Tư ghim một ngọn cờ khác trên chấm tròn Bengrát, rồi tới lượt Rôma. Chà!
Pari, sao lại quá gần biên cương Đức quốc, điều đó làm anh ngạc nhiên không ít.
Anh đặt bàn tay trái sát bên Pari, bàn tay mặt anh quét một đường dài từ đó
sang tới Stalingrát. Khoảng cách từ Stalingrát tới Grôsơvácđen lại xa hơn
khoảng cách giữa Pari và Grôsơvácđen. Fanhan nhún vai tỏ vẻ hoài nghi, từ các
điểm chuẩn trên bản đồ anh cắm thêm nhiều mốc bằng những ngọn cờ đỏ.
- Ồ! - Ilôna buột
miệng kêu.
Fanhan nhìn Ilôna
lúc đó, đang dao động, thần kinh căng thắng khiến bộ mặt nàng có vẻ mỏng đi,
làm lộ hết lông măng trên đôi má mơn mởn. Người ta có cảm tưởng những sợi lông
đó chạy ngược lên tới gần đôi mắt đen láy của nàng. Nàng vẫn chải tóc rủ xuống
trán nhưng ngắn hơn khi nàng chụp hình, tấm hình vẫn còn được treo ở dưới nhà.
Nàng thở có vẻ khó khăn.
- Trò chơi có ngộ
không cô giáo? - Fanhan hỏi lại, giọng nói thật khẽ.
- Vâng, - nàng đáp,
- một trò chơi phi thường chả khác gì… phải nói thế nào đây, ông giúp tôi đi,
chả khác gì hình dung nổi.
- Cô muốn nói nó
gợi cảm phải không?
- Vâng, đúng rồi!
- Ilôna đáp nhanh, - rất gợi cảm. Ta có cảm tưởng đang sống trong khung cảnh.
Ngoài cửa tiếng
động bớt dần. Các cửa phòng có lẽ được đóng kín. Bỗng Fanhan nghe có tiếng gọi
tên anh, rõ mồn một. Thì ra là tiếng quan Quản.
- Fanhan! Anh chui
ở đâu?
Ilôna liếc mắt
nhìn anh, dò hỏi:
- Người ta kêu ông
kìa!
- Tôi biết rồi!
- Vậy thì ông
xuống đi, - nàng nói rất nhẹ nhàng, - tôi không muốn người ta thấy ông ở trong
này.
- Cô còn ở đây tới
mấy giờ?
- Tới bảy giờ tối.
- Vậy cô ở đây chờ
tôi, tôi sẽ lên lần nữa!
Ilôna gật đầu đồng
ý, đôi má hồng lên. Trước khi trở về ghế ngồi, nàng đứng thẳng không nhúc nhích
chờ cho Fanhan ra khỏi lối đi hẹp.
- Tôi có mua bánh
ngọt cho cô; trong túi đặt trên bậu cửa sổ đó, bánh dành riêng cho cô đấy nhé!
Fanhan mở cửa, đưa
mắt kiểm soát lối đi ngoài hành lang, rồi mới tiến ra phía cầu thang. Anh xuống
thang một cách chậm chạp. Tới nửa cầu thang anh lại nghe thấy quan Quản gọi nữa
“Fanhan”. Qua tấm hình của Ilôna, năm 1942, anh ngước lên để tặng nàng một nụ
cười. Trời lúc đó đã tối nên anh không nhìn thấy nét mặt của Ilôna trong hình.
Chiếc khung ảnh vẫn còn đó, treo giữa tường, bao quanh bên trong một đốm đen
dầy đặc. Quan Quản đang nóng lòng sốt ruột ở từng lầu dưới.
- Trời ơi! Chú mày
rúc vào đâu mà lâu dữ vậy. Tao kiếm chú mày cả tiếng đồng hồ rồi!
- Thượng sĩ quên
rằng tôi ra phố mua giấy bồi về kẻ bảng?
- Tao biết rồi,
nhưng chú mày về đây được nửa tiếng đồng hồ rồi cơ mà? Thôi! Lại đây!
Quan Quản nắm tay
Fanhan rồi cả hai người cùng xuống dưới nhà. Trong phòng có tiếng người hát,
ngoài hành lang, nữ y tá người Nga, tay bưng khay chạy đi chạy lại rầm rập.
Viên thượng sĩ
nhất đối xử rất tử tế với Fanhan khi anh từ Sôkáchêli chuyển về đây. Ông ta tử
tế với tất cả mọi người, nhưng từ khi ông ta được giao trọng trách tổ chức
Trung tâm Tiếp thương này, ông ta đã đổi tâm đổi tính: dễ nổi nóng và cộc cằn.
Tình hình quân sự mấy tuần qua biến chuyển quá mau khiến ông lo lắng nhiều;
Fanhan lại không biết điều đó, anh cũng chẳng cần kiểm điểm lại hoặc ước lượng
tầm quan trọng quan Quản, ông ta lại khác, ông sống nhờ những chuyện đó, chỉ
những mà thôi, nếu có gì trục trặc, bắt buộc ông ta lo âu là phải. Trước kia
việc thuyên chuyển hoặc bổ nhiệm thất lợi ít khi xảy ra. Lệnh thuyên chuyển
trước khi tới tay binh sĩ đã được tránh né từ bao giờ. Giới chức có thẩm quyền
ban hành lệnh, là người đầu tiên tránh né, một câu chuyện tâm phúc báo cho đơn
vị để tìm cách thi hành lệch lạc thế này hoặc thế khác. Các chỉ thị cùng nguyên
tắc thường vẫn được diễn tả một cách tối nghĩa và chỉ chú trọng vài biện pháp
chế tài càng giúp cho sự tránh né được dễ dàng hơn. Tóm lại, lệnh thuyên chuyển
được mọi người coi như là dịp tốt để tống cổ những phần tử bị ghét bỏ. Luôn
luôn vấn đề khẩn cấp vẫn xảy ra với lí do nằm bệnh viện, hoặc một cú điện thoại
lạ; đâu lại vào đó. Những sự kiện đó, nay không còn nữa: có dùng điện thoại
cũng vô ích vì những người luôn luôn được gọi có thể không còn, hoặc có còn
cũng kêu tới; người có thể lo lót cho người khác bây giờ cũng dửng dưng vì
chính ngay họ, họ cũng chẳng có ai lo cho họ. Đường dây điện thoại rối beng.
Mỗi người đều mắc chiến đấu và chỉ lo cho mạng sống cá nhân. Chiến tranh, lúc
đó không cần đến điện thoại, mặc dù từ hồi nào điện thoại vẫn được dùng để phục
vụ chiến tranh. Giới thẩm quyền, tên ghi ngoài bìa, các vị Chỉ huy, tất cả đều
thay đổi liền liền và hàng ngày; một quân nhân hôm nay được thuyên chuyển tới một
Sư đoàn thì ngày mai quân số Sư đoàn đó có thể chỉ vỏn vẹn còn một ông Tướng,
ba sĩ quan Tham mưu và vài anh thư kí…
Quan Quản nhà ta
buông tay Fanhan khi họ bước xuống bực thang chót và đứng trước một cánh cửa.
Quan Quản thò tay mở cửa, Ốptơn ngồi ở bàn, đang hút thuốc và đọc nhật báo,
trên mặt bàn vết tàn thuốc cháy đen còn rành rành.
- À đây rồi! -
Ốptơn buông tờ báo xuống và nói.
Quan Quản nhìn
Fanhan; Fanhan nhìn Ốptơn.
- Chả còn làm cách
nào hơn được, - quan Quản nhún vai, nói như thể phân trần, - tôi bắt buộc phải
cho những người dưới bốn mươi tuổi, còn khỏe mạnh, không thuộc quân số cơ hữu ở
đây thuyên chuyển đi. Thực tình chả còn cách nào hơn, vậy anh phải đi rồi đó!
- Đi đâu? - Fanhan
hỏi lại.
- Trạm phân loại
ngay tại tuyến đầu; anh phải đi ngay lập tức, - Ốptơn trả lời.
Y trao Sự vụ lệnh
cho Fanhan, anh đọc từ đầu tới cuối.
- Ngay bây giờ? -
Fanhan hỏi lại. - Tôi chưa thấy, ngay đến cả chuyện hợp lý nhất cũng chẳng bao
giờ được thi hành ngay tức khắc.
Chỉ tấm giấy Sự vụ
lệnh, anh nói:
- Có cần thiết
chúng tôi ghi tên hai đứa vào đây không?
Quan Quản nhìn
Fanhan, chậm chạp.
- Sao vậy?… anh
giỡn chơi hả, - viên Thượng sĩ nói vừa đủ nghe.
- Bây giờ mấy giờ
rồi? - Fanhan hỏi.
- Gần bảy giờ tối.
- Ốptơn trả lời.
Fanhan đứng dậy,
nịt dây lưng; túi đeo lưng của anh để sẵn trên bàn.
Quan Quản ngồi
xuống ghế, mở ô kéo, liếc nhìn Ốptơn và nói:
- Thế là tôi xong
phận sự. Miễn sao anh lên đường là đủ rồi; chuyện gì xảy ra sau đó tôi cóc cần.
Ốptơn nhún vai:
- Tôi có ý định
làm cho mỗi người một Sự vụ lệnh.
- Tôi lên thu xếp
hành trang! - Fanhan nói.
Tới cầu thang, anh
nhìn thấy Ilôna liền đứng lại. Nàng đang khóa cửa phòng rồi cúi đầu xuống lắc
mạnh quả đấm. Nàng đội nón, trên mình khoác thêm chiếc áo choàng. Tay còn ôm
gói bánh. Áo choàng màu xanh với chiếc mũ chụp màu nâu tăng thêm vẻ đẹp cho
Ilôna hơn cả lúc nàng bận chiếc áo đỏ. Dáng người nhỏ nhưng được cái mũm mĩm từ
khuôn mặt tới chiếc cần cổ, Ilôna đã làm cho Fanhan say mê thèm khát hơn bất cứ
người con gái đẹp nào khác. Nàng kiểm soát lại nắm đấm cửa lần thứ hai, khi
thấy chắc chắn nàng từ từ đi ngược dãy hành lang. Anh nhìn nàng với vẻ trìu
mến. Khi nàng bất ngờ đứng trước mặt Fanhan, nụ cười với vẻ sợ sệt của nàng đã
khiến anh thêm cảm động.
- Kìa cô nói với
tôi là cô ở lại cơ mà? - Fanhan hỏi.
- Tôi quên nói cho
ông biết tôi phải về sớm một chút vì có chuyện cần. Tôi tính viết cho ông vài
chữ, và nhờ người dưới nhà trao lại, tôi định trở lại đây một giờ sau.
- Quả thật cô có ý
định trở lại đây không?
- Thật chứ! - Nàng
đáp, nhoẻn miệng cười.
- Tôi cùng đi với
cô nhé! Xin cô chờ một phút!
- Không! Ông không
nên cùng đi với tôi. (Fanhan lắc đầu chán ngán). Thế nào tôi cũng trở lại mà!
- Cô đi đâu bây
giờ?
Nàng không nói,
ngoảnh lại phía sau: trên cầu thang vắng hoe, giờ này đang là giờ cơm. Tiếng
rào rào lọt ra ngoài các căn phòng rất nhỏ.
Ilôna lại nhìn
Fanhan.
- Tới khu dành
riêng cho người Do thái, - nàng đáp, - tôi phải tới đó với mẹ tôi.
Nàng nhìn anh thật
lâu, chờ đợi phát hiện nơi anh một vài phản ứng, nhưng anh chỉ thản nhiên hỏi:
- Cô tới đó làm
gì?
Nàng giơ cao gói
bánh ngọt:
- Chắc ông không
phiền khi tôi đem nó cho người khác?
- Nghĩa là gia
đình cô… - anh đáp, rồi nắm lấy tay cô giáo. - Thôi, ta cùng đi!
Cả hai song song
bước xuống cầu thang.
- Gia đình cô là
người Do Thái, còn mẹ cô thì sao?
Ilôna gật đầu công
nhận.
- Tôi cũng vậy, -
nàng đáp, - cả nhà đều là người Do Thái.
Nàng ngừng bước:
- Xin chờ một
chút!
Nàng rút bó hoa từ
chiếc bình đặt dưới chân tượng Trinh nữ, gượng nhẹ bứt những chiếc bông úa tàn.
- Xin ông hứa với
tôi thay nước trong bình? Ngày mai tôi không còn ở đây nữa! Tôi phải chuyển tới
một trường khác. Nhớ nhé! Có thể ông cũng nên thay bông giùm?
- Tôi rất tiếc
không thể làm theo lời cô yêu cầu được. Lát nữa, tôi cũng phải ra đi, nếu
không…
- Nếu không, ông
sẽ làm điều đó.
Fanhan gật đầu.
- Tôi sẽ làm bất
cứ điều gì để cô được vui lòng.
- Chỉ để tôi vui
lòng thôi à? Ông theo đạo công giáo phải thế không?
Anh mỉm cười.
- Tôi không biết
nữa… nếu tôi không là người công giáo tôi cũng làm được điều đó cơ mà; nhưng
anh tôi chả bao giờ có ý nghĩ đó. Chờ tôi một chút, - anh nói câu đó thật
nhanh.
Họ đã bước tới chỗ
nghỉ chân của tầng thứ nhì. Fanhan chạy vội qua hành lang, bước vào phòng, anh
vội vã tống đại vài món đồ tạp nhạp vung vãi vào trong sắc. Anh nịt dây lưng và
vội vã chạy ra.
Ilôna không đứng
lại chờ anh, vẫn đi từ từ xuống cầu thang. Tới tấm hình 1939 thì anh bắt kịp cô
giáo. Nàng tỏ vẻ lo lắng.
- Cô làm sao vậy?
- Anh hỏi.
- Có gì đâu, -
nàng đáp, - tôi muốn đa cảm một chút mà không được, những bức hình này chẳng
giúp cho tôi được gì, tôi vẫn thấy dửng dưng. Thôi chúng ta đi!
Fanhan yêu cầu
Ilôna chờ anh ngoài cổng để rẽ vào văn phòng lấy sự vụ lệnh. Ốptơn không còn
trong đó nữa. Viên Thượng sĩ nắm tay anh nói:
- Đừng làm bậy
nhé! Chúc anh nhiều may mắn!
- Cám ơn thượng
sĩ, - Fanhan trả lời rồi vội vã đi ra.
Ilôna chờ anh ở
góc phố. Anh nắm lấy tay nàng, cả hai chậm rãi sánh vai hướng về trung tâm
thành phố.
Trời đã tạnh mưa,
nhưng không khí vẫn còn ẩm thấp và thơm mùi cây cỏ. Con phố nhỏ hai người đang
nương theo thật yên tĩnh, hai bên lề đường toàn những căn nhà nhỏ và những cây
con. Con lộ chính chạy song song với đường phố nhỏ đó.
- Tại sao cô không
sống chung với gia đình, trong khu dành riêng cho người Do Thái? - Fanhan hỏi
Ilôna.
- Vì cha tôi, một thương phế binh cụt cả hai
chân. Ông là sĩ quan hồi Thế chiến vừa qua và được ân thưởng rất nhiều bội
tinh. Mới ngày hôm qua đây, ông đã trả tất cả huy chương cùng đôi nạng gỗ cho
vị Quân trấn trưởng. Tất cả được gói trong một bọc lớn, giấy màu nâu. Xin ông
để tôi về một mình, - Ilôna nói với anh rất nồng nhiệt.
- Sao vậy cô?
- Tôi muốn về nhà
một mình!
- Thì tôi đi với
cô mà!
- Có ích gì đâu!
Người ta trông thấy ông, nếu người nhà tôi bắt gặp (nàng nhìn Fanhan) tôi sẽ
chẳng đi được nữa.
- Cô tính trở lại?
- Vâng, - nàng
bình tĩnh trả lời, - chắc chắn như vậy. Tôi hứa với ông mà!
- Cô cho phép tôi
được hôn cô? - Fanhan khẩn khoản.
Ilôna đỏ mặt đứng
lại. Đường phố vắng hoe và im lặng. Hai người ngừng kế bên chiếc tường che
khuất bởi những nhánh cây mặt trời bông trơ trụi.
- Sao phải hôn
nhau? - Ilôna nói rất yếu ớt mắt đượm vẻ buồn, anh sợ nàng khóc. - Tình yêu làm
tôi e sợ.
- Sao vậy? -
Fanhan âu yếm hỏi.
- Vì làm gì có
tình yêu, nó quá mỏng manh và phù du.
- Sự kiện chúng ta
chỉ còn một thời gian rất ngắn, rất thúc bách, - anh thì thầm bên tai nàng, anh
gỡ chiếc túi trên vai xuống cùng lúc đặt gói đồ của nàng xuống và ôm nàng hôn.
Anh cảm thấy môi nàng chạm trên cổ anh, tai anh rồi tới má.
- Em, đừng đi, -
anh thì thầm bên tai nàng. - Đừng đi! Chiến tranh còn đó, ra đi là điều bất
lợi. Ở lại đây đi em.
Nàng lắc đầu.
- Không thể được
đâu anh, - nàng đáp, - mẹ em quá lo sợ nếu em không về đúng giờ.
Nàng hôn lên má
anh, nàng ngạc nhiên vì không còn ngượng ngùng mà trái lại thấy thích thú.
- Đi anh! - Nàng
tiếp.
Ilôna ngả đầu trên
vai anh. Anh đặt nhẹ nụ hôn trên môi nàng. Anh nhận thấy nàng tỏ vẻ vui thích
muốn gặp lại anh.
Nàng nhìn anh thật
lâu và hôn anh trên đôi môi. Trước đây nàng mường tượng nếu có chồng và con là
điều hạnh phúc lớn lao. Nàng muốn có cả hai thứ luôn một lúc, nhưng bây giờ
đây, nàng lại không muốn có vấn đề con cái, khi nàng ôm hôn anh. Nàng cứ muốn
được mãi mãi hưởng những giây phút đó, và cảm thấy cần gặp anh nữa. Ý nghĩ đó
làm nàng buồn nhiều nhưng nàng cảm thấy không ảnh hình nào có thể đẹp hơn.
- Đi anh, - nàng
nói, - bây giờ thì em phải về!
Nàng nhìn dãy phố
vắng tanh và yên lặng qua bờ vai Fanhan.
Tiếng động của
đường phố kế bên vẳng lên trong xa xăm. Anh cảm thấy bàn tay nàng đang vuốt ve
gáy anh, một bàn tay nhỏ, rắn chắc và thon dài.
- Em cứ ở lại đây,
- Fanhan khẩn khoản, - nếu không cho phép anh được đưa em tới tận cửa nhà. Rồi
sau muốn ra sao thì ra. Tương lại thật mù mịt! Em đâu có biết chiến tranh là
gì, và ngay cả những người đã gây ra nó. Nếu chúng ta không cần thiết phải xa
nhau, dù là trong khoảnh khắc, anh thấy chẳng nên chút nào.
- Chúng mình không
thể tránh điều đó được. Xin anh hiểu cho lòng em!
- Vậy để anh đưa
em về!
- Không thể thế
được đâu, - nàng quả quyết hơn. - Em không muốn làm cha em buồn lòng, chắc anh
hiểu chứ?
- Anh hiểu lắm
chứ, - anh hôn lên gáy nàng, - có lẽ anh hiểu quá nhiều. Nhưng anh yêu em và
muốn em ở lại, ở lại đi em.
Nàng rời khỏi tầm
tay Fanhan, nhìn anh rồi nói:
- Xin anh đừng hỏi
em lí do tại sao nữa! Em van anh!
- Không, - anh đáp
lại giọng thật nhỏ, - vậy em hãy đi đi. Anh chờ em ở đâu?
- Hãy đi với em
một quãng nữa, em sẽ chỉ một quán ăn, anh chờ em ở đó!
Fanhan cố ý bước
thật chậm nhưng nàng lại lôi anh đi nhanh hơn. Họ tới trước một ngã tư khá tấp
nập, anh ngạc nhiên không ít. Chỉ một căn nhà nhỏ hẹp, nàng nói:
- Anh chờ em trong
đó.
- Thế nào em cũng
ra nhé!
- Anh yên tâm, -
nàng cười và đáp lại, - ngay sau khi em rảnh. Em yêu anh.
Nàng vội vã ôm
chầm lấy anh, hôn lên cổ, lên môi anh. Nàng bỏ đi như chạy trốn. Anh không muốn
trông theo nàng, bước vội vào trong quán nhỏ. Anh có cảm tưởng như một kẻ khốn
nạn, trống trải và thiếu may mắn. Chờ đợi đối với anh không có ý nghĩa gì cả,
mà anh không thể nào không chờ đợi được. Anh đành trông chờ nơi Thượng đế an
bài theo chiều hướng anh mong ước, nhưng khốn nỗi trong đầu óc anh đã ánh lên
một sự nghi ngờ cục diện sẽ thay đổi: có thể Ilôna không tới chỗ hẹn, định mệnh
ngăn cản không cho nàng trở lại. Anh không biết nàng ở chỗ nào, vậy chỉ còn
trông vào hi vọng để kiên nhẫn chờ đợi. Sao anh không chạy theo nàng để ép buộc
nàng ở lại? Ép buộc? không thể có ai làm như thế được, đối với con người không
thể ép buộc mà chỉ có giết để tỏ sự độc đoán. Không ai có quyền bắt con người
phải sống hoặc bắt họ phải yêu, đó là một điều phi lý, chỉ có cái chết mà thôi!
Vậy bắt buộc anh phải chờ đợi, chờ đợi một cách vô ích.
Thời gian chờ đợi
chỉ trong một tiếng đồng hồ, nhưng lại lâu hơn cả đêm thâu, mối dây liên lạc
giữa hai người chỉ gồm quán cà phê nhỏ bé mà nàng đã chỉ cho anh và sự đoan
quyết của nàng không hề dối trá anh. Nàng sẽ cố gắng tới càng sớm càng tốt với
điều kiện chính nàng có thể tự quyết định lấy…
Chiếc đồng hồ để trên
quầy hàng chỉ tám giờ thiếu hai mươi phút. Anh không thấy thèm ăn hoặc uống
rượu, tuy nhiên anh cũng kêu nước ngọt. Sau đó, quá thất vọng anh đã thay đổi ý
định để kêu một bình rượu nhỏ. Gần phía cửa ra vào, một người Hung Gia Lợi ngồi
với bạn gái, giữa quán một người đàn ông to béo, mặt sáp, đang cắn chặt lấy
điếu xì gà to lớn màu đen. Fanhan uống một hơi cạn bình rượu nhỏ để trấn an mụ
chủ quán. Anh gọi bình rượu thứ hai. Chủ quán nở nụ cười thích thú, mụ chẳng
còn son trẻ gì, nhưng người vẫn còn mảnh khảnh và có bộ tóc hung.
Có lắm lúc Fanhan
tưởng chừng như Ilôna đến. Anh mơ tưởng đến nơi hai người có thể đặt chân đến:
một căn phòng đầu dãy, và trước khi vào phòng anh sẽ nói nhỏ nàng là vợ anh.
Căn phòng tối tăm ấy, có chiếc giường màu nâu cũ kĩ nhưng khá rộng rãi. Trên
giường treo một bức ảnh đạo, trong phòng có tủ áo, bồn rửa mặt bằng men xanh
đầy ắp nước lạnh; cửa sổ căn phòng trông xuống một mảnh vườn cây ăn trái. Một
căn phòng như thế phải có thật. anh biết rõ như vậy, và anh chỉ việc ra phố là
tìm thấy ngay, đúng như anh đã hình dung. Nếu không cần lưu tâm đến nỗi có căn
phòng, anh có thể tới một khách sạn tồi tàn vắng khách hoặc sang hơn nhưng lại
đông người hoặc một nhà trọ gia đình; ở những nơi này, anh mong ước sẽ có ngay
một căn phòng đúng mẫu mong ước để tạm trú qua đêm, với công dụng tạm bợ. Nhưng
có bao giờ họ bước chân tới chốn ấy, chiếc thảm dưới chân giường quá dơ bẩn,
lớp sơn nâu trên lề cánh của trông ra vườn cây ăn trái rộp lên thành vẩy; họ
ước mơ một căn nhà ấm cúng với chiếc giường màu nâu thật lớn chẳng cần phải để
hai người cùng ngủ chung, nhưng bắt buộc chiếc giường phải rộng lớn. Buồn thay
căn phòng anh mơ ước lại chưa có người ở.
Tuy vậy, anh vẫn
cố gắng tin tưởng chưa có gì quyết định cả. Phải chi cô ta không là người Do
Thái, đang thời buổi chiến tranh mà yêu một cô gái Do Thái, đúng là chuốc họa
vào thân. Anh biết điều đó lắm, nhưng anh trót yêu nàng, muốn được nằm bên
nàng, rồi nói chuyện thật lâu và chẳng bao giờ chán: hạng đàn bà mà đàn ông sau
khi ngủ chung lại muốn nói chuyện dông dài rất hiếm. Với Ilôna, Fanhan có thể
làm như vậy được, ngoài ra còn biết bao nhiêu là chuyện khác nữa…
Anh kêu thêm một
bình rượu mặc dù chai nước ngọt chưa vơi đi chút nào. Người đàn ông to lớn đã
ra khỏi quán, trong phòng chỉ còn lại anh, mụ chủ quán tóc hung còn quá trẻ với
chiếc cổ gầy guộc, người lính Hung Gia Lợi và người bạn gái của hắn. Fanhan vừa
uống rượu vừa nghĩ tới chuyện khác: anh nghĩ tới quê anh mà anh ít khi ở lâu.
Kể từ khi rời ghế nhà trường anh chẳng có dịp về thăm nhà. Một nỗi lo sợ tràn
ngập trong anh, nơi quê anh có đường xe lửa và sông bao quanh như chiếc nút
thòng lọng. Nhiều con đường lớn trải nhựa, không có lấy một bóng cây, chạy
xuyên qua vùng đó; mùa hè rau cỏ mọc xanh um một màu; nhưng cái nóng bức, ối
chà, thật là ngột ngạt, đường xá bốc thành khói. Ngay cả buổi chiều, gió im
phăng phắc và áp lực chẳng nhẹ đi thêm chút nào. Anh thường hay về nhà vào mùa
thu để phụ giúp công việc đồng áng mà anh ưa thích nhất: Vườn tược đầy cây ăn
trái, trái cây chở đầy xe đủ thứ, nào lê, bom, nào mận nối đuôi nhau trên đường
cái chạy dọc theo triền sông Ranh tiến về phía các đô thị lớn. Mùa thu mà về
quê anh thật là vui thích, cha mẹ anh thật là vui vẻ, anh hợp với cả hai người,
anh dửng dưng khi nghe tin chị anh kết bạn với một bác thợ cày nào đó. Mùa đông
quá tiêu điều; khu đất giữa đường xe lửa và con sông trở thành bằng phẳng; trên
trời mây thật thấp, bao quyện mùi ngòn ngọt dính óc từ các lò bánh kẹo mứt
đường. Quả tình anh thấy vui thích được xa nơi này. Anh giúp việc cho hãng thầu
lớn chuyên xây cất nhà cửa, trường học, cơ xưởng, trại quân, và nhà ở rẻ tiền…
Anh cố nghĩ đến
những chuyện đó để quên điều đang dày vò anh. Nhưng vô ích! Anh bị ám ảnh sao
đã quên không hỏi rõ địa chỉ của Ilôna để đề phòng mọi bất trắc. Kể ra muốn tìm
địa chỉ của nàng cũng chẳng khó gì, anh chỉ cần hỏi bà Hiệu Trưởng hoặc người
gác dan, hoặc hỏi thăm quanh đây, chỉ mất công tìm kiếm một chút thôi nhưng anh
còn cơ hội để nói chuyện với nàng và nhìn nàng cho đỡ nhớ. Anh nghĩ nếu làm như
vậy quả là phi lý vì chả khác nào trao sự may mắn của anh để Thượng đế định
đoạt. Việc của anh, anh nên tự tay làm lấy; như thế nó còn có ý nghĩa và anh dễ
thành công hơn. Tuy vậy chẳng nên nói trước có ý nghĩa hay không, chắc chắn anh
đã chuốc lấy thất bại ngay từ đầu. Dù có tuyệt vọng đến mức nào anh luôn luôn
phải hành động, và nếu cần sẽ làm lại từ đầu. Tìm kiếm và chờ đợi; hi vọng của
anh không thể đi xa hơn nữa. Thật là kinh khủng! người ta sẽ xử trí cách nào
đối với người Hung Gia Lợi gốc Do Thái? Anh không biết rõ, anh chỉ nghe nói các
chính phủ Đức và Hung Gia Lợi đã tranh chấp với nhau về vấn đề này. Không ai có
thể biết rõ người Đức sẽ xử trí ra sao? Vậy mà anh không hỏi địa chỉ của Ilôna.
Trong thời buổi chiến tranh điều cốt yếu phải cho nhau biết địa chỉ, thế mà cả
hai người đều quên mất điều đó, Ilôna mà cũng quên còn đáng trách hơn anh
nhiều; nàng chả có cách gì kiếm ra anh.
Mà thôi, góp nhặt
tất cả các điều đó chẳng có ích gì, nàng đâu có tới chỗ hẹn. Tốt hơn anh nên
thả hồn để ước mơ căn phòng anh có thể chung sống với nàng.
Còn vài phút nữa
thì tới chín giờ tối: giờ hẹn đã quá lâu rồi; chiếc kim đồng hồ chạy sao quá
chậm khi người ta nôn nóng nhìn nó; đến khi vừa để mắt vào chỗ khác là nó chạy
nhanh như ngựa. Đúng chín giờ tối! Fanhan đã ngồi chờ Ilôna gần một tiếng rưỡi
nếu anh không có cánh để phi về trường học; nhờ người gác đan cho biết địa chỉ
của Ilona rồi ba chân bốn cẳng chạy về đấy. Anh lại kêu một bình rượu chát
khiến mụ chủ quán mặt tươi như hoa.
Toán tuần tiễu đi
qua quán rượu lúc chín giờ năm phút gồm một sĩ quan và một hạ sĩ. Họ đứng hoài
ngoài cửa ngó vào quán và sắp sửa quay đi, Fanhan nhìn thây họ rất rõ từ nãy
giờ anh luôn luôn canh chừng phía trước cửa. Canh chừng cửa ra vào đối với
Fanhan, phải là công việc đầy thích thú; cánh cửa đem lại niềm hi vọng cho anh,
niềm hi vọng của anh không phải là viên sĩ quan đội kết và tên lính đứng phía
sau đang ngó dòm dòm và sắp sửa quay ra. Khốn nạn cho anh thật! viên sĩ quan đã
trông thấy anh và từ từ tiến về chỗ anh ngồi. Fanhan cảm thấy đời anh tàn rồi;
bọn người này chỉ biết áp dụng có mỗi một biện pháp hữu hiệu: chi phối ngay cả
sự chết chóc. Tử thần vâng lệnh họ bằng một cử chỉ, bằng một khóe mắt. Anh lập
luận, nếu có chết cũng chả khác gì chấp nhận không hành động nơi trần thế;
riêng anh, anh còn muốn hành động nơi trần thế để chờ cho bằng được Ilôna, và
tiếp tục yêu nàng. Anh thừa hiểu là vô ích nhưng anh vẫn cố bám vào sự hi vọng
thành công quá mỏng manh. Bốn người đội kết này có quyền hành rộng lớn đang
tiềm tàng trong khẩu tiểu liên trông nét mặt đằng đằng sát khí của họ; cho rằng
những người này không muốn thi hành phận sự của họ, thì đàng sau họ còn có hàng
ngàn người khác sẵn sàng đem cơ hội đó cho tử thần: một vài viên đạn hoặc cột
xử giảo. Những người đó, tất cả đều chi phối được tử thần. Viên sĩ quan nhìn
Fanhan không nói qua lấy một câu mà chỉ xòe tay. Trông ông ta có vẻ thản nhiên
mệt mỏi; dáng điệu quá máy móc không tỏ vẻ gì hứng khởi, bắt buộc viên sĩ quan
phải có bộ mặt nghiêm nghị xứng hợp với nhiệm vụ. Fanhan đưa cho ông ta coi sổ
tùy thân và tờ Sự vụ lệnh. Viên hạ sĩ quan ra lệnh cho anh đứng lên. Anh nhún
vai và đứng dậy. Mụ chủ quán đang run lên vì sợ, anh lính Hung Gia Lợi cũng chả
bình tĩnh hơn chút nào.
- Anh hãy theo
tôi, - viên sĩ quan nói nhỏ với anh.
- Tôi chưa trả
tiền nhà hàng, - Fanhan trả lời.
- Qua quầy hàng
anh sẽ trả được rồi.
Fanhan nịt dây
lưng, lượm sắc và tiến về phía quầy hàng; toán tuần cảnh kẹp sát anh hai bên
nách. Mụ chủ quán thu tiền; tới gần cửa, viên hạ sĩ tiến lên trước mở cửa.
Fanhan bước ra ngoài; anh biết họ không làm dữ với anh, đáng lý anh phải sợ
sệt, nhưng thực tình anh lại chẳng sợ sệt chút nào. Đêm hè ngoài phố có vẻ vui
với những hàng quán đèn đuốc sáng choang. Một chiếc xe hơi chở hàng cỡ lớn, sơn
màu đỏ, đang đậu trước quán cà phê. Cánh cửa sau xe được mở rộng, một cánh cửa
nhỏ khác được hạ xuống sát ngay lề đường lát gạch xấu tạo thành một bậc thang.
Bốn người hiếu kỳ bu lại, sự lo lắng hiện trên nét mặt của họ khi trông thấy
một quân nhân đứng gác cửa xe, khẩu tiểu liên lăm lăm trong tay.
- Trèo lên! - Viên
sĩ quan ra lệnh cho Fanhan.
Anh bước lên bực
thang, trong lòng xe tối om, anh thấy lố nhố nhiều đầu người và vũ khí. Không
ai nói với ai câu nào, khi anh vào được hẳn bên trong lòng xe, anh thấy đầy
nhóc.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét