Những người sống và những người chết
Tác giả: Kônxtantin Ximônốp
Người dịch: Trọng Phan & Hà Ngọc
Người biên tập: Lê Anh Hiền
Nhà xuất bản Cầu vồng - Maxcơva - 1987
Chương Mười Bốn
Tuyết xuống đã được hai hôm. Hôm nay là một
ngày nắng ráo, giá rét và quang đãng.
Malinin đi từ đại đội xuống trung đội,
thoạt tiên ông cúi lom khom, chạy qua chỗ trống theo đường giao thông hào tuyết
phủ trắng xóa, sau đó leo thẳng lên cái gò đất có nhà máy gạch đã đổ nát; chính
trung đội đang bố trí ở chỗ gạch ngói đổ nát này. Tuy trời giá rét, nhưng hơi
ấm của mặt trời vẫn thấm qua cả mũ che tai, nhất là khi lên dốc.
Ông dừng lại để thở lấy hơi, quay người lại
và nhìn về phía sau.
Phong cảnh thông thường của ngoại thành
Maxcơva trải rộng ra ở đằng sau: phong cảnh ở địa hình gò đồi nhấp nhô với
những đám rừng nhỏ màu đen và những giải rừng xanh ở chân trời. Gần đó là cơ sở
của trạm máy nông nghiệp đã bị cháy thành một mảng màu đen hình vuông - tiểu
đoàn bộ đóng ở đó, xa xa thấy những mái nhà của một làng quê - trung đoàn bộ
đóng ở đó. Trên nền tuyết nổi bật lên từng lối mòn mới mở, từng công sự và giao
thông hào. Dù cho ngụy trang thế nào đi nữa, bây giờ từ trên cái gò nhỏ bé này
vẫn trông thấy rõ những thứ đó. Tuyết làm lộ ra tất cả.
Ngay cái hôm mà các chiến sĩ của tiểu đoàn
cộng sản đến để bổ sung cho sư đoàn bộ binh số 31, Malinin đã được phong quân
hàm và được chỉ định làm chính trị viên đại đội. Bây giờ, sau mười ngày chiến
đấu, ông vẫn giữ chức vụ này.
Các trận chiến đấu diễn ra liên miên và đều
đẫm máu; sau đợt bổ sung trong đó có Malinin, sư đoàn lại được bổ sung thêm lần
nữa. Thực ra, lần này bổ sung một cách dè sẻn, người ta cảm thấy chưa thể cho
đủ, cốt để dành cho tương lai.
Bọn Đức vẫn dành được thắng lợi và hôm nay
sư đoàn đã quay lưng về phía Maxcơva mà chiến đấu, lại còn lùi thêm hai mươi
cây số về phía đông của phòng tuyến, nơi mà Malinin đã đến gia nhập sư đoàn.
Trong suốt thời gian đó sư đoàn đã rút lui
ba lần khỏi trận địa đang chiếm lĩnh. Hai lần vì để cho mặt trận của mình được
cân bằng với sư đoàn bạn và tránh khỏi bị bao vây. Còn lần thứ ba là vì một
trung đoàn của nó hầu như hoàn toàn bị tiêu diệt, còn hai trung đoàn khác thì
không thể chốt giữ được. Mãi đến sáng hôm sau, sư đoàn mới chặn được quân Đức
lại ở xa trong hậu tuyến, trên các trận địa dự bị và đánh gục được chúng ngay
trước công sự bằng hỏa lực của chính mình và bằng một đòn công kích với cấp tập
hỏa lực của trọng pháo từ trong tung thâm bắn ra. Sư đoàn đã bám chặt lấy những
trận địa này và không rút lui nữa, mặc dầu ba ngày đêm trước đó đã trôi qua
trong những trận tấn công ác liệt. Giờ đây, Malinin đang đi trên tiền duyên của
trận địa đó.
Tình hình tại khu vực của sư đoàn đã diễn
biến như vậy, còn tình hình chung trên địa bàn của toàn mặt trận ngoại thành
Maxcơva là một cuộc giao chiến phòng ngự lớn kéo dài, trong đó hình như lực
lượng của cả bên tấn công lẫn bên phòng ngự đều sắp cạn, nhưng mà mãi vẫn không
cạn. Những trận chiến đấu vẫn cứ tiếp diễn một cách ác liệt như trước và cán
cân vẫn nghiêng về phía quân Đức. Bọn này tuy thắng thế, nhưng càng ngày lại
càng phải trả giá đắt hơn cho từng cây số chiếm được.
Malinin cũng có những cảm tưởng như nhiều
người đang chiến đấu ở gần Maxcơva trong những ngày ấy. Những mũi thọc sâu của
xe tăng Đức đã không chọc thủng mặt trận của chúng ta giống con dao thọc vào bơ
như dạo mùa hè và như những ngày đầu tiên vỡ mặt trận ở Viadơma và Brianxk. Bây
giờ lòng người đã dần dần mang một tâm trạng khác, tâm trạng của chiếc lò xo bị
một sức mạnh kinh khủng đè nén đến hết nấc, nhưng dù bị dồn ép đến thế nào
chăng nữa, khi xuống gần đến nấc cuối cùng, nó vẫn giữ được khả năng tiềm tàng
để bật trở lên. Những con người mà trong những ngày ấy bị quân Đức dồn ép bằng
cách dần dần và hung hãn, từ phòng tuyến này sang phòng tuyến khác, mỗi lúc một
gần Maxcơva hơn, đã có chính cái cảm giác đó cả về thể lực lẫn tinh thần, đã
cảm thấy cái khả năng tiềm tàng có thể bật trở lên và đánh trả.
Bản thân họ đã dốc hết sức mình, họ biết
rằng sau lưng họ là Maxcơva, không cần giải thích cho họ điều này. Nhưng ngoài
ra, căn cứ theo những đợt bổ sung quân số đúng vào những giờ phút nguy kịch
nhất, theo số lượng pháo binh ngày càng kéo ra mặt trận đông hơn rõ rệt và theo
những dấu hiệu khác, kể từ những thứ quà cáp, thư từ cho đến giọng ăn nói của
báo chí, họ còn cảm thấy rằng ở đằng sau họ cả nước đang dốc sức ra để Maxcơva
khỏi phải rơi vào tay quân địch.
Nếu một lúc nào đó có cái cớ là Maxcơva có
thể lọt vào tay quân Đức thì thời điểm đó cũng đã qua rồi. Người ta chưa chờ
đợi chiến thắng ở cửa ngõ Maxcơva, nhưng người ta đã không còn tin vào khả năng
chiến bại nữa. Hình như địa lý đang ủng hộ bọn Đức: trên mấy con đường ôtô,
chúng nó đã tiến tới những địa điểm cách Maxcơva dưới trăm cây số. Nhưng cái
quy luật số học sơ đẳng của chiến tranh mà theo đó những chiếc xe tăng, sau khi
chọc thủng mặt trận, có thể vượt qua khoảng cách ấy trong vòng một vài ngày
đêm, hiện nay không còn phát huy tác dụng ở vùng lân cận Maxcơva nữa. Xe tăng
có thể chọc thủng mặt trận ở chỗ này chỗ kia, nhưng chỉ sau dăm bảy cây số, rồi
chúng cũng bị chận lại bằng cách này hay cách khác. Nhưng theo cái quy luật số
học đáng sợ kia thì một mình địa lý cũng không thể đè bẹp được tâm hồn.
Hiện nay, lợi dụng lúc tạm im tiếng súng,
trạm bưu điện dã chiến liền đưa thư đến. Malinin nhận được thư vợ. Quen sống
với ông đã suốt hai mươi ba năm trời nay đến nỗi cái tính dè sẻn của chồng về
mặt bộc lộ tình cảm tựa hồ như đã trở thành bản tính thứ hai của mình, bà vợ
viết cho ông một cách kín đáo là luôn luôn nghĩ tới chồng và cứ lo rằng người
ta có phát quân phục mùa đông cho ông kịp thời không: nghe nói là sắp có những
đợt rét sớm. Ngoài ra bà báo hai tin mới
Tin thứ nhất liên quan đến cậu con trai.
Nhà trường đã tản cư về vùng gần Cadan và ông hiệu trưởng viết thư báo rằng cậu
Víchto Malinin, con trai ông bà, học sinh lớp chín, đã biến mất, sau khi để lại
mảnh giấy nói là cậu ta ra đi bảo vệ Maxcơva và mặc dầu truy lùng mãi, nhung
đến nay vẫn không bắt được.
“Làm gì mà bắt được nó, thằng hủi!”, -
Malinin dịu dàng nghĩ về đứa con trai.
Bà vợ viết về cậu con với nỗi đau đớn sâu
sắc, điều đó lúc đầu đã không khiến cho Malinin thông cảm. “Thôi đành vậy, thằng
thanh niên đó mười bảy tuổi rồi” - ông nghĩ thầm ra vẻ can đảm, nhưng sau đó
sực nhớ lại buổi tối hôm qua và ngôi mộ tập thể chưa đắp đất trong đó chôn bảy
người của đại đội, những tử sĩ đã hy sinh chỉ trong vòng một ngày; ông nhớ lại
và đâm buồn, tuy niềm tự hào về hành động của thằng con trai vẫn còn lại trong
tâm hồn.
Tin thứ hai có liên quan tới bà vợ: phòng
nhà cửa quận, nơi bà làm cán bộ thanh tra lại đang bắt tay vào công tác và bà
đã được đề bạt làm trưởng phòng, bởi vì thủ trưởng của bà là ông Kukuskin, mà
Malinin có quen, đã từ thành phố Gorki quay về, sau khi ông ta tự ý bỏ chuồn
tới đó, và đã bị cách chức, khai trừ ra khỏi đảng, tước quyền miễn động viên và
bị đưa ra mặt trận làm lính. Tin này khiến Malinin vui mừng. Cái việc ở Maxcơva
người ta đang xử lý với những kẻ như Kukuskin càng khiến ông thêm tin chắc rằng
cuối cùng nói chung sẽ đâu vào đấy cả: không những Maxcơva không đầu hàng, mà
còn có thể chúng ta sẽ không rút lui đến tận đó nữa kia.
Đối với bản thân Kukuskin, con người mà
theo ông là một thằng đại xỏ lá, Malinin tức giận nghĩ rằng thằng cha này sẽ
tìm được cách thoát nạn. Hắn sẽ bị tống ra mặt trận, nhưng rút cuộc hắn vẫn bật
trở lại như cái nút chai về một nơi nào đó tại hậu phương. Sau khi nghỉ lấy
hơi, Malinin đi đến tận cái gò, nơi trung đội của ông đang bố trí. Hôm qua,
trận chiến đấu đã diễn ra tới mức mà cả ngày cả đêm ông đều không có mặt ở đây
và cảm thấy mình vô cớ mà có lỗi. Ông đã đặt ra tục lệ là mỗi ngày ít ra một
lần đến thăm từng chiến sĩ của mình anh em trong đại đội không còn nhiều lắm
nữa. Hơn nữa, sự đời là thế đó - hôm qua chưa kịp đến thăm thì hôm nay đã không
thể gặp mặt nữa; hôm qua, trung đội lại bị tổn thất và theo số liệu ban sáng
thì trong trung đội chỉ còn vẻn vẹn mười một chiến sĩ, kể cả trung đội trưởng là
trung sĩ Xirôta. Anh chàng Xirôta này chỉ huy trung đội đã được một tuần, sau
khi cả hai trung úy đều chết trận trong một hôm: buổi sáng là người đã chiến
đấu từ ngày đầu chiến tranh, còn buổi chiều là người kia, một người mới được
giới thiệu thẳng từ nhà trường đến thay thế người thứ nhất.
Đống đổ nát của nhà máy gạch nói thực ra
chẳng phải là đổ nát, vì ở đây chẳng có gì để mà đổ nát đâu. Nhà máy mới được
bắt đầu xây dựng và đã bị bỏ dở. Đã đắp nền, xây bệ lò và bắt đầu xây tường đến
những độ cao thấp khác nhau, nhưng chả có ở đâu cao quá nửa cửa sổ, ống khói
tương lai của nhà máy cũng đã được xây bệ ở ngay đây, hơi xa hơn một chút. Cái
bệ tròn đồ sộ nhô lên khỏi mặt đất một thước, còn trong lòng thì được khoét sâu
để thông khói ngầm dưới đất. - Nó tựa hồ như một lô cốt thiên nhiên hình tròn
mà bây giờ chỉ cần sửa sang cho thích hợp với một ổ súng máy.
Ngay từ ba hôm trước đây, khi chiếm lĩnh
trận địa này, vì bản thân vốn là một xạ thủ súng mảy cũ, Malinin đã khuyên nên
lợi dụng triệt để cái ống khói và hôm kia đã trông thấy Xintxốp vác khẩu đại
liên đến bố trí ở đây; anh đã được phiên chế vào đại đội của Malinin từ khi bắt
đầu đánh nhau, một phần do sự tình cờ, bởi vì nói chung anh rất có thể rơi vào
một trung đoàn và tiểu đoàn khác, còn một phần do ý muốn của Malinin, bởi vì
khi đã phiên chế vào tiểu đoàn này rồi thì Malinin đã nói giúp một lời, và
trong lúc phân phối lực lượng bổ sung, người ta đã sắp xếp Xintxốp vào đại đội
của ông.
Chả mấy chốc đã phát hiện ra rằng Xintxốp
quả thực là một người từng trải và biết cách sử dụng vũ khí. Như thường tình
trong những ngày đánh nhau to, con nhà lính được thăng chức nhanh vùn vụt, buổi
sáng đầu tiên anh giữ chân đâm băng, buổi chiều đã làm xạ thủ số hai của khẩu
“Macxim” nhưng sang ngày hôm sau đã thay thế ngườị số một bị chết trận. Cách
đây bốn hôm, khi rút lui từ trận địa cũ đến trận địa nơi này, Xintxốp đã cùng
xạ thủ số hai dùng hỏa lực súng máy bắn yểm hộ mãi đến tận tối cho đại đội rút
lui và theo ý kiến của trung úy đại đội trưởng Iônốp thì trong lúc đó anh đã tỏ
ra gan dạ và chịu đựng.
Trung úy Iônốp thậm chí còn nói rằng nên đề
nghị thưởng huy chương “Dũng cảm” cho xạ thủ số một, nhưng Malinin vẫn nhớ câu
chuyện cũ của Xintxốp, thành ra ông đã tránh được sự vội vàng. Bản tính nghiêm
khắc và tinh thần trách nhiệm của ông đối với Xintxốp không cho phép ông vội
vàng trong việc này. Ông chỉ tỏ ý khen ngợi và nhắc đến tên họ của các xạ thủ
trong bản báo cáo công tác chính trị thường kỳ về hoạt động của khẩu đội súng
máy, còn đối với lời đề nghị viết tờ trình để tặng huy chương thì ông cứ làm
thinh. Rồi đại đội trưởng vì bận rộn công kia việc nọ, cho nên chính mình cũng
quên mất Xintxốp.
Bây giờ Malinin muốn đến thăm Xintxốp,
nhưng ông không đi đến ổ súng máy mà thoạt tiên đi đến chỗ gạch ngói đổ nát của
nhà máy, nơi trung sĩ Xirôta bố trí quân.
Trung sĩ Xirôta cố nhiên cũng giống như mọi
người, không tránh khỏi được cảm giác sợ hãi trước sự nguy hiểm, nhưng cảm giác
đó không đóng một vai trò đặc biệt trong những suy nghĩ của anh về công tác.
Anh cũng có thể bị giết như bất cứ người nào khác - nói chung tất cả, kể cả
công tác trong quân đội, đều kết thúc như thế, tuy nhiên ý nghĩ về cái chết
không thể ảnh hưởng đến tinh thần nghiêm túc hoàn thành công tác.
Nhác thấy chính trị viên đại đội từ đằng
xa, Xirôta đã siết chặt thắt lưng ngoài tấm áo bông, kiểm tra xem ngôi sao trên
mũ che tai có nằm đúng vào giữa trán không và khoác lên vai khẩu tiểu liên K-50
mới toanh vừa lau dầu.
Sư đoàn bắt đầu lĩnh những khẩu tiểu liên
nay vào tuần trước; Xirôta là người đầu tiên trong trung đội được trang bị loại
súng ấy và anh đã thử lửa nó; mặc dầu khẩu tiểu liên không có thước ngắm độ
chính xác như khẩu súng trường, nhưng nó có thể bắn gục hàng loạt tên địch cùng
một lúc và bây giờ, trong thời gian đầu, Xirôta đã tỏ thái độ chú ý, thậm chí
quá mức, đối với khẩu K-50 của mình.
Mang khẩu K-50 lên vai xong, anh liền chạy
qua lỗ cửa trên tường ra đón chính trị viên. Để đáp lại cái chào nghiêm túc
hoàn toàn đúng tác phong của Xirôta, thoạt tiên Malinin đặt tay lên vành chiếc
mũ che tai, nhưng sau đó lại chìa tay ra cho trung sĩ bắt.
- Xirôta, sinh hoạt ra sao? - Ông ta vừa
hỏi vừa dùng bàn tay nặng trịch của mình siết chặt lấy bàn tay cũng nặng trịch
như vậy của Xirôta.
- Báo cáo chính trị viên, ăn uống thất
thường lắm ạ! - Xirôta liền kêu ca.
Theo kinh nghiệm đời lính của mình, anh
thừa biết rằng lúc nào có thể và lúc nào không nên kêu ca với cấp trên và lúc
nào có thể thì bao giờ anh cũng kêu ca.
- Tại sao lại thất thường? - Malinin đã
biết là vấn đề gì rồi, nhưng cứ làm ra vẻ không đoán được.
- Báo cáo chính trị viên, thế chứ sao nữa
ạ, mờ sáng hôm nay, anh em mang phích đến, nhưng chỉ lĩnh được một số đủ đựng
hết trong cà-mèn...
- Quy định bao nhiêu thì phát bấy nhiêu
chứ, - Malinin nói, - theo quân số có mặt. Như vậy thì có gì đáng bực mình?
- Tôi có bực mình đâu, - Xirôta nói, mặc
dầu đúng là anh ta không bằng lòng về việc đó; anh ta không cho biết số thương
vong và tính toán rằng hôm nay sẽ được lĩnh thực phẩm theo mức hôm qua.
- Còn cái gì không tốt nữa? - Malinin hỏi.
- Thì chính đồng chí cùng biết đấy, -
Xirôta nhún vai và vẻ mặt của anh có ý nói “Trời không mây, ai dám đòi ngay mưa
rào”. - Không chở đến thì biết làm thế nào nhỉ?
- Đó là câu nói về chuyện thuốc hút phải
không?
- Báo cáo chính trị viên, còn về chuyện gì
nữa chứ? Tình hình cung cấp đạn dược bình thường, chúng tôi không kêu ca gì.
Malinin nhếch mép cười, móc túi dết và móc
ra bốn gói thuốc sợi rời.
- Này, cầm lấy chia cho anh em. Hôm nay vừa
đúng lúc nhận được quà của những người đỡ đầu từ Maxcơva gửi đến thế là mình
cầm luôn thuốc đi. Đằng mình có cả thuốc lá điếu rồi sau đây sẽ đem tất cả đến
cho các cậu, chiều nay...
Xirôta cầm lấy thuốc ở tay Malinin và thậm
chí thở dài vì sung sướng; cứ nhìn mặt anh ta cũng thấy là từ lâu anh ta nhịn
hút.
- Hút đi! - thoáng nhận thấy vẻ mặt đó,
Malinin liền nói, - mình cũng hút đây. - Rồi ông móc bao thuốc sợi rời bóc dở ở
trong túi ra, đổ thuốc cho mình và cho Xirôta, xong bắt đầu quấn một điếu.
- Có lẽ ta vào trong kia nhỉ? - Xirôta nói.
- Trong đó, chúng tôi đã đào hàm ếch ở một bức tường và căng một tấm áo choàng
mưa lên che.
- Được đấy, ở đây gió thật, - Malinin nói.
- Thời tiết tốt lắm.
- Báo cáo chính trị viên, thế thì ngay bây
giờ! Nếu đồng chí cho phép, tôi sẽ chia thuốc cho anh em chiến sĩ ngay.
- Tất nhiên rồi...
Xirôta biến vào trong lỗ cửa, gọi ai đó và
chắc là ra lệnh chia thuốc sợi rồi quay ra chỗ Malinin.
Xirôta vào bộ đội từ khi còn theo luật nghĩa
vụ quân sự cũ, nghĩa là không phải lúc mười chín tuổi mà lúc hăm hai tuổi. Bây
giờ anh ta mới hai mươi tám, nhưng vì luôn luôn có dáng bộ đăm chiêu cho nên
trông có vẻ già trước tuổi. Tuy vậy lúc bây giờ, khi anh đang quấn điếu thuốc,
một nụ cười nở rộng trên mặt anh.
- Cậu có gì mừng thế? - Malinin hỏi.
- Báo cáo chính trị viên, thời tiết ạ. -
Xirôta khéo léo khum bàn tay lại che ngọn lửa và châm điếu thuốc. - Giá mà băng
giá thêm nữa thì tốt.
- Tốt cái gì kia chứ? - Malinin hỏi. - Băng
giá nhiều thì ở dã ngoại gay đấy.
- Thế mà tôi lại thấy trước là đối với
chúng mình gay thật nhưng đối với bọn Đức còn gay hơn. - Xirôta vừa nói vừa tủm
tỉm cười tựa hồ như nhờ quyền lực cá nhân của mình nên đã chơi khăm bọn Đức một
vố. - Trong trung đội tôi có một sinh viên hóa chất năm thứ tư, cậu ấy nói là
dầu mỡ của không quân bọn hắn không chịu nổi băng giá cho nên bị đông lại. Đồng
chí trông xem, - Xirôta hất hàm trỏ lên trời. - Đây là hôm thứ hai thật sự mùa
đông và là hôm thứ hai mà máy bay bọn Đức ít cất cánh. Có lẽ nếu trời cứ giá
rét hơn nữa thì dầu mỡ trong xe tăng của chúng nó cũng đông lại đấy nhỉ?
- Còn cậu thì đừng sợ xe tăng.
- Nhưng tôi có sợ đâu. Chúng tôi đã đốt
cháy hai chiếc...
- Hai chưa phải là tất cả.
- Đối với một trung đội kia mà! - Xirôta
bực mình phản đối. - Đồng chí hãy tính xem, nếu chỉ lấy các trung đội bộ binh
thôi: một trung đội là hai chiếc, một đại đội là sáu chiếc, một tiểu đoàn là
mười tám chiếc. Một trung đoàn là năm mươi tư chiếc, - anh ta bấm đốt ngón tay,
tính tiếp, - một sư đoàn là một trăm sáu mươi chiếc, mà mười sư đoàn vị chi đã
là một ngàn sáu trăm... Xem này, giá mà bọn Đức khi đến gần Maxcơva đã không
còn xe tăng nữa. Giá mà tất cả đều như thế nhỉ! Nhưng phải chăng mỗi trung đội
trong tất cả các trung đội quân ta đều đốt cháy được hai chiếc xe tăng? Cứ lấy
tiểu đoàn ta làm thí dụ thôi. Tôi chưa biết một trung đội nào đã dốt cháy được
hai chiếc xe tăng, trừ trung đội chúng tôi! - anh ta kết luận ra vẻ tự ái.
- Thế nghĩa là cậu đã tính hết rồi, tính hộ
cho cả một mặt trận, - Malinin nhếch mép cười. - Cậu đã làm xong việc của chính
mình rồi, đã đốt cháy hai chiếc xe tăng phần mình rồi và có thể rúc vào bếp mà
sưởi ấm: bây giờ để cho người khác làm, bây giờ đến lượt họ phải không?
- Tại sao kia? Tôi không quen lập luận như
vậy đâu. Tôi chỉ vì sự thật mà nói rằng hai chiếc xe tăng đối với một trung đội
không phải là ít.
- Mình không nói là ít, - Malinin nói, - mà
mình nói là không nên đặt hy vọng vào dầu mỡ. Băng giá làm hỏng dầu mỡ của bọn
Đức, pháo sẽ ngừng bắn, tiểu liên sẽ bị tắc và chỉ còn cách là cào lại và xếp
thành đống như đống củi! Tinh thần đó không đúng đâu, đừng vì thế mà yên trí.
- Nhưng quả thật chúng tôi có yên trí đâu?
- Xirôta nói. Khi ở tư thế “nghỉ” anh ta không quen nót năng hoạt bát. Anh dang
tay rồi ngửa đầu lên nhìn trời. - Tất cả những điều đó đều là sự lừa dối, - anh
ta vừa nheo mắt vì chói nắng vừa nói. - Nếu chúng nó định trả đũa thì tất cả
thời tiết này cũng sẽ chỉ còn lại khói bụi...
- Thôi được, chúng ta đi thăm trận địa của
cậu đi. - Malinin vứt đầu mẩu thuốc lá, di chân lên và nói, rồi chui vào lỗ cửa
trước tiên.
Mười phút sau, ông ta đã ngồi trò chuyện
với anh em chiến sĩ, như lệ thường trong những giờ phút tạm im tiếng súng. Có
sáu người quây quần xung quanh ông, những anh em còn lại đang ở tại vị trí của
mình, trong số đó có cả Xintxốp, nhưng Malinin đã quen vớì tình hình là không
thể tập trung tất cả mọi người cùng một lúc nên cũng bằng lòng với đám thính
giả hiện có.
- Này, Mikhnexốp, - anh bảo người chiến sĩ
trẻ tuổi gầy gò, đang ra sức rít điếu thuốc lá quấn, - cố nhiên cậu là nhà hóa
học còn mình thì không, cậu am hiểu vấn đề lắm; này cậu nói là chất đốt của máy
bay quân Đức không chịu được băng giá, còn trong xe tăng của chúng thì dầu mỡ
cũng bị đông lại và theo cậu thì có lẽ hệ thống đại bác của chúng nó sẽ ngừng hoạt
động và các khẩu tiểu liên sẽ bắt đầu tắc. - Câu chuyện này đã khiến Malinin lo
lắng và bây giờ ông ta đang kiên quyết xoay chuyển câu chuyện bằng mọi cách,
định bụng rốt cuộc sẽ xoay chuyển được nó theo ý mình và đặt vấn đề theo cách
mà ông cho là đúng. - Mình nhắc lại rằng có thể như thế: cậu là nhà hóa học,
cậu thấy rõ hơn, nhưng riêng mình đây thì không hy vọng vào tất cả những điều
đó. Cậu hy vọng, còn mình thì không. Hơn nữa, mình nói rằng: cậu hy vọng là lúc
thời tiết băng giá, vũ khí và phương tiện của quân Đức sẽ ngừng hoạt động, còn
mình thì không hề hy vọng một chút nào vào điều đó, mình chỉ hy vọng vào cậu,
vào Mikhnexốp. Mình hy vọng vào cậu, hy vọng rằng bất cứ thời tiết nào, tâm hồn
cậu cùng sẽ không run và cả khẩu súng trường, cả quả lựu đạn, tất cả những gì
cậu có trong tay đều không ngừng hoạt động, bởi vì nếu tâm hồn cậu không run
thì dù cho tất cả vũ khí và phương tiện của quân Đức vẫn hoạt động như chiếc
đồng hồ ngay cả trong thời tiết băng giá ba mươi độ âm, thì dù sao chúng vẫn
không tiến đến Maxcơva được. Nhưng nếu tâm hồn cậu ngừng hoạt động thì lúc đó
chúng sẽ tiến vào Maxcơva được trong mọi hoàn cảnh, có vũ khí và phương tiện
hay không có vũ khí và phương tiện, trời băng giá hay không băng giá đằng nào
cùng vẫn cứ vào được! Thế nào, nhà hóa học, cậu sẽ nói sao về điều đó?
Rõ ràng Mikhnexốp không phải là một thanh
niên ngờ nghệch; anh ta hiểu ngay rằng chính trị viên sẽ lái câu chuyện về
hướng nào. Tuy nhiên, anh vẫn hết lòng mong sao cho tất cả ba mươi ba điều bất
hạnh sẽ trút xuống đầu bọn Đức đang tấn công Maxcơva, và anh bắt đầu hăng hái
nêu lên những lý lẽ mới khác nhau về thời tiết băng giá ở nước ta và vũ khí,
phương tiện của quân Đức.
- Được, cứ giả thiết là như vậy, - vì cảm
thấy rằng mình đã đánh bại được giọng lưỡi chủ quan đáng lo ngại, cho nên
Malinin nói ra vẻ hiền hòa, - để cho chúng nó tối tăm mặt mũi lại! Nhưng cậu đã
hiểu rằng vấn đề chủ yếu không phải ở chúng nó mà là ở cậu chứ? Không phải ở
chỗ dầu mỡ của chúng sẽ đông lại, mà là ở chỗ cậu sẽ chiến đấu ra sao chứ? -
Malinin bắn liên hồi vào một điểm.
- Vâng, báo cáo chính trị viên, cố nhiên
chúng tôi hiểu điều đó, - mấy người cùng trả lời một lúc.
- Xirôta này, - Malinin ngừng lại trong
chốc lát rồi nói, - hôm nay là thứ mấy nhỉ, thứ năm à?
- Thứ năm ạ.
- Cậu hãy chú ý là ngày thứ bảy sẽ có cuộc
họp đảng ủy trung đoàn. Hôm ấy sẽ có vấn đề của cậu, cậu sẽ được kết nạp vào
đảng.
- Tôi rất sợ bị hỏi, - Xirôta nói. - Tôi
thì bao giờ cũng vẫn thế: khi chưa hỏi gì thì tôi hiểu tất, hễ có người hỏi là
quên tuốt. Thật là trớ trêu!
- Từ sáng hôm nay, cậu ấy đã đọc thêm một
lượt nữa cả Điều lệ lẫn “Giáo trình cơ sở”, cậu ấy đang chuẩn bị đấy. - một
chiến sĩ đã có tuổi nói như kiểu bố với con. Đó chính là Trôphimốp, người mà
trước khi vào doanh trại của tiểu đoàn cộng sản đã bị các đồng chí khác đùa là
ông ta làm y như sửa soạn đi câu cá. Bây giờ ông đội mũ che tai, mặc áo bông,
khoác capốt bên ngoài áo bông, trông ra vẻ một người lính chính cống và chỉ có
bộ ria bàn chải bạc trắng là làm lộ ra tuổi tác của ông. Ông đã đến đại đội này
cũng một đợt bổ sung với Xintxốp và sau bao nhiêu lần thương vong, chỉ còn lại
một mình ông là đảng viên ở trong trung đội.
“Nếu không tính Xintxốp”, - Malinin nhớ ra
và ngay lúc đó lại nghĩ rằng không thể tính Xintxốp được: nếu đã bị mất thẻ
đảng viên trong những hoàn cảnh không được xác minh thì thậm chí dù có lập được
chiến công chăng nữa vẫn có thể không được phục hồi đảng tịch.
- Còn bác, Trôphimốp ạ, - Malinin nói. -
bác hãy giúp Xirôta chuẩn bị. Tuy cậu ấy là trung đội trưởng còn bác là chiến sĩ,
nhưng bác là đảng viên cũ và trong vấn đề này bác là bề trên đối với cậu ta.
- Vâng, đồng chí ấy đang giúp đấy, - Xirôta
lên tiếng,- và cuốn “Giáo trình cơ sở” là của đồng chí ấy, tôi chỉ có cuốn Điều
lệ thôi.
- Bác mang theo từ Maxcơva đi à? - Malinin nhìn
Trôphimốp.
Trôphimốp gật đầu và nói:
- Tất cả bọn trẻ cứ tra khảo tôi về
Maxcơva. Maxcơva ra sao và, phải, nghe nói là ở đó hoang mang lắm... bác hãy kể
xem tình hình ra sao. Còn tôi thì trả lời; nếu có chuyện gì thì tôi cũng đã
quên mất rồi. Bây giờ cũng như Lermontốp, tôi còn nhớ câu nói: “Anh em ơi, có
phải Maxcơva ở đằng sau lưng chúng ta không? Chúng ta sẽ chết ở ngay gần
Maxcơva!...”. Tôi học câu đó từ thời Nga hoàng. Từ đầu thế kỷ này, hồi ở trong
trường xứ đạo, thế mà vẫn không quên kia đấy!
- Thôi được, - Malinin nói. - Nếu các đồng
chí muốn biết tin tức Maxcơva thì tôi có thể kể những tin mới nhất. Tôi vừa
nhận được thư của nhà tôi...
Ông ta kể nào chuyện thằng con trai đã trốn
ra mặt trận, nào chuyện bà vợ quay về làm việc ở phòng nhà cửa quận và chuyện
Kukuskin bị tước quyền miễn động viên và bị đưa ra mặt trận.
Các chiến sĩ nghe chuyện có vẻ đồng tình;
ai nấy đều bằng lòng vì Kukuskin đã bị tước quyền miễn trừ: đối với hắn phải
thế, đồ quỷ!
- Nghĩa là trật tự đang được lập lại ở
Maxcơva. - Trôphimốp nhếch mép cười, - thế là tốt. Còn chuyện thằng con ông bỏ
trốn thì giận hay không giận là tùy ý ông, Alếcxây Đênixứts, còn nếu trước kia
nó là thằng du côn thì nghĩa là nó vẫn như thế. Mình ở cách nhà ông hai phố,
nhưng cũng có biết những trò ma mãnh của nó...
- Không sao, - Malinin nói có ý hơi tự ái
về ý kiến đó, - Chính mình vào lứa tuổi nó cũng đã từng là một thằng du côn
loại cứng...
- Nhưng mà thế nào, - người chiến sĩ trẻ,
xanh xao, từ nãy đến giờ vẫn ngồi im lặng, chống tay vào cằm, bỗng hỏi. - Sau
những trận ném bom thì quang cảnh Maxcơva thế nào chứ nhỉ? Chính tôi đây là
người Maxcơva, nhà tôi ở Côrôvi Van.
- Côrôvi Van của cậu vẫn nguyên vẹn, -
Malinin nói. - Mà chắc là Trôphimốp đã kể chuyện cho các cậu nghe hàng chục lần
rồi. Các cậu cứ tin vào bác ấy, bác ấy là một lão nông nghiêm túc, không rượu
chè và không nói dối, dù là dân chài cũng vậy thôi!
Mọi người cười rộ.
- Nhưng dù sao, - anh chàng người Maxcơva ở
Côrôvi Van chưa chịu yên, - chả nhẽ ở Maxcơva lại ít bị tàn phá như đăng trên
báo ấy à... Thì đêm nào chúng nó cũng bay trên đầu ì ầm, ì ầm...
- Bay nhưng không bay đến nơi. - Malinin
nói. - Không phải viên đạn nào cũng bay đến cậu đâu! Đối với Maxcơva cũng vậy.
Ở đây, cậu có cảm tưởng rằng ở đó, mỗi trận ném bom là một chuyện ghê gớm, còn
tôi khi đi ra mặt trận thì đầu gối cứ run lẩy bẩy, nhưng khi đi đến nơi thì
hình như chẳng sao cả.
- Ái chà, đồng chí chính trị viên, đồng chí
có nói thật đâu: đầu gối run lên kìa ạ! - Xirôta tỏ vẻ không tin một cách lễ
phép.
Malinin lườm anh có ý chế giễu.
- Thì chính thế đấy, run mà lại! Cậu làm
sao thế, cậu cứ tưởng rằng tớ không biết sợ hay sao? Sợ quá đi chứ lại, -
Malinin cúi xuống trước tiếng rít của viên đạn đại bác bay qua rất thấp rồi vẫn
đủ sức để đùa: - Thấy không, tớ cúi chào đạn pháo...
Vài ba người mỉm cười, nét mặt của những
người kia có vẻ nghiêm trang: quả đạn nố quá gần nên không thể đùa được. Phát
đạn thứ hai, cũng là phát bắn thử như phát đầu, nổ tung ở đằng trước. Mọi người
chạy tản ra nấp dưới chân tường. Còn pháo binh Đức thì bắt đầu bắn hết phát này
đến phát khác, như điên như cuồng, giã vào khắp cái gò có nhà máy gạch. Mùi
khói bốc lên khét lẹt.
- Bọn khốn nạn, chính hôm qua chúng nó đã
bắn thử, khi chúng ta đánh trả lại cuộc tấn công của chúng! - Xirôta thét vào
tai Malinin. - Hôm qua dội nhưng chẳng cứu vãn được gì! Nhưng rồi hôm nay lại
sẽ còn dội nhiều hơn... Chúng bắt đầu đụng ngay vào chỗ chúng ta.
Chẳng có ai và chẳng có thì giờ để suy nghĩ
xem hoặc là quả thật quân Đức đã bắn thử hôm qua rồi chăng, hay hôm nay chúng
mới bắn hú họa mà trúng chăng. Sau khi rải một chục quả đạn ra xung quanh, gần
đến nỗi sức ép quá mạnh làm cho đất chao đi đảo lại mấy lần, bọn Đức rót một
quả đạn thẳng vào trong lòng tòa nhà xây dở.
Trước đó, Malinin đang nằm dưới chân tường
như mọi người để tránh những mảnh đạn đại bác nổ ở bên ngoài, cảm thấy cùng một
lúc cả sức công phá, tiếng nổ rền, sức ép và nghẹt thở. Những mảnh tường đổ và
những cục đất đóng băng bị đạn pháo tung lên vùi lấp người ông.
Vừa thở hồng hộc vừa dùng hết sức, Malinin
đã ngoi được lên khỏi lớp gạch ngói và đất cát phủ lên người. Ông ngồi được là
vì trước khi đạn pháo nổ ông đã dùng hai tay che đầu cho nên tay nằm ở trên.
Ông đã rút được tay ra và sờ bộ mặt đẫm máu
rồi bắt đầu điên cuồng bới tất cả những thứ gì cản trở ông đứng dậy và cuối
cùng chui ra khỏi nấm mồ bằng gạch vụn đó, tuy tai ù nhưng còn sống, lảo đảo
đứng hẳn dậy được.
Xung quanh mọi vật đều tiêu tan. Quả đạn
pháo hạng nặng đã đào xới lên từng tấc đất của một khu vực rộng lớn Trên lớp
tuyết lẫn với đất bị xới tung và những mảnh nền nhà đã in thẫm những vết máu,
ngổn ngang những mảnh quân phục, những mẩu thân người không còn ra hình thù gì
nữa, chiếc ủng của ai đó với cả cái cẳng chân bị chặt ngang phía trên đầu gối.
Malinin thẫn thờ tiến lên mấy bước và giật
mình, đứng lại. Có cái gì gãy răng rắc dưới ủng ông ta: ông nhìn xuống và trông
thấy cặp kính của Trôphimốp có bộ gọng buộc chỉ quen thuộc.
Ông quay lại chỗ góc tường, nơi chính mình
bị vùi lấp rồi hiểu ra rằng mình còn sống sót chính là vì đã bị gạch ngói vùi
lấp đi. Gạch đổ sập xuống do một phát đạn nổ dưới chân tường phía bên ngoài,
còn quả đạn rơi vào phía trong thì nổ chậm hơn một chút khi Malinin đã bị những
mảnh gạch rơi xuống che đỡ cho.
- Này, có ai đây không, có ai đấy không! -
Malinin vừa kêu lên vừa bắt đầu nhớ lại xem cụ thể là ai đã ở cạnh mình trong
giây phút cuối cùng.
Đó là Xirôta, là anh chàng sinh viên hóa
chất Mikhnexốp, họ ở đâu rồi nhỉ? Ở phía bên này đống tường đổ nát không thấy
xác người, thậm chí không có cả những gì còn lại của xác người khi đạn rơi đúng
vào chỗ ấy.
“Có lẽ họ bị đạn pháo hất tung đi”, -
Malinin nghĩ thầm và ngay giây phút đó ông nghe có tiếng rên vẳng lên từ dưới
lớp gạch vùi lấp một góc tòa nhà. Ông liền bới đống gạch đến xước cả móng tay
và cuối cùng lôi được Xirôta ra khởi lớp gạch vụn. Xirôta còn sống, thậm chí
còn có những cử động tựa hồ như đang cố sức để đứng dậy, nửa dưới của mặt anh
đã biến thành một mảng lầy nhầy những máu đỏ lòm. Anh ta không rên bằng mồm mà
bằng cố họng và thậm chí hình như không phải bằng cổ họng mà bằng bụng; tiếng
rên đó từ bụng thoát ra ngoài qua cái mồm đã bị dập nát.
Malinin bốc một nắm tuyết và lau bộ mặt gớm
ghiếc của Xirôta, làm cho tuyết cũng đỏ lòm. Sau đó, ông móc gói băng cá nhân trong
túi dết ra và nâng đầu Xirôta lên, bắt đầu băng phần dưới mặt cho anh ta. Thoạt
tiên, ông quên mất rằng anh phải thở cho nên băng kín tất cả, đến nỗi Xirôta
đâm ra thở khò khè. Đành phải băng lại từ đầu, quấn bộ mặt của người trung sĩ
bằng cuộn băng đã bê bết máu. Băng cho Xìrôta xong, Malinin liền kéo anh tới
dựa vào tường cho đầu cao hơn để anh đừng bị sặc máu và mãi tới lủc đó ông mới
trông thấy một bàn chân thò ra ngoài đống gạch ở nơi mà ông đã lôi Xirôta lên.
Trước đó một giờ, ngay từ khi mới đến đây,
ông đã nhận thấy anh sinh viên hóa chất Mikhnexốp có đôi bốt bằng dạ đã cũ
nhưng còn tốt, lót hai lớp nỉ. Mikhnexốp nói rằng vừa nhặt được nó mấy hôm
trước trong một ngôi nhà gỗ bỏ hoang và Malinin còn định nóỉ đùa rằng nhà hóa
học đã chuẩn bị cho mùa đông tốt nhất trong trung đội. Ông ta định đùa rồi quên
đi, nhưng bây giờ khi nhác thấy đôi ủng dạ lót nỉ, ông hiểu ngay là Mikhnexốp
đang nằm đó.
Không để mất thời gian, ông liền vội vàng
moi Mikhnexốp lên: ông bắt đầu từ đằng chân, sau đó to tiếng tự rủa mình và ước
tính bằng mắt xem cái đầu của Mikhnexốp ở chỗ nào dưới lớp gạch rồi bò sang moi
ở đó. Phải bắt đầu từ đằng đầu để trong trường họp anh ta còn sống thì không bị
ngạt thở. Vừa tiếp tục tự rủa mình đã không nghĩ ngay ra cái điều đơn giản như
vậy, Malinin vừa cuống cuồng bới gạch. Cuối cùng, hai vai của Mikhnexốp đã lòi
ra. Malinin đưa tay sờ: vai vẫn còn nóng dưới lớp áo bông. Mikhnexốp còn sống.
Malinin càng vội hơn nhưng khi ông đã đưa được cổ và đầu Mikhnexốp ra một cách
cẩn thận hon thì bỗng ngừng phắt lại, cầm trong tay hòn gạch vừa mới nhặt lên ở
sau gáy Mikhnexốp. Thân thể còn nóng nhưng anh ta đã chết. Tất cả phần trên sọ
não của anh đã bị chính mảnh gạch này phạt mất.
Malinin ưỡn thẳng lưng dậy, giận dữ ném hòn
gạch xuống đất, và ngay giây phút đó, ông nghe có tiếng súng máy gõ nhát gừng ở
gần đấy. Ở trong khoang nền của cột ống khói nhà máy cách ông bốn chục bước,
anh em vẫn còn sống và đang chĩa hỏa lực vào quân Dức. Malinin cảm thấy trong
lòng nhẹ nhõm, ông cứ tưởng còn lại một mình.
Malinin đi đến bên Xirôta, nhấc cái thân
hình nặng nề của anh lên lần nữa và chuyển chỗ để đề phòng trường hợp đạn pháo
có bắn nữa thì anh ta cũng được che kín hơn. Tuy nhiên, hỏa lực pháo binh Đức
bây giờ đã bắn xa tung thâm. Khi Malinin chuyển chỗ cho Xirôta thì anh ta làm
mấy cử động yếu ớt dưới lớp băng đẫm máu, tựa hồ như toan kêu lên điều gì, sau
đó anh xòe hai bàn tay đang nắm chặt giống như ngạc nhiên trước tình trạng bất
lực của mình rồi nắm tay lại như cũ và lặng thinh. Chỉ có bộ ngực của anh ta nặng
nề phồng lên, xẹp xuống với tiếng thở khò khè. Malinin lại nhìn anh lần nữa,
trèo qua bức tường và theo giao thông hào nhỏ sâu bằng nửa người, dẫn tới ống
khói mà đi về phía đang có tiếng súng máy tiềp tục nổ ròn rã.
Khi pháo bắt đầu bắn thì Xintxốp đã cùng
với xạ thủ số hai của mình, một chiến sĩ trẻ đã làm nghĩa vụ quân sự được hơn
một năm tên là Kôlia Baiukốp, ngồi sau khẩu súng máy, bên cạnh một trong hai lỗ
châu mai khoét trên ống khói. Họ không bắn mà cứ giả chĩa súng vào những vật
chuẩn đã bắn thử từ trước và đảo lộn vị trí cho nhau trong khi luyện tập:
Xintxốp làm số hai còn Baiucốp thì làm số một.
Trước lỗ châu mai là bắt đầu sườn đồi dốc
đứng, một phần dốc khuất không trông thấy và nằm trong tử giác; sau đó dốc
nghiêng thoai thoải và đổ xuống một khu đất hình lòng chảo phủ tuyết. Khu lòng
chảo này nằm cắt ngang trận địa của quân ta, còn đằng sau nó là bắt đầu một cái
gò đất khác, nơi mà các trung đội kia của đại đội đang bố phòng gần ba ngôi nhà
nhỏ cách biệt nhau, Không có công sự ngay trong lòng chảo, nó đã được bắn thử
kỹ càng từ hai phía và được ngăn giữ bằng lưới lửa của hai khẩu súng máy. Hôm
qua, quân Đức đã toan tấn công đúng theo lòng chảo đó, nhưng vì hai làn đạn bắn
chéo cánh sẻ, nên không thọc qua được và thậm chí không thể lôi được xác chết
về, mặc dầu thường thường chúng vẫn làm như vậy, dù có phải liều mạng. Hôm qua,
nghe nói rằng trong lòng chảo còn lại đến ba chục xác người nhưng từ lỗ châu
mai này trông ra chỉ thấy có mấy cái xác đen lù lù trên tuyết ở phía dưới.
Trong khi cùng với Baiukốp ngắm thử, Xintxốp bây giờ đang dùng cái cột mốc
trồng xuống tuyết và hai cái xác bên ngoài cùng, một ở lối đi vào và một ở lối
ra khỏi lòng chảo, làm vật chuẩn.
Baiukốp cùng chiến đấu với Xintxốp đã được
một tuần. Trông anh ta có cái gì giống như người chiến sĩ hồng quân mà hôm ở
Maxcơva đã đồng ý gọi người sĩ quan trực ban trong viện kiểm sát cho Xintxốp.
Baiukốp cũng có cặp lông mày đen và bộ mặt con gái nhẵn nhụi, hồng hào như vậy.
Khi anh ta bỏ chiếc mũ che tai xuống thì người ta thấy rằng mái tóc bù xù lông
dím của anh ta đúng là màu nâu nhạt như vải lanh
“Chắc là khi chưa vào bộ đội, cậu để tóc
bồng hẳn?”, - ngay từ ngày đầu, Xintxốp đã hỏi anh ta; Baiukốp mỉm cười và nói:
“Chứ gì nữa!”, - còn Xintxốp thì nghĩ thầm rằng với đôi lông mày đen và bộ tóc
màu hạt dẻ nhạt kia, chắc hẳn cậu ta là một anh chàng đẹp trai hiếm có. Bây giờ
anh đã cắt tóc ngắn đội chiếc mũ che tai quá rộng của người khác mà anh là
người sử dụng thứ hai. Anh khoác tấm áo capốt tùm hụp ở ngoài áo bông, vả lại
cả hai người đã nằm ở đây ba bốn ngoài trời, thoạt tiên trên bùn lầy và sau đó
trên băng tuyết; ở đây quả thật không còn bụng dạ nào nghĩ đến đẹp xấu nữa.
Mối quan hệ tốt đẹp nhất đã được thiết lập
giữa hai người ngay từ ngày đầu quen biết, nếu nói đúng hơn thì ngay từ cái
phút mà Xintxốp bảo rằng cả haí xạ thủ súng máy đều phải biết làm động tác của
cả số haí lẫn số một và anh chứng minh luôn lời nói bằng việc làm, ngay trong
giờ phút đầu tạm im tiếng súng, anh đã cùng Baiukốp tiến hành tính toán các góc
bắn, góc tà và hiệu chỉnh tầm xa...
Baiukốp nguyên là nông trang viên ở bản
Xôlôtra thuộc vùng rừng núi bên kia sông Ôka gần thành phố Riadan. Bản này nổi
tiếng về khoai tây và nghề đánh cá trên dòng cũ của con sông Ôka là Xtarixa.
Dù sao chăng nữa thì con người không phải
lúc nào cùng chỉ có chiến đấu. Baiukốp là người có thể vừa trầm lặng vừa mồm
mép, tùy theo trường hợp anh thích hay không thích người nào đó. Trong vòng một
tuần, anh đã kịp kể lại cho Xintxốp nghe rằng anh chưa thi đỗ lớp bảy do hoàn
cảnh gia đình: bố chết, còn mẹ thì bị ốm, và trước khi vào bộ đội, anh là đội
trưởng đội thanh niên cộng sản trồng khoai tây một năm, còn sau khi phục viên
thì dù sao anh vẫn muốn đi học làm kỹ sư nông nghiệp.
- Chỉ cần trước hết phải thì đỗ lớp bảy,
tôi đã tưởng là sẽ thi trong quân đội, - Baiukốp nói. - Thế mà ở đây lại có cái
việc này...
“Cái việc này” tức là chiến tranh.
Baiukốp là một thanh niên dễ tin và cái gì
cũng muốn biết, Trong cuốn vở cất trong balô, anh ta đã ghi lại tên tất cả
những cuốn sách mà anh đã đọc trên đời này. Đối với lứa tuổi anh, số sách đó
không phải là ít: một trăm linh bốn cuốn và phần lớn đều là sách hay. Buổi tối,
nếu hoàn cảnh cho phép, anh ta lại hồi tưởng tới những cuốn sách này và kể lại
bằng tiếng địa phương Riadan hơi trọ trẹ cho Xintxốp nghe nội dung của những
cuốn sách ấy.
Trong chiến đấu, Baiukốp thường hoàn toàn
bị thu hút vào nhiệm vụ của mình. Anh ta tâm đầu ý hợp với Xintxốp về điểm đó
và hai người hiểu rõ nhau.
Xintxốp cũng để hết tâm trí vào chiến đấu,
anh không tỏ ra nể nang đối với bản thân mình và không xây dựng một kế hoạch cá
nhân nào cả; bây giờ anh đã hình dung ra tất cả quãng đời tương lai của anh
trong chiến tranh - đến lúc chết hay đến lúc chiến thắng chăng nữa - là cuộc
đời binh nhất binh nhì. Trong một tuần qua, Baiukốp đã tỏ ra là một người phối
hợp tay đôi giỏi, điều ấy giờ đây đối với anh là quan trọng nhất trên đời này
và không những vì vậy anh quý trọng Baiukốp mà còn sẵn sàng làm cho cậu ta
nhiều hơn là đối với nhiều người khác mà anh đã quen biết trong nhiều năm.
Khi cuộc pháo kích bắt đầu, Xintxốp và
Baiukốp kéo khẩu súng máy lùi xa lỗ châu mai về phía sau một chút để những mảnh
đạn lạc khỏi va vào nòng súng, còn bản thân họ thì chuyển chỗ ngồi xuống thấp
hơn, ở dưới đáy ống khói lát bằng gạch chịu lửa chắc chắn. Họ hiểu ngay rằng
pháo bắn ác liệt và chính xác. Tất cả xung quanh đều rung chuyền ầm ầm vì những
phát đạn nổ gần, nhưng mặc dầu bị pháo bắn như vậy, ở đây họ vẫn cảm thấy hầu
như an toàn trong cái ống khói này; chỉ có một quả đạn hạng nặng bắn thẳng từ
một cự ly gần mới có thể chọc thủng nổi nhiều lớp gạch chịu lửa ấy, hơn nữa đạn
không được rơi chéo góc mà phải rơi thẳng góc. Các mảnh đạn khó mà lọt được vào
ống khói từ hôm kia, Xintxốp đã cùng Baiukốp đậy ống khói bằng những tấm sắt
nồi hơi. Trung đội trưởng Xirôta nói rằng số sắt đó được chuẩn bị để làm các
cánh cửa lò. Sắt rất dày những mười ly, và hai tấm sắt đã che gần kín hết ống
khói chỉ còn một khe hở nhỏ. Đường dẫn khói chạy qua nền và bây giờ anh em chui
theo đường này để vào ống khói từ phía dưới.
- Quả thật là một cái lô cốt, - hôm qua
Xirôta nói và chính Xintxốp cùng Baiukốp cũng nghĩ như thế về cái ống khói.
Chỉ có thể giết chết tươi họ trong trường
hợp: một quả đạn rơi thẳng từ trên xuống những tấm sắt che ống khỏi; khi ấy cố
nhiên không có chỗ nào mà nấp nữa, cả hai người sẽ chỉ còn là một đám bầy nhầy.
Nhưng thậm chí giờ đây khi bị pháo bắn họ cũng chẳng tính đến chuyện không may
đó nhiều hơn bất cứ một khả năng tử vong nào, những khả năng luôn luôn tồn tại
trong chiến tranh bằng cách này hay cách khác.
Hỏa lực của quân Đức mỗi lúc một mạnh thêm,
Baiukốp bắt đầu dốc hết túi này sang túi khác và cứ mỗi túi đổ được một dúm
thuốc sợi rời, vướng trong đường chỉ khâu, xuống lòng bàn tay. Hôm qua, thuốc
sợi cũng không có: anh ta đã làm cái thao tác này một lần, nhưng hôm nay vẫn cố
làm lại. Dù sao pháo bắn cũng rất ác liệt, cho nên anh thấy bồn chồn.
Xintxốp đứng dậy, đi đến bên lỗ châu mai và
nhìn ra khu đất hình lòng chảo phủ tuyết nằm phía trước lô cốt.
Những quả đạn cũng đang nổ ở chỗ trống
trong khu lòng chảo nhưng thưa thớt hơn, trong khi đó, một màn khói dày đặc
đang bao phủ trận địa của các trung đội láng giềng ở trên điểm cao có ba ngôi
nhà nhỏ, ở đó, đạn pháo nổ hàng loạt thành một bức tường, và một trong ba ngôi
nhà đã biến mất tựa hồ như trước kia chưa hề có nó.
Xintxốp cảm thấy đau nhói trong lòng không
phải vì anh sợ pháo địch tiếp tục bắn phá mà vì một suy nghĩ không xua đuổi
được: “Hễ pháo bắn xong là bắt đầu tấn công ngay đấy”. Anh ngồi xuống bên tường
cạnh Baiukốp và bắt đầu đợi cho pháo ngừng bắn. Bỗng thấy ngứa đầu, anh liền bỏ
mũ bịt tai xuống trong chốc lát và thận trọng dùng tay xoa xoa vết sẹo ở trên
thái dương. Hai tuần lễ trước đây, Dôlôtarép tưởng rằng đây là một vết tử
thương thế mà bây giờ chỉ còn lại vết sẹo nhỏ với lớp da mịn và trơn trơn cùng
với món tóc lởm chởm chưa mọc hết ở hai bên mép.
Trong những giây phút đó, không phải bao
giờ con người cùng suy nghĩ những điều giống nhau. Đôi khi đó là điều quan
trọng, đôi khi lại là điều không quan trọng, đôi khi lại xen lẫn cả những điều
quan trọng và không quan trọng, khi thì con người suy nghĩ một cách tự nhiên
xuôi theo dòng suy tưởng, khi thì nghĩ cách miễn cưỡng - nghĩ một điều gì mà họ
tưởng là có thể xua tan lòng sợ chết.
Xintxốp không cưỡng bức mình. Anh suy nghĩ
về những điều nẩy ra trong óc nhưng ý nghĩ của anh cứ thay đổi và thúc đẩy lẫn
nhau, tựa hồ như sợ rằng anh không kịp suy nghĩ mọi việc còn cần suy nghĩ.
Trong những ngày ấy, đã mấy lần có cái gì
thúc giục anh ngồi xuống và viết thư cho Masa để báo tin là anh đang ở đâu và
làm gì. Anh muốn vợ biết việc này, nhưng ý muốn đó càng mãnh liệt bao nhiêu anh
lại càng tự hỏi mình một cách gay gắt bấy nhiêu: mà gửi đi đâu chứ? Vợ mình ở đâu?
Phải, anh có số hòm thư của nhà trường, nhưng Masa không còn ở đó nữa. Chị đã
sang phía bên kia hỏa tuyến từ lâu và từ nơi này gửi thư cho vợ thì cũng chẳng
khác gì định dùng chiếc phong bì bộ đội bằng giấy hình tam giác để chọc thủng
bức tường gạch của cái ống khói này.
Anh nhớ lại đêm ấy ở Maxcơva chị đã ngồi
xổm để rửa chân cho anh trong chiếc chậu, cạy ra từng tảng bùn và nương nhẹ tay
khi rửa chỗ xây xát, và trong lòng anh chợt bừng lên tình cảm trìu mến nao nao
đối với hai bàn tay âu yếm của vợ, đến nỗi anh đâm hoảng sợ nỗi nhớ nhung mãnh
liệt đó, cho nên anh đã lẩm bẩm tự rủa mình để dập tắt ngay ngọn lửa vừa bừng
lên ấy.
- Ông làm sao thế? - Baiukốp hỏi, sau khi
đã vét mãi được mấy dúm thuốc lá rời và cuộn thảnh một điếu bé tí xíu.
- Có sao đâu, - Xintxốp xua tay.
- Thế mà tôi lại tưởng là nhớ bà nhạc, -
Baiukốp đùa không đúng lúc.
Với nỗi đau xót quen thuộc và âm ỉ, Xintxốp
nhớ tới Grốtnô và tất cả những gì có liên quan tới nó trong trí nhớ đã chằng
chịt vết thương và rắn lại như gỗ của anh. Rồi anh lắc đầu lia lịa như con ngựa
bị đàn mòng đốt mà bản thân anh cũng không để ý. Sau đó, anh nghĩ về Malinin mà
anh đã trông thấy đằng xa một giờ trước đây, khi ông ta trèo lên dốc, và nhớ
lại câu chuyện trao đổi giữa hai người hôm đầu tiên mà Malinin được chỉ định
lảm chính trị viên đại đội. Sau khi làm quen với anh em, Malinin đi một vòng
xem những ngôi nhà gỗ còn nguyên vẹn của làng Klinxư mà bây giờ đã nằm lại từ
lâu trong vùng sau lưng địch. Đêm ấy, đại đội đã ngủ ở đó. Trò chuyện với các
chiến sĩ xong, Malinin vẫy gọi Xintxốp ra khỏi nhả và đứng dạng rộng hai chân
ra, đút hai tay vào túi theo kiểu đứng quen thuộc của mình, rồi cau có nói:
- Xintxốp ạ, cậu hãy viết đi, trình bày lại
quá khứ của cậu. Cậu đã được phiên chế vào một đơn vị thường trực, ở đây phải
hoàn toàn đúng nguyên tắc.
- Còn phải viết cho ai nữa kia? Tôi đã
viết... - Xintxốp buồn bã nói.
Malinin nhìn anh vẫn với vẻ cau có và nói
vẫn với cái giọng bực mình:
- Viết cho tớ. Tớ sẽ đích thân nộp cho
chính ủy hay nộp lên phòng chính trị sư đoàn. Còn lên đến đó thì tùy họ quyết
định xem nên gửi đi đâu theo sự cẩn thiết. Cậu chỉ cẩn nêu lên những sự việc và
những người có thể xác nhận sự việc đó, hãy nêu rõ là ai. Họ muốn thẩm tra thì
cứ để cho họ thẩm tra. Hôm nay, còn ở trong nhà thì hãy viết đi, ai mà biết
được rằng ngày mai chúng mình sẽ ngủ ở đâu! Thôi, tạm biệt nhé! - Malinin cau
có gật đầu chào, bước trên đường phố đến ngôi nhà gỗ tiếp theo sau, nhưng bỗng
dừng lại và gọi: - Xintxốp!
Xintxốp đi tới gần Malinin:
- Trong đó, cậu hãy nêu lên rằng tôi biết
hết mọi chuyện ngay từ đầu. Hãy mở đầu như thế này: “Như đồng chí đã biết về
tôi...”, còn sau đó thì hãy viết: “nhưng tôi muốn trình bày bằng giấy để phòng
chính trị và bộ chỉ huy đơn vị...”. Hiểu không?
- Hiểu.
Đêm ấy, anh lại viết bản trần tình lần nữa,
anh viết ngắn có viện dẫn thêm tên người như lời Malinin bảo.
Nhưng dù anh có viết ngắn đến thế nào, việc
viết bản đó lần nữa, sau khi anh đã kể chuyện cho Masa, cho Enkin và Malinin
nghe, sau khi anh đã viết lại tất cả trong viện kiểm sát, sau khi anh đã nhiều
lần ngồi một mình một bóng nhớ lại tất cả chuyện này, phải viết lại lần nữa thì
thật chẳng khác gì bị tra tấn, vả lại thế nào nhỉ, xét cho cùng đúng là anh ra
đi để chiến đấu hay để viết những bản trần tình? Nhưng rốt cuộc anh vẫn viết và
nộp cho Malinin, đó là vào hôm sau lúc hành quân. Để khép bên sườn hở lại. sư
đoàn vội vã rút lui về trận địa dự bị và ông Malinin, cứ lội bì bõm trong bùn
đặc sệt, càng cau có hơn ngày thường, khi đi ngang với Xintxốp, lặng lẽ cầm lấy
lá đơn ở tay anh và nhét vào túi áo capốt. Mặc dầu về sau Xintxốp có trông thấy
Malinin nhiều lần, nhưng họ không nói tới việc này nữa.
Giờ đây, khi nghe những tiếng đạn nổ nặng
trình trịch làm rung chuyển mặt đất, Xintxốp cố tưởng tượng xem Malinin đã
chuyển lá đơn của anh cho ai và chuyển như thế nào, trong lúc ấy ông ta nói gì
và bây giờ anh phải đợi để được gọi lên đâu: lên phòng chính trị hay phòng Đặc
nhiệm? Tuy anh đã cho rằng sau mười ngày chiến đấu, người ta sẽ không gọi anh
rời hỏa tuyến, cái cảnh mà số phận chưa được giải quyết đang dày vò anh. Thêm
vào đó, còn có một ý nghĩ không vui nữa là mình có thể bị thương, bị đưa về hậu
phương, và lúc đó thì hãy vĩnh biệt cả bản trần tình này lẫn Malinin. Anh sẽ ra
viện, sẽ rơi vào một đơn vị khác và sẽ phải viết lại tất cả từ đầu...
- Này! - Baiukốp thét vào tai Xintxốp, át
cả tiếng gầm của đại bác. - Theo tôi thì chúng bắn trúng anh em đằng kia đấy !
Xintxốp đến gần lỗ châu mai dự bị, và qua
đám khói đang tàn, anh trông thấy một trong những bức tường xây dở của nhà máy
hình như đã trở nên thấp hơn.
- Ừ, hình như thế, - anh lo lắng nói.
Lúc đó, pháo binh Đức đã bắt đầu bắn được
chừng mươi phút. Cuộc pháo kích liếp tục thêm nửa giờ nữa rồi chuyển sâu vào
tung thâm, vào hậu tuyến; bây giờ không nghe tiếng nổ nữa mà chỉ nghe tiếng rít
liên tục của những quả đạn bay vút qua trên đầu.
- Kôlia, cậu hãy trông về phía này, nếu có
ai xuất hiện thì bắt liên lạc nhé, - anh hất hàm trỏ cho Baiukốp cái lỗ châu
mai ở đó trông thấy được nhà máy gạch, còn mình thì đi trở lại lỗ châu mai kia,
nơi đặt súng máy.
Từ chỗ này có thể quan sát rất rõ; trong
hậu tuyến của ta, đạn pháo nổ thảnh một bức tường, còn xe tăng Đức thì đang
tiến theo khu lòng chảo phủ tuyết giữa điểm cao có nhà máy gạch và điểm cao có
ba ngôi nhà nhỏ. Những chiếc đi đầu đã trèo lên dốc, đến chỗ trước kia có ba,
nay chỉ còn lại vẻn vẹn một ngôi nhà xiêu vẹo, và ở đây theo như Xintxốp biết
thì có hai trung đội quân ta bố trí trong hầm nhà và trong các công sự quanh
nhà.
Chiếc xe tăng đi đầu dừng lại, bắn đại bác
và căn nhà cuối cùng đã xiêu vẹo liền đổ nghiêng xuống như một ngôi nhà bằng
giấy. Một ngọn lửa bùng lên dưới chiếc xe tăng và nó quay tròn tại chỗ. Sau đó,
lại một ngọn lửa nữa bùng lên và một luồng khói đen đặc phụt ra từ chiếc xe
tăng. Những bóng đen nhảy vọt qua cửa nắp phía trên xe tăng xuống tuyết; những
phát súng trường thưa thớt nã vào chúng. Gió từ đó thổi lại, cho nên nghe rất
rõ và như vậy chỉ càng làm nổi rõ thêm súng trường thưa thớt đến mức đáng lo
ngại. Ở nơi có hai trung đội quân ta bố trí, hầu như không có tiếng súng. Một
chiếc xe tăng khác chạy ngang chiếc đang cháy, trèo qua điểm cao và khuất sau
đỉnh đồi. Những chiếc xe tăng đang chạy trong khu lòng chảo cũng đường hoàng
tiến về phía trước.
Một phút nữa trôi qua và bộ binh Đức xuất
hiện trong tầm mắt của Xintxốp. Những bóng đen đang tiến trên mặt tuyết thành
một chuỗi dài đằng sau xe tăng.
- Baiukốp, về chỗ! - Xintxốp hô và nhìn qua
rãnh ngắm bắt được chiếc cọc chuẩn đã được bắn thử, nó còn ở cách những tên Đức
đầu tiên chừng bốn chục mét.
Baiukốp chạy lại, sửa băng đạn, thoạt tiên
nhìn vào lỗ châu mai, sau đó từ dưới, hồi hộp ngước nhìn lên trên, lên mặt
Xintxốp. Cái nhìn ấy muốn nói: “Sao ông chưa nổ súng?”. Nhưng Xintxốp còn đợi
thêm nửa phút nữa: vật chuẩn đã được bắn thử chính xác và anh muốn tận dụng
điều đó.
Hàng quân Đức đã tiến đến ngang cọc chuẩn.
Anh bắn một băng ngắn, rồi một băng dài và lại thêm một băng ngắn nữa, khi bọn
Đức nằm bên cạnh cọc chuẩn đã nhảy vọt dậy. Hình như băng đạn cuối cùng này là
có hiệu quả nhất: năm tên trong số bọn Đức vừa nhảy dậy lại gục xuống và đã
không thể đứng dậy cũng như bò đi được nữa.
- Sao? - anh rời mắt trong một giây, vội
vàng ghé sát mặt mình vào mặt Baiukốp. - Quân ta đằng kia thế nào, trong nhà
máy ấy?
- Chẳng trông thấy ai cả. - Baiukốp nói, -
tôi sợ rằng họ đã bị pháo diệt hết rồi.
Nghe nói thế, Xintxốp liền bắn tiếp băng
sau ngắn hơn dự định, cốt để hà tiện đạn, tính hà tiện này sinh ra khi người
lính chỉ còn lại một mình.
Anh cùng Baiukốp phát huy hỏa lực trong năm
phút, chốc chốc lại bắt bọn Đức nằm xuống tuyết và hãm bước tiến của chúng. Sau
đó, bọn Đức bèn sắp xếp lại đội ngũ và vọt tiến trên rìa phía xa của khu lòng
chảo; súng máy bắn đến tận nơi đó, nhưng hiệu quả của hỏa lực ít hơn. Hàng quân
màu đen của bọn Đức đã vượt qua điểm cao có ba ngôi nhà nhỏ. Từ phía đó không
có ai bắn vào bọn chúng. Nghĩa là tất cả quân ta đều đã bị tiêu diệt.
Một tên xạ thủ súng máy Đức cùng với tên số
hai nằm xoài xuống ngay trên tuyết, xoạc rộng hai chân. Từ chỗ này, Xintxốp và
Baiukốp trông thấy tất cả những điều đó. Hắn bắt đầu bắn trả lại vào khẩu súng
máy của họ. Đạn va chan chát vào gạch, sát cạnh lỗ châu mai. Thằng Đức bắn
chính xác, nhưng ở trong tình thế không ngang bằng: nó nằm tênh hênh ở chỗ
trống, cho nên sau ba băng đạn bắn trượt, Xintxốp đã quạt băng thứ tư trúng
thẳng vào nó. Thậm chí anh thấy khẩu súng máy đổ chổng kềnh xuống tuyết: hoặc
là do loạt đạn hất đổ hoặc là do bàn tay của tên Đức lôi đổ trước khi chết.
Hình như tên số hai cũng nằm chết trên tuyết. Nhưng mấy phút sau, trong lúc
Xintxốp và Baiukốp bắn vào mục tiêu khác thì Baiukốp kéo tay Xintxốp và nói:
- Thằng số hai kia thì...
Xintxốp đưa mắt nhìn và thấy chỉ có một
hình người nằm trên tuyết, bên cạnh khẩu súng máy.
- Nó bò đi chỗ khác... - Baiukốp nói. Trong
lời nói của anh không những có ý bực mình mà còn có ý lên án: nếu ở vào địa vị
tên Đức thì Baiukốp sẽ không bò đi mà sẽ tiếp tục một mình phát huy hỏa lực.
Lúc đầu, do không khí sôi sục chung của
cuộc tấn công, cho nên rõ ràng là quân Đức không chú ý đặc biệt đến khẩu súng
máy quấy rối chúng, nhưng cuối cùng chúng đã quyết định thanh toán với khẩu
súng máy này, cho nên đã thông báo cho bọn lính xe tăng. Xe tăng đã bắt đầu
chạy sang phải, ra ngoài tầm mắt của Xintxốp, nhưng một chiếc bỗng nhiên vòng
trở lại. Lúc đầu, Xintxốp cứ tưởng là nó bị hỏng, nhưng nó nhanh chóng chạy
thẳng lên điểm cao của họ. Chạy đến chân gò, nó giảm tốc độ và dừng lại.
- Bây giờ nó sẽ giã vào chúng ta đây, -
Baiukốp nói. Xintxốp gật đầu.
- Cậu đi nghe xem, quân ta đằng kia thế
nào.
Cánh cửa nắp trên chòi súng được đẩy lên và
tên lính xe tăng nhô ra. Chắc hẳn nó muốn quan sát tình hình cho rõ hơn.
Xintxốp quạt một băng - tên này biến mất,
cửa đóng sập lại, nhưng một phút sau một quả đạn đại bác đã giáng vào sát bên
lỗ châu mai. Cũng ngay lúc đó, để chứng tỏ rằng mình còn sống, khẩu súng máy
của Xintxốp quạt luôn một băng dài dữ dội vào bọn Đức đang tiếp tục vọt tiến
qua lòng chảo.
“Chúng tiến đông thật, những mấy tuyến”, -
Xintxốp nghĩ thầm. Ở chỗ này anh thấy rất rõ mọi việc, lần đầu tiên trong đời
anh trông thấy rõ một trận chiến đấu đang diễn ra chung quanh như vậy.
- Tôi đã nghe rồi, nghe rồi mà chả thấy
động tĩnh gì cả, không một tiếng súng, không có gì... Hay là tôi đi xuống chỗ
họ? - Baiukốp hỏi.
- Đi xuống cũng được, - Xintxốp nói, -
nhưng tôi e rằng một mình ở đây không trụ nổi...
Chiếc xe tăng bắn đại bác vào gần lỗ châu
mai, còn Xintxốp thì lại quạt một băng nữa vào bộ binh. Tựa hồ như anh muốn
nói: “Nói láo, tao vẫn sống!”
- Có lẽ nó muốn lại gần hơn, - Xintxốp nói
giọng khản đặc. - Chuẩn bi lựu đạn!
Baiukốp im lặng nâng từ dưới nền và giơ cho
xem những quả lựu đạn đã được buộc thành chùm bằng dây thép.
Chiếc xe tăng còn bắn thêm mấy phát nữa và
đúng như Xintxốp đoán trước, nó quyết định đến gần hơn để bắn vỗ mặt. Đi chậm,
nó vừa gầm rú, - tiếng gầm đó làm cho người ta hoảng vì nó đến gần quá, - vừa
chuyển bánh, thong thả bò chéo trên sườn đồi phủ tuyết, rồi đổi hướng, trèo lên
cao theo hình chữ chi và lọt vào tứ giác. Bây giờ Xintxốp và Baiukốp nghe tiếng
rống hồng hộc của nó.
- Hễ lại gần là nó sẽ bắn vào lỗ châu mai.
- Xintxốp nói.
- Thế thì ông hãy nã vào khe nhòm của nó, -
Baiukốp nói, - còn tôi thì sẽ bò ra ngoài và dùng lựu đạn!
Nhưng Xintxốp không đáp và bắn vào một toán
quân Đức nữa đang vọt tiến qua khu lòng chảo.
Chiếc xe tăng thoát khỏi tầm mắt đang tiếp
tục gầm rống đâu đây ở bên ngoài. Xintxốp tưởng chừng như nó đang đứng một chỗ,
không tiến đến gần mà cũng không lùi ra xa. Cuối cùng, chiếc xe tăng lại xuất
hiện, nhưng không phải là ngay trước ống khói, sát bên lỗ châu mai như họ lo sợ
mà lại là ở phía dưới, ở chỗ cũ.
- Nó không thể chạy lên dốc trên lớp váng
băng được, - Xintxốp mừng rỡ nói và đưa ống tay áo lên quệt mồ hôi.
Nắp cửa trên xe tăng lại hé nâng lên, cái
đầu của tên lính xe tăng thò ra trong một giây, sau đó cánh cửa đóng lại, chiếc
xe tăng hơi di chuyển một chút để thay đổi vị trí. Khẩu pháo nghển lên và hạ
xuống giống như một ngón tay trỏ, chĩa vào lỗ châu mai. Xintxốp bắt đầu thấy
bối rối. Phát đạn pháo nã vào sát bên lỗ châu mai, làm cho gạch vỡ vụn. Lại
phát khác - bụi gạch lại bay mù. Thêm một tiếng nổ nữa inh tai nhức óc, những
tấm sắt bật tung lên kêu vang rền như sấm - chà, hai tai bỗng điếc đặc vì đầu
bị va vào tường. Xintxốp tưởng chừng như quả đạn rơi vào lỗ châu mai và nổ tung
ở bên trong tuy rằng nếu quả là như vậy thì anh và Baiukốp đã không còn gì nữa.
Thực ra thì quả đạn chỉ nã vào mép lỗ châu
mai ở bên ngoài và chỉ có mấy mảnh đạn cùng với sức ép lọt vào trong ống khói.
Cảm thấy đau ê ẩm đằng sau gáy, Xintxốp liền đâm bổ tới khẩu súng máy, trông
thấy tên lính xe tăng Đức đã mở nắp cửa sập, yên trí đứng thẳng người lên trong
chòi súng và che mắt với bàn tay cho khỏi chói nắng, ngắm nghía kết quả của
phát đạn.
Xintxốp khẽ động đậy nòng súng máy, ngắm
vào mép trên của chòi súng xe tăng, vào hai vai tên Đức và bóp cò, trút vào cái
động tác yếu ớt đó tất cả sức mạnh của lòng căm thù đối với quân Đức. Tên lính xe
tăng gãy gập làm đôi ở ngang thắt lưng và suýt nữa rơi ra ngoài chòi súng,
nhưng một tên nào đó ở bên trong đã kéo chân thằng chết - Xintxốp tin chắc rằng
hắn đã chết - lôi vào trong xe tăng và đóng sập cửa lại. Chiếc xe tăng bắn liền
ba phát đại bác nữa và vòng trở lại, chạy xuống phía dưới. Lần này nó bắn đã
không trúng nữa, chỉ có một quả đạn rơi đúng ống khói.
Mãi tới bây giờ Xintxốp mới rời khẩu súng
máy và cúi xuống trên mình anh chàng Baiukốp đang nằm yên không động đậy. Anh
ta nằm rên khe khẽ.
- Cậu làm sao thế, Kôlia? - Xintxốp hỏi và
cảm thấy một nỗi cô đơn đáng sợ.
- Đạn trúng vào lưng... gần thắt lưng, -
Baiukốp nói khẽ.
Anh chống tay nhổm dậy, hai chân anh không
tuân theo anh nữa.
Vén áo capốt và áo bông lên, Xintxốp trông
thấy sau lưng Baiukốp có một vết máu nhỏ. Mánh đạn chỉ nhỏ thôi, nhưng đúng vào
xương sống và Baiukốp không thể cử động được.
- Nhưng hai tay lại không việc gì, - trong
khi Xintxốp băng bó cho anh, Baiukốp vừa nói vừa động đậy ngón tay. - Ông cứ
nhích tôi đến gần súng, mình có thể đâm băng đạn được.
Xintxốp lật ngửa người anh ta lại và chuyển
đến gần súng. Baiukốp rên lên một tiếng ngắn, nhưng dù sao vẫn với tới băng đạn
và đút nó vào súng máy bằng một động tác yếu ớt.
- Mình còn có thể làm được. Cái gì thế này
nhỉ hai chân làm sao...
- Cậu chỉ bị choáng đấy thôi, - Xintxốp nói
mà không đi sâu vào ý nghĩa lời giải thích của mình. Anh chỉ muốn an ủi
Baiukốp, - Sẽ khỏi thôi...
Anh lo lắng nhòm qua lỗ châu mai. Anh không
muốn cho quân Đức tiến qua, nếu chúng lại mò vào vùng hỏa lực trong khu lòng
chảo, mặc dầu đồng thời anh cũng cảm thấy rằng họ càng hành tội quân Đức bao
nhiêu thì chắc hẳn anh cùng Baiukốp và khẩu súng máy càng chóng đến giờ tận số
bấy nhiêu.
Anh nghĩ rằng quân Đức có thể trèo lên theo
sườn dốc khác, còn anh với Baiukốp thì bây giờ thậm chí không thể bảo vệ cả hai
lỗ châu mai cùng một lúc.
Anh rời khỏi khẩu súng máy, chạy tới lỗ
châu mai thứ hai. Khói trên nhà máy gạch đã tan đi từ lâu và đằng ấy tất cả đều
im lặng; chắc là mọi người đều đã chết, nếu không thì tại sao như thế? Anh chạy
trở về và lại nhòm vào lỗ châu mai có bắc súng máy.
- Cậu trông kìa, trông kìa! - anh khoái trá
reo lên, mặc dầu Baiukốp đang ở bên cạnh và không việc gì mà phải reo to lên
như vậy.
Những cột lửa lẫn khói đen đặc đang phụt
lên với tiếng ầm ầm khủng khiếp ở đằng kia, đằng sau, ở rìa phía đông của khu
lòng chảo và ở xa hơn nữa, cạnh hàng rào của trạm máy nông nghiệp, nơi mà bọn
Đức đã tràn vào và ở bên phải trên điểm cao gần kề đó, nơi mà hai trung đội đã
hy sinh. Hình như chính mặt đất đang tự nổ tung dưới chân quân Đức. Có những
bóng người lồng lộn giữa những quả đạn nổ tung, ngã xuống tuyết rồi lại chạy...
Trong lúc đó, đạn vẫn tiếp tục nổ tung, thành một dải rộng mỗi lúc một lan ra những
khu vực khác.
Baiukốp biết rằng đó là cái gì; Xintxốp
không biết nhưng đã đoán ra.
- “Kachiusa” đấy, - anh nói trước tiên. -
“Kachiusa”...
- Ừ. Tôi đã trông thấy chúng ở trận Ennha,
- Baiukốp nói.
Cả hai người, một lành lặn một bị thương,
đều ngây người ra nhìn cảnh tượng khủng khiếp đó, cái cảnh tượng trận pháo kích
đã lập tức gây rối loạn trong hàng ngũ quân Đức mà từ nãy đến giờ vẫn triển
khai tiến công một cách tốt đẹp. Bộ binh của chúng dẫm chân tại chỗ, bắt đầu
tháo chạy trở lại và trong lúc đó không phải là đạn pháo hỏa tiễn “Kachiusa”
nữa mà là đạn đại bác thông thường bắt đầu nổ tung trên khắp một vùng đất rộng
vừa bị quân Đức chiếm, làm phụt lên trời những luồng khói đen.
Xe tăng Đức liền quay trở lại, tiến đến
điểm cao có ba ngôi nhà nhỏ đã biến mất và bắt đầu đứng tại chỗ đó mà bắn.
Nhưng bảy chiếc xe tăng của quân ta đã từ khu rừng nhỏ bên phải hàng rào trạm
máy nông nghiệp bò ra cửa rừng và bắt đầu phát huy hỏa lực vào xe tăng Đức. Kia
một chiếc xe tăng Đức bốc cháy. Lại thêm chiếc nữa... Kìa một chiếc của ta bốc
cháy, lại thêm chiếc nữa... Xintxốp vừa nắm chặt bàn tay đến phát đau, vừa quan
sát cuộc quyết đấu ấy, còn pháo binh ta thì vẫn giã mãi, giã cả vào khắp cánh
đồng trước trạm máy nông nghiệp, cả vào khu lòng chảo, cả vào điểm cao có ba
ngôi nhà nhỏ và còn xa hơn nữa, đằng sau điểm cao... Những quả đạn pháo nổ mãi
và quân Đức đang rút lui, bây giờ điều đó đã rõ rồi.
Sau đó, Xintxốp chợt trông thấy một toán
quân Đức đã rút khỏi trạm máy nông nghiệp, khoảng sáu chục tên, kéo theo một
khẩu đại liên, không mò vào khu lòng chảo bị đạn quét mà rẽ sang trái và dàn
thành tuyến rộng, bắt đầu trèo lên dốc của điểm cao nơi anh bố trí. Anh quạt
vào chúng một băng, thêm băng nữa; chúng nằm rạp xuống, vùng chạy sang trái,
rồí lại sang trái nữa và cuối cùng đã ở ngoài tầm mắt của anh.
Baiukốp mấy lần giúp anh đâm băng bằng
những động tác không chính xác. Xintxốp thôi không bắn nữa, bây giờ phải nhanh
chóng lôi khẩu súng máy tới lỗ châu mai kia.
- Kôlia, phải kéo súng máy… - anh bắt đầu
nói và trông thấy cái đầu của Baiukốp đã rũ rượi gục xuống gạch.
Tay Baiukốp vẫn còn đặt trên băng đạn,
nhưng bản thân anh ta thì đã ngất di.
Xintxốp gạt anh ta sang bên và cầm lấy khẩu
súng máy và hồi hộp nghĩ rằng không có số hai thì một mình anh bây giờ sẽ phát
huy hỏa lực liên tục làm sao được đây. Ngay trong giây phút đó, khi anh toan
rống lên vì bất lực, Malinin từ trong lỗ ống dẫn khói bò ra với bộ mặt lấm láp,
sây sát đầy máu và khẩu súng trường trong tay.
- Cậu bắn đã lâu chưa? - Malinin hỏi.
- Hơn một giờ.
- Hơn một giờ, sao lại thế nhỉ? - Malinin
hỏi lại.
Ông cứ tưởng chừng như mình chỉ ngất đi
trong một giây, nhưng ông đã nằm bất tỉnh trong nửa giờ; ông tưởng chừng như
mình chỉ đào bới Xirôta và Mikhnexốp mất mấy phút, nhưng ông đã đào bới họ ngót
một giờ. Rồi khi ông nghe những loạt đạn của Xintxốp thì đó tuyệt nhiên không
phải là những loạt đạn đầu tiên mà là những loạt đạn cuối cùng do Xintxốp vừa
mới quạt vào bọn Đức đang bò lên cao điểm.
Xintxốp nhìn vào mặt Malinin: không còn
bụng dạ nào để giải thích là anh đã bắn trong bao nhiêu lâu và bắn như thế nào.
- Vào kéo súng máy đi! - chẳng giải thích
gì, anh chỉ nói với Malinin, tựa hồ như trong giây phút đó không phải ông mà
anh là cấp trên. - Lại đằng lỗ châu mai kia! Bọn Đức đang bò lên phía ấy!
Họ kéo khẩu súng máy đi. Malinin không nói
một lời nào, nằm xuống làm số hai và một phút sau số quân Đức đang vội vã nhoài
lên núi đã xuất hiện trong tầm mắt của họ.
- Bắn đi! - Malinin khẽ nói.
Nhưng Xintxốp đã quen với công việc của
mình nên dơ tay ra hiệu: hãy gượm đã! Bọn Đức tiến hấp tấp, không ẩn nấp và hy
vọng (anh cảm thấy thế) là sẽ đánh vòng từ sau lưng và từ phía này sẽ không sợ
bị súng máy quét nữa. Tuy nhiên, bọn xạ thủ súng máy của chúng vẫn chiếm lĩnh
vị trí ở đằng sau để phòng xa và sẵn sàng dùng lưới lửa yểm hộ bọn tấn công,
nếu phía trên có cái gì động đậy.
- Chúng đã đặt súng máy yểm hộ, - Malinin
nói khẽ.
Xintxốp lặng lẽ gặt đầu; anh đã nhận thấy
điều đó.
Bọn Đức trèo lên dốc, mỗi lúc một lọt sâu
vào khu vực hỏa lực có hiệu quả, hỏa lực tiêu diệt và đồng thời cứ thêm mỗi
bước chúng lại đến gần đường ranh giới thiêng liêng đối với chúng, sau ranh
giới đó là bắt đầu cái khoảng tử giác mà Xintxốp và khẩu súng máy của anh không
thể đụng chạm tới được. Phía sau, đằng sau lưng chúng, pháo binh gầm rống.
- Pháo ta à? - Malinin hỏi, chỉ động đậy
đôi môi.
Xintxốp gật đầu, mặc dầu bây giờ, trong
giây phút đó, anh không trông thấy cái gì ngoài bọn Đức đang leo lên đồi, và
mảnh ruộng phủ tuyết đằng sau chúng nó. Bọn Đức chỉ còn vẻn vẹn hai chục bước
là đến vùng tử giác thì Xintxốp bóp cò và nắm lấy báng khẩu súng máy mà quay
đảo mũi súng từ phải sang trái với động tác dứt khoát, theo một xạ giới rộng
rồi lại quay sang phải, vẽ thành một chiếc quạt bằng chì gieo rắc cái chết vào
những kẻ chưa ngã xuống. Đó là trường họp ít có trong chiến tranh, khi một băng
đạn bất ngờ và lạnh lùng bắn vỗ mặt cách chưa đầy trăm thước, chém ngang cả một
tuyến bộ binh như lưỡi liềm cắt cỏ.
Tuyến quân ngã gục, vài tên vùng dậy, vội
vàng cố chạy tới vùng tử giác. Một băng!... Thêm băng nữa! Tên đầu tiên trong
bọn Đức đang chạy lên hầu như đã chạy tới tử giác. Để lia gục luôn cả tên này,
Xintxốp phải chúc đứng mũi súng máy xuống đến hết mức. Khẩu súng máy của quân
Đức bắn chan chát vào lỗ châu mai nhưng lỗ châu mai bên này hẹp lắm, và đạn chỉ
làm nát gạch ở xung quanh lỗ nảy mà thôi.
- Bây giờ chúng sẽ đến nữa, - Xintxốp nói.
Quả thực một hàng quân Đức nữa đã từ sau
khẩu súng máy đứng dậy và tiến lên. Xintxốp không bắn chúng mà tập trung chú ý
vào khẩu súng máy của chúng. Một loạt đạn Đức bắn trả làm cho những mẩu gạch
vụn bắn thẳng vào mặt anh, vào con mắt bên trái đang nheo lại và vì đau nên anh
càng nheo mắt nhiều hơn, tuy vậy vẫn lia một băng cuối cùng vào khẩu súng máy
bọn Đức, trúng cả hai tên Đức đang nằm sau súng. Một tên đổ nghiêng sang bên
sườn, tên kia nhảy vọt dậy và ngã lộn ngửa ra, lăn xuống dốc. Nghe đằng sau
mình im lặng, hàng quân không giữ nổi bình tĩnh liền dừng lại và chạy trở
xuống.
Thậm chí Xintxốp đâm luống cuống trước sự
bất ngờ.
Anh cứ tưởng là bọn Đức sẽ tiến về phía anh
hết hàng này đến hàng khác như thế cho tới khi anh cùng Malinin chết gục sau
khẩu súng máy, thế mà bỗng nhiên quân Đức quay đầu bỏ chạy, cho nên anh đâm ra
bắn vuốt đuôi, đạn trượt qua phía trên đầu chúng. Anh bèn sửa lại thước ngắm
nhưng bây giờ đã muộn quá mất rồi. Anh buông báng súng máy ra và quay bộ mặt
đẫm mồ hôi về phía Malinin.
- Đồng chí Malinin, đồng chí xem hộ con mắt
cho tôi một tí... Mắt tôi làm sao thế?
- Nhưng cậu phải mở mắt ra chứ, sao cứ nheo
lại thế?
- Tôi không mở được, đau lắm...
Malinin ghé mặt mình vào sát mặt anh và nói
rằng không có gì đặc biệt, đó chẳng qua chỉ là một vết sây sát ở dưới lông mày.
Xintxốp mở mắt ra, dùng hai ngón tay phanh
mi mắt. Mắt đau nhưng vẫn thấy được.
- Hình như mình đánh lui chúng rồi, -
Malinin nói.
Xintxốp không trả lời gì cả, anh cũng cảm
thấy là đã đánh lui chúng rồi.
Sau này ra sao chưa biết, còn lúc này thì
bọn chúng đã bị quật lui. Tình hình thất bại chung rõ ràng là đã làm bọn Đức
mất tinh thần, cho nên chúng đã bỏ dở công việc.
- Thế số hai của cậu chết rồi à? - Malinin
hỏi - Baiukốp ấy mà?
- Không. Cậu ta bị ngất.
Malinin quỳ xuống bên cạnh Baiukốp:
- Bị thương vào đâu?
- Vào vùng thắt lưng.
Malinin vén áo capốt và áo bông, kéo áo
quân phục mùa nóng của Baiukốp lên như Xỉntxốp ban nãy rồi cắn môi nhìn một hồi
lâu vào lớp băng đã bị máu thấm ướt thành một vết sẫm ở chỗ buộc chéo.
- Rõ ràng là gay đấy. Cậu còn gói bông băng
cá nhân nào không?
Không rời khẩu súng máy, Xintxốp móc trong
túi áo capốt ra một gói bông băng cá nhân và ném cho Malinin. Ông giật sợi chỉ,
dùng răng xé gói băng và cẩn thận nâng cái thân hình vô tri vô giác của Baiukốp
lên rồi bắt đầu băng thêm cho anh lượt nữa ngoải lớp băng cũ.
Malinin băng bó cho Baiukốp, anh này thì
rên khe khẽ tuy vẫn không tỉnh.
- Đang rên, - Malinin nói. - Có lẽ vẫn còn
sống được... Này, quân Đức ngoài kia thế nào?
- Tôi không trông thấy.
- Theo mình thì quân ta đang đuổi chúng.
- Bác hãy nhòm qua lỗ châu mai đằng kia.
Malinin nhòm qua lỗ châu mai và đâm bổ tới
khẩu súng máy.
- Nào, nào! - ông ta quát lên the thé.
Họ kéo khẩu súng máy tới lỗ châu mai lớn,
nhưng trong khi họ lấy thước ngắm thì toán quân Đức rút lui qua khu lòng chảo
đã chuồn khỏi vùng hiệu lực của lưới lửa. Trận chiến đấu đã lắng lại, quân Đức
bị đánh bật đi ở khắp nơi, trừ chỗ điểm cao có ba ngôi nhà nhỏ mà chúng đã
chiếm ngay từ đầu. Bây giờ pháo binh ta đang giã vào điểm cao này nhưng quân
Đức đã kéo được súng cối tới đấy và bắn trả lại dữ dội.
Qua hai giờ đó, Xintxốp đã quen với ý nghĩ
là tất cả quân ta bố trí trên điểm cao đều đã bị tiêu diệt và hiện nay quân Đức
đang ở đó. Nhưng bây giờ Malinin mới hiểu điều ấy. Ngay sáng nay, đại đội của
ông vẫn còn tất cả là bốn mươi hai người. Phần lớn những người này bây giờ đã
chết ở đằng kia, trên điểm cao đã bị quân Đức chiếm và ở đây, trong đống đổ nát
tan hoang cửa nhà máy gạch.
- Đại đội đi đứt rồi. - Ông lắc đầu và nói
thêm, có ý khinh bỉ, không đúng đối với chính mình: - Mình đã nướng mất đại
đội, thế mà chính mình thì vẫn sống!...
- Mà bác làm sao thế, Alếcxây Đênixứts! -
Xintxốp nói.
- Im di, đừng nói nữa! Mình cũng tự biết...
- Bị chấn dộng đến tận đáy sâu tâm hồn, Malinin điên tiết lắc đầu lia lịa. -
Cậu hãy nhòm qua lỗ châu mai kia xem. Quân Đức có tiến không?
Xintxốp cảm thấy hai chân anh xiêu vẹo đi
vì mệt mỏi.
- Không, không tiến nữa, - anh đáp và ngồi
xuống bên tường.
Ngay lúc ấy cả hai người, cả Xintxốp và
Malinin đồng thời đều nghe có tiếng sột soạt. Malinin túm lấy quả lựu đạn đeo
trên thắt lưng, nhưng lại buông tay xuống ngay.
Cái đầu và hai vai của trung sĩ Xirôta thò
ra từ cái lỗ ngách ở phía dưới. Anh trung đội trưởng hồi tỉnh và bò đến đây là
nơi có tiếng súng nổ, vừa bò vừa lôi theo khẩu súng trường, không biết anh ta
lấy đâu ra sức lực mà bò, bởi vì sau khi được Malinin giúp cho chui ra khỏi lỗ
ngách, không những anh không thể đứng được mà còn không thể ngồi được nữa kia:
đành phải để anh dựa vào tường như cái bao tải. Nửa mặt dưới của anh quấn băng,
có màu đỏ bầm, còn trán và hai quầng dưới mắt thì không còn một hạt máu nào,
trắng nhợt như tờ giấy. Anh ngồi yên không quay đầu mà chỉ liếc mắt hết nhìn
Malinin lại nhìn sang Xintxốp và cố sức để nói điều gì. Chắc hẳn anh ta cứ
tưởng chừng như mình đang nói, nhưng từ dưới lớp băng chỉ bật ra những tiếng ăng
ẳng không thể phân biệt nổi.
- Hiểu rồi, đồng chí trung đội trưởng, hiểu
rồi, - Malinin vừa nói vừa dừng lại bên cạnh anh ta và gật đầu để an ủi. - Mình
hiểu ý cậu. Mọi việc đều thuận lợi cả, quân Đức đã bị đánh lui. Chắc rằng quân
ta sắp kéo đến, chúng ta sẽ được tăng viện...
Tuy vậy, Xirôta vẫn cứ cố sức để nói điều
gì và một lần nữa người nghe vẫn không thể hiểu một từ nào trong những lời anh
nói. Cuối cùng, Malinin không thể nén nổi nữa và chấm dứt cái cực hình đó cho
cả hai bên :
- Xirôta, thôi đừng cố nữa, dù sao thì mình
cũng chẳng hiểu đâu: mồm cậu bị vỡ toác... Chỉ có âm thanh mà không có tiếng
nói. Cậu sẽ nằm bệnh viện, sẽ lành, còn bây giờ thì đừng thử sức, đừng tự làm
khổ mình...
Xirôta giương to mắt nhìn ông, tựa hồ như
không tin, nhưng Malinin lại gật đầu và Xirôta liền với tay cầm lấy khẩu súng
trường, cố sức đặt nó lên đầu gối mình, ngả người dựa vào tường và nhắm mắt
lại.
- Phía cậu không trông thấy gì à? - Malinin
hỏi Xintxốp lúc ấy đã lại đứng vào gần lỗ châu mai.
- Không thấy, - Xintxốp trả lời như một
tiếng vang
- Nếu trước lúc trời tối quân ta không đến
thì mình sẽ ở lại đây với họ. - Malinin hất hàm chỉ hai người bị thương và nói,
- còn cậu thì sẽ đi bắt liên lạc. Không thể bỏ trận địa này được. Chúng ta sẽ
còn có thể từ đây đánh bật bọn kia đi nếu ta không phải là đồ ngốc, - ông nhòm
qua lỗ châu mai sang điểm cao bên cạnh và nói. - Không hiểu Iônốp ra sao nhỉ? -
sau chốc lát im lặng, ông chợt nhớ tới đại đội trưởng. - Cậu ta không thể là
hạng người có thể bỏ đại đội mình mà chạy... Sao im lặng thế, Xintxốp? - sau
mấy phút im lặng, ông hỏi.
- Tôi đang nghĩ.
- Cậu nghĩ gì thế? Nếu không phải là bí
mật...
- Nghĩ tới một điều không có ở đây…
- Nói rõ hơn nào?
- Nghĩ tới nhà tôi.
- Hừ, ở đây không cho phép ai có vợ cả, -
Malinin cau có nói đùa. - Cho nên nghĩ tới vợ là vô ích. Còn nếu viết thư cho
vợ sau một ngày như hôm nay thì lại rất nên! Viết rằng cậu còn sống, lành lặn
nhờ lời cầu nguyện của một nữ đoàn viên như cô ta.
Xintxốp lặng thinh, không trả lời gì cả.
Mãi một giờ sau, khi trời đã sắp nhá nhem,
quân ta mới đến. Thoạt tiên có ba người quân báo đến trước. Họ được thông báo
rằng căn cứ theo trận đánh thì quân ta đã trụ giữ trên điểm cao nhưng không rõ
tình hình ra sao, tất cả mọi việc đều có thể xảy ra. Họ bò vòng quanh ống khói
từ các phía khác nhau và bò cẩn thận đến nỗi mãi tới giây phút cuối cùng
Xintxốp mới trông thấy một trong ba người đó.
- Quân ta đây, đừng nấp nữa! - anh khoan
khoái reo lên và giọng anh nghe thật vui, làm cho người quân báo tin ngay, cho
nên đã đứng thẳng dậy.
Sau anh em quân báo lại có một trung đội
tiến lên điểm cao, rồi khi trời đã tối mịt, thượng úy tiểu đoàn trưởng
Riáptrencô xuất hiện cùng với các chiến sĩ thông tin chuyên trách mắc dây điện
thoại. Anh đã nhận được nhiệm vụ đánh bật quân Đức ra khỏi điểm cao bên cạnh,
trước lúc trời sáng: dù sao chăng nữa, bây giờ ngọn đồi này vẫn được gọi là
điểm cao có ba ngôi nhà nhỏ. Trước khi bước vào trận chiến đấu ban đêm,
Riáptrencô đã chuyển sở chỉ huy của mình tới đây, tới nhà máy gạch, bởi vì nơi
này là tuyến xuất kích thuận tiện nhất cho cuộc tấn công ban đêm.
Malinin báo cáo tình hình diễn biến của
trận đánh tại nhà máy và nói rằng các xạ thủ súng máy Xintxốp và Baiukốp trong
trận đánh không ngang sức đó đã chiến đấu thật xứng đáng. Malinin không hé
miệng nói thêm điều gì nữa, nhưng chính tiểu đoàn trưởng cũng tự hiểu là các xạ
thủ súng máy đã chiến đấu thật xứng đáng.
Từ trên chỉ huy sở của mình, anh đã trông
thấy cánh quân Đức ngã gục xuống khi tiến qua khu lòng chảo, và chiếc xe tăng
Đức đã toan chạy lên điểm cao, rồi sau đó trên đường rút lui, bọn bộ binh Đức
định trèo lên mà không được, vả lại, sự tổn thất của quân Đức cũng đã tự nói
lên điều đó, cả ở trên trung đoàn cũng như trên sư đoàn đều coi trận tấn công
hôm nay của chúng là có ý đồ lần mò chỗ yếu núng của ta, và trong trường họp
thành công thì sẽ chọc thủng phòng tuyến. Nhưng chúng đã không thành công, cho
nên cũng không chọc thủng được.
Malinin hỏi về tình hình đại đội trưởng
Iônốp. Hóa ra Iônốp đã bị thương ngay trong những phút đầu của trận đánh, đã
được khiêng ra và đưa tới đội điều trị. Riáptrencô giải thích rằng sở dĩ quân
Đức đã nhanh chóng chiếm được điểm cao có ba ngôi nhà nhỏ một phần là nhờ có
hỏa lực mạnh, còn phần nữa là do lúc chúng bắt đầu tấn công ở đó không có cả
đại đội trưởng lẫn chính trị viên. Mặc dầu nếu khiển trách Malinin về điều đó
thì thật là lạ lùng, vì ông ta đã có mặt ở đây trong thời gian diễn ra trận tấn
công, vả lại tiểu đoàn trưởng cũng không hề có ý trách móc ông, nhưng Malinin
dù sao vẫn cứ xem ý kiến nhận xét đó là lời khiển trách đối với mình, cho nên
xin phép Riáptrencô tham gia trận phản công chiếm lại “điểm cao cũ của chúng
tôi”. Ông diễn đạt ý mình như vậy là muốn nhấn mạnh trách nhiệm của mình về
việc đã để mất điểm cao ấy. Tiểu đoàn trưởng nhìn bộ mặt ông đầy những vết sây
sát sưng húp và lấy làm ngạc nhiên, sự ngạc nhiên của một người trẻ, rằng cái
ông này cái ông đáng tuổi bố anh đó, lấy đâu ra sức lực nhỉ.
- Ít ra thì trước hết đồng chí nên băng bó
lại đã, - anh góp ý nhưng không bác bỏ lời đề nghị.
Malinin sang chỗ người cứu thương. Người
này thoạt tiên băng bó bộ mặt sây sát cho ông khá lâu, sau đó băng bó hai bàn
tay bị gạch cứa rách toạc ra. Trong lúc người cứu thương làm những việc này,
Malinin vẫn cứ suy nghĩ về đại đội của mình đã hy sinh: nó sẽ được thành lập
lại hay cấp trên sẽ không làm như vậy và sẽ thuyên chuyển ông tới một đơn vị
nào hôm nay đã mất cán bộ chính trị ?
Malinin đang được băng bó, còn tiểu đoàn
trưởng thì gọi Xintxốp đến và đặt ra cho anh mấy câu hỏi. Riáptrencô hỏi: ngay
từ đầu quân Đức có định tiến lên điểm cao không? Xintxốp trả lời rằng không,
anh cùng Baiukốp chỉ bắn tạt sườn vào khu lòng chảo. Sau đó, tiểu đoàn trưởng
hỏi tại sao chiếc xe tăng quay trở lại mà không chạy đến tận ống khói. Xintxốp
trả lời rằng chiếc xích xe bị trượt, rồi nhắc đến tên Đức đã chui ra khỏi chòi
súng xe tăng và bị bắn chết.
- Chắc là một tên sĩ quan, - tiểu đoàn
trưởng gật đầu, - sau khi cậu đã lia nó thì chúng không dám thò ra nữa!
Rồi trung đoàn trưởng và sư đoàn trưởng gọi
điện thoại cho tiểu đoàn trưởng và anh ta bắt đầu báo cáo trước tiên với trung
đoàn trưởng, sau đó với sư đoàn trưởng về trận đánh bảo vệ điểm cao có nhà máy
gạch. Anh nói một cách mạch lạc và lưu loát, mạch lạc hơn nhiều so với lời
Malinin và Xintxốp đã kể lại cho anh ta nghe tất cả những việc đó. Chính trị
viên Malinin, các xạ thủ súng mảy Xintxốp và Baiukốp đã tổ chức một trận chiến
đấu, đánh lui được cuộc tấn công của bộ binh phối hợp với xe tăng Đức và trụ
giữ được điểm cao cho tới lúc quân ta đến tăng viện. Xintxốp và Baiukốp không
phải chỉ bắn vào quân Đức mà đã mở một trận đánh, không phải chỉ chiến đấu mà
đã trụ giữ được điểm cao.
Xintxốp mệt mỏi ghé ngồi xuống gạch, anh
lấy làm lạ khi nghe nói rằng mình đã mở một trận chiến đấu và trụ giữ được điểm
cao, tựa hồ như đó không phải là anh mà là một người nào khác.
Cả hai người bị thương, cả Baiukốp và
Xirôta, đều đã được đưa về hậu phương; chỉ còn lại những người chết. Người ta
đã đào huyệt cho họ ngay ở đây, ở sau bức tường của nhà máy gạch, trong lớp đất
chưa kịp đóng băng hẳn, nhưng quyết định là khi trời rạng sáng mới chôn, bởi vì
trong đêm tối không thể thu nhặt tất cả những gì còn lại của những người đã
chết, sau đợt pháo địch dội thẳng vào đây.
Xintxốp ngồi suy nghĩ xem bây giờ ai sẽ làm
số hai cho khẩu súng máy của anh, và Baiukốp có quay về đơn vị nữa hay không,
nếu cậu ấy lành vết thương. Sau đó, hình như anh ngủ gật mất một phút, bởi vì
thậm chí anh đã giật nẩy mình khi bỗng nhiên nghe tiếng Malinin nói sát bên
tai.
- Ta đi nào. Sư đoàn gọi điện thoại. Mình
với cậu được gọi lên gặp chính ủy sư đoàn...
Malinin không bằng lòng, bởi vì ông muốn
tham gia vào trận tấn công ban đêm để chiếm lại điểm cao có ba ngôi nhà nhỏ,
nhưng không để lộ tâm tư mình ra: mệnh lệnh là mệnh lệnh.
Trên nền đen của đống đổ nát hoang tàn nổi
bật lên ba vết trắng: bộ mặt quấn băng và hai cánh tay trắng mập mạp của
Malinin.
- Báo cáo chính trị viên, đồng chí hiện ra
như một bóng ma, - Xintxốp nói.
- Mình được quấn tã lót như trẻ con! -
Malinin bực tức đáp. - Đi thôi, chả có việc gì mà ngồi đây!
- Nhưng họ gọi chúng ta lên làm gì nhỉ? -
Xintxốp hỏi và theo Malinin bước xuống dốc.
- Đến đó sẽ biết. Chúng ta sẽ đi bộ tới
trung đoàn bộ, còn từ đó đến sư đoàn thì nghe nói có xe tải chở đi. Như vậy có
nghĩa là người ta cần chúng ta...
- Tôi biết là gọi lên làm gì rồi, - Xintxốp
nói sau hồi lâu im lặng, khi họ đã xuống được hết dốc và tới khu đồng ruộng
bằng phẳng ở trước dãy nhà của trạm máy nông nghiệp và bắt đầu vượt qua cánh
đồng trên lớp tuyết không sâu lắm.
- Để làm gì? - Malinin hỏi.
- Về việc cái đơn của tôi đây. - Xintxốp
nói.
Khi Malinin nói rằng họ được gọi lên cấp
trên thì anh đã nghĩ ngay tới việc này. Tình trạng mệt mỏi về thể xác và tinh
thần phấn khởi của anh sau trận chiến đấu đều đã nhường chỗ cho tâm trạng hồi
hộp chờ đợi.
- Hừ, - Malinin nói, - đừng tưởng bở! Sao
lại lôi thẳng đi một cách khẩn cấp như vậy ngay khi đang chiến đấu!
- Lôi đi khi đang đánh nhau thì sao! -
Xintxốp nói. - Người ta đã xem lá đơn và chuyển cho những người có trách nhiệm.
Sao lại thế nhỉ, một kẻ như vậy mà bỗng nhiên lại ở ngoài hỏa tuyến! Phải đưa
ngay hắn về hậu phương để thẩm tra.
Anh không tin chắc vào điều đó, nhưng sẵn
sàng chờ đón những chuyện không hay.
- Còn gọi mình thì để làm gì? - Malinin
hỏi.
- Thì tôi đã hoàn toàn dựa vào đồng chí để
làm chứng mà lại!
- Chuyện nhảm! - Malinin quả quyết nói.
Ông ta biết rằng quả thực đó là chuyện
nhảm, chỉ vì một lẽ giản đơn: ông vẫn chưa gặp dịp thuận tiện để đích thân
chuyển lá đơn của Xintxốp cho phòng chính trị sư đoàn, và đã hơn một tuần nay
hết ngày này sang ngày khác, ông vẫn đang chờ dịp đó và vẫn mang theo bức thư
trong túi áo capốt. Nhưng trong lúc này, ông không muốn nói điều đó với
Xintxốp: được gọi lên sư đoàn là ông được tạo ra cơ hội không những để chuyển
lá đơn mà còn để nói chuyện với chính ủy trong một hoàn cảnh thuận lợi nhất cho
Xintxốp, tức là sau trận chiến đấu hôm nay.
- Chuyện nhảm, - Malinin nhắc lại và vừa đi
vừa quay về phía Xintxốp. - Mình thì nghĩ ngược lại: cậu được gọi lên để thưởng
huy chương về thành tích trong trận chiến đấu này.
Xintxốp im lặng. Anh không tin như vậy.
Thực ra thì tuy Malinin gần với sự thật hơn
Xintxốp, nhưng trong hai phỏng đoán ấy không có cái nào là đúng cả. Họ được
khẩn cấp triệu tập từ hỏa tuyến lên vì một lý do khác hẳn.
Hôm nay, một nhà văn từ tòa soạn của một tờ
báo ở Maxcơva đã lên đây và ngồi ở sư đoàn bộ trong thời gian diễn ra trận
đánh. Ông là một người nổi tiếng và không trẻ trung gì nữa. Ngay khi cho ông
tới sư đoàn, người ta đã cau mày: mong cho đừng chết để sau này chúng tôi khỏi
phải chịu trách nhiệm. Nhưng bây giờ, buổi chiều, khi được sư đoàn trưởng cho
biết rằng ở phía trước, dưới tiểu đoàn có một chính trị viên và một xạ thủ súng
máy đã từng đánh bật mấy đợt tấn công của quân Đức và đã hạ năm mươi tên Đức,
ông bèn kiên quyết đòi thân hành xuống tiểu đoàn trò chuyện với anh em. Người
ta cũng kiên quyết khước từ lời để nghị ấy của ông và khước từ một cách không thật
là triệt để, tuy nhiên trong lúc nóng vội, ông không nhận thấy điều đó. Họ nói
rằng bây giờ ông không thể xuống tiểu đoàn được, nhưng có thể gọi lên đây những
người mà ông định hỏi chuyện. Ông toan phản đối: làm đặc biệt như vậy để làm gì
chứ? Nhưng người ta lại giải thích cho ông theo kiểu mà họ thường giải thích
trong những trường hợp tương tự, đằng nào cũng phải gọi anh em lên, nếu không
gọi bây giờ thì sau cũng gọi, và đối với anh em, điều đó chả có gì khác nhau
hết!
Để chấm dứt cuộc tranh cãi ấy, chính ủy
liền vớ lấy ống nghe của máy điện thoại: tuy ông cũng không định cho nhà văn
xuống tiểu đoàn, nhưng lại rất muốn cho ông này viết về người của sư đoàn mình.
Và thế là Malinin cùng Xintxốp, mệt mỏi sau
trận đánh, đang lội trong tuyết từ điểm cao có nhà máy gạch tới khu nhà của
trạm máy nông nghiệp. Tuyết lất phất rơi những đợt cuối cùng, qua lúc này cũng
đã tạnh. Trăng đã mọc trên bầu trời. Tuyết ngả màu bàng bạc, lóng lánh và cảnh
vật hình như trở nên vui mắt hơn.
- Thời tiết tốt nhỉ! - Xintxốp nói.
- Ô kìa, một thằng Đức đang nằm. - Malinin
hất hàm trỏ cái xác chết với hai tay dang rộng đang in thành một vết màu thẫm
bên cạnh con đường mòn.
Khi đi ngang tên Đức chết, họ dừng lại
trong giây lát, liếc nhìn nó rồi lại đi tiếp.
- Còn cậu thì quả là một tay cừ đấy, - bỗng
Matinin nói mà không mào đầu gì hết,
Họ lặng lẽ đi thêm khoảng ba chục bước nữa.
- Giá cậu lại vào Đảng lần nữa thì tớ sẽ
vẫn giới thiệu cậu ngay không cần suy nghĩ. - đột nhiên Malinin lại nói rồi lại
lặng thinh.
- Cám ơn.
Họ lại im lặng đi được chừng năm chục bước.
- Chúng ta sắp đến nơi. - Xintxốp nói.
Vừa nói xong thì một quả đạn súng cối rơi
xuống đằng sau, rồi quả nữa...
Xintxốp và Malinin nằm xuống bên nhau trên
lớp tuyết trắng lóng lánh, trên đó chắc hẳn tấm áo capốt của họ đã nổi rõ lên,
khiến cho người ta có thể trông thấy ở xa hàng cây số. Trong lúc đó, đạn súng
cối vẫn tiếp tục nổ theo ô vuông bàn cờ, rải ra trên khắp cánh đồng phủ tuyết,
không dầy mà cũng không thưa. Những phát đạn đó dựng lên những cột khói đen,
hình nón và gieo rắc cái mùi khét lẹt ra xung quanh.
- Không phải nhằm bắn chúng mình, - Malinin
nót, - chúng bắn quấy rối vào khoảng trống.
- Ư hử. - Xintxốp nói qua kẽ răng.
Nhắm bắn họ hay không nhắm bắn họ, thế mà
họ đã nằm được năm rồi mười phút, còn đạn súng cối thì cứ hết phát nay sang
phát khác rơi xuống cánh đồng, lúc bên phải, lúc bên trái, lúc đằng trước, lúc
đằng sau và cái cảm giác sợ nguy hiểm không những không dịu đi mà trái lại còn
tăng lên trong lòng những người vừa mới trải qua một trận chiến đấu ác liệt.
Nỗi sợ hãi đó đã chiếm mất tâm trí của cả Malinin lẫn Xintxốp. Cả hai đều nằm
im, họ cũng chả buồn nói năng hoặc nghĩ ngợi, hoặc động viên nhau mà chỉ muốn
mỗi một điều là mau chóng kết thúc để cho họ khỏi chết và có thể đi tiếp.
Đợt pháo kích chấm dứt cũng đột ngột như
lúc bắt đầu. Cánh đồng trắng xóa vừa mới được cơn mưa tuyết buổi chiều kịp xóa
bớt cho những dấu vết của trận chiến đấu ban ngày, giờ đây lạỉ bị những vết đạn
pháo nổ làm nham nhở. Cánh đồng ấy lại có vẻ chiến tranh và nồng nặc mùi chiến
tranh.
Malinin và Xintxốp đứng dậy tiếp tục đi. Họ
chưa đến số phải chết trên cánh đồng ban đêm tuyết phủ này. Nhà văn đang đợi họ
ở chỗ chính ủy sư đoàn với cuốn sổ tay, chiếc bút máy và những câu hỏi căn vặn
nửa như bất lực, nửa như ân hận của một người dân sự. Lá đơn của Xintxốp đang
nằm trong túi áo capốt của Malinin, còn tờ giấy đề nghị khen thưởng Xintxốp về
thành tích chiến đấu hôm nay thì đang được soạn thảo trên ban tham mưu trung
đoàn, nhưng cả cái này lẫn cái kia đều còn phải hợp nhất lại với nhau về sau
Chiến tranh cứ diễn biến tuần tự. Lại kết
thúc một ngày chiến tranh nữa. Điều chủ yếu trong ngày đó không phải là lá đơn
đang nằm trong áo capốt của Malinin và cũng không phải là tờ giấy đề nghị khen
thưởng đang được thảo ra trong ban tham mưu trung đoàn, cũng như không phải là
những điều ghi chép vội vàng trong cuốn sổ tay của nhà văn, mà là một sự việc
đơn giản nhưng trọng đại: một lần nữa, lại thêm một khu vực mặt trận nữa ở gần
Maxcơva, suốt cả ngày tới khi trời tối, quân Đức chỉ làm được một phần tư những
việc chúng định làm từ sáng.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét