Người Đua Diều
Tác giả: Khaled Hossenini
Người dịch: Nguyễn Bản
NXB Phụ Nữ - 09/2017
Chương 25
Họ không muốn để tôi vào.
Tôi thấy họ đẩy nó, qua hai lần cửa và tôi
đi theo. Tôi xông qua hai cửa đó, mùi iốt và ôxy già xộc vào mũi tôi, nhưng tôi
chỉ đủ thời gian trông thấy hai người đàn ông đội mũ phẫu thuật và một phụ nữ mặc
đồ xanh đang hội ý bên chiếc xe đẩy. Tấm khăn trắng buông cả ra ngoài thành xe,
quệt xuống sàn lát gạch men hình ô vuông cáu bẩn. Đôi chân bé nhỏ, đầy máu thò
ra ngoài dưới tấm khăn và tôi nhìn thấy móng ngón cái bên chân trái bị bong ra.
Rồi một người đàn ông cao lớn, chắc nịch mặc đồ xanh lơ áp tay vào ngực tôi, đẩy
tôi trở ra bên ngoài qua mấy lần cửa, chiếc nhẫn cưới của ông ta lạnh toát áp
lên da tôi. Tôi lao về phía trước và nguyền rủa ông, nhưng ông ta nói tôi không
thể ở đây, nói bằng tiếng Anh, giọng lịch sự nhưng kiên quyết:
- Ông phải đợi, - vừa nói ông ta vừa dẫn
tôi tới khu vực đợi, và chiếc cửa đôi đu đưa đóng lại phía sau ông ta cùng một
tiếng thở dài, và tất cả những gì tôi trông thấy chỉ còn là chóp những chiếc mũ
phẫu thuật qua ô kính hẹp hình chữ nhật của lần cửa.
Ông ta bỏ tôi trong một hành lang rộng
không có cửa sổ, chật ních những người đang ngồi trên những ghế sắt gấp kẻ dọc
tường, những người khác trên tấm thảm trải mỏng, xơ mòn. Tôi lại muốn kêu thét
nữa, và tôi nhớ lần cuối cùng, tôi cũng cảm thấy như thế, đi cùng với Baba
trong bồn của chiếc xe tải chở xăng dầu, vùi mình trong bóng tối cùng những người
chạy nạn khác. Tôi muốn tự mình tách khỏi chốn này, khỏi thực tại này, nổi lên
như một đám mây và bồng bềnh trôi đi, tan chảy vào đêm hè ẩm ướt và rã ra đâu
đó thật xa, bên kia các quả đồi. Nhưng tôi đang ở đây, đôi chân nặng như chì,
hai lá phổi như cạn kiệt dưỡng khí, họng tôi cháy bỏng. Sẽ chẳng trôi đi đâu hết.
Sẽ chẳng có thực tại nào khác đêm nay. Tôi nhắm mắt lại và hai lỗ mũi tôi sực
mùi hành lang, mồ hôi và mùi amôniắc, mùi cồn sát trùng và mùi món cà ri. Trên
trần, những con thiêu thân đang lao mình vào ánh đèn tuýp nhờ xám chạy dọc hành
lang và tôi nghe được ca tiếng vỗ những đôi cánh mỏng của chúng. Tôi nghe thấy
tiếng chuyện gẫu, tiếng thổn thức nghẹn ngào, tiếng sụt sịt, ai đó đang than
khóc, ai khác lại thở dài, những chiếc cửa thang máy mở ra đánh “bình” một cái,
phẫu thuật viên gọi to ai đó bằng tiếng Urdu.
Tôi lại mở mắt và tôi biết mình phải làm
gì. Tôi nhìn quanh, tim tôi như một búa khoan trong lồng ngực, mạch máu đập
thình thịch trong tai. Có một phòng nhỏ làm kho chứa đồ tối om bên trái. Ở đó,
tôi tìm được thứ tôi cần. Thế là được rồi. Tôi vơ lấy một chiếc khăn trải giường
trắng từ đống khăn đã gấp và mang ra ngoài hành lang. Tôi thấy một y tá đang
trò chuyện với viên cảnh sát gần phòng nghỉ. Tôi nắm lấy khuỷu tay cô y tá đó
mà kéo ra, tôi muốn biết phía nào là phía Tây. Cô không hiểu và những nếp nhăn
trên mặt cô hằn sâu thêm khi cô cau mày. Họng tôi đau và mắt tôi cay vì mồ hôi,
mỗi hơi thở như hít lửa vào, và tôi cho là tôi đang khóc. Tôi lại hỏi. Tôi van
xin. Viên cảnh sát là người chỉ cho tôi.
Tôi ném chiếc jai-namaz, thảm quỳ tạm thời
của tôi, xuống sàn nhà, quỳ gối, rạp đầu xuống đất, nước mắt tôi đầm đìa tấm
khăn. Tôi cúi lạy về phía Tây. Rồi tôi nhớ mười lăm năm nay tôi chưa từng cầu
nguyện. Từ lâu tôi đã quên hết câu cú. Nhưng không quan trọng, tôi sẽ thốt ra mấy
từ tôi vẫn còn nhớ: La illaha il Allah,
Muhammad u rasul ullah. Không có Thượng đế nào ngoài Đức Allah và Muhammad
là Sứ giả của Người. Bây giờ, tôi mới thấy Baba nhầm, có một Thượng đế, luôn
luôn có một Thượng đế. Tôi thấy Người ở đây, trong những con mắt của mọi người
nơi dãy hành lang tuyệt vọng này. Đây là ngôi nhà thực sự của Thượng đế, đây là
nơi những ai để lạc mất Thượng đế sẽ tìm thấy Người, không phải tòa masjid trắng
với những ngọn đèn lấp lánh như kim cương và những tháp gọi cầu kinh cao vời vợi.
Có một Thượng đế ở đây, ở đây phải có, và bây giờ tôi sẽ nguyện cầu, tôi sẽ cầu
xin Người xá tội cho tôi vì đã lãng quên Người bao nhiêu năm qua, xá tội cho
tôi vì đã phản bội, đã dối trá, và đắc tội mà không bị trừng phạt, chỉ quay lại
với Người vào giờ khắc cần thiết lúc này của tôi. Tôi cầu xin Người hãy nhân từ,
khoan dung và độ lượng như cuốn kinh của Người đã dạy về Người như vậy. Tôi cúi
lạy về phía Tây, hôn mặt đất và hứa tôi sẽ cầu kinh sáng zakat, cầu kinh tối
namaz. Tôi sẽ ăn chay suốt tuần lễ Ramadan và khi tháng Ramadan qua đi tôi sẽ
tiếp tục ăn chay, tôi sẽ ghi khắc trong tâm khảm mình từng lời dạy cuối cùng
trong cuốn sách thiêng của Người, và tôi sẽ hành hương tới cái thành phố nóng bức
ấy trong sa mạc và cũng sẽ cúi lạy trước Ka’bah [Ka’bah: Hòn đá đen linh thiêng ở Thánh địa
Mecca]. Tôi sẽ làm tất cả những việc này và ngày nào tôi cũng sẽ
nghĩ tới Người, miễn là Người ban cho tôi chỉ nguyện ước này: Hai bàn tay tôi
đã vấy máu của Hassan, tôi xin Người đừng để nó phải vấy máu con trai cậu ấy nữa.
Tôi nghe thấy tiếng thút thít và nhận ra đó
là tiếng của mình. Đôi môi tôi mặn chát, nước mắt từ từ tuôn xuống mặt. Tôi cảm
thấy mắt mọi người trong hành lang đều nhìn tôi, và tôi vẫn cúi lạy về phía
Tây. Tôi cầu nguyện. Tôi cầu xin tội lỗi không đuổi kịp tôi với cung cách mà
tôi vẫn luôn sợ rằng nó sẽ đuổi kịp.
Một đêm không sao tối đen bao trùm lên
Islamabad. Đã mấy giờ qua, tôi vẫn đang ngồi trên sàn của phòng đợi nhỏ ngoài
cái hành lang dẫn tới phòng cấp cứu. Trước mặt tôi là một chiếc bàn cà phê màu
nâu ảm đạm bề bộn nhật báo và tạp chí quăn góc - một số tháng 4/1996 của Time và tờ tin Pakistan chụp bộ mặt của một chàng trai trẻ bị tàu cán chết tuần
trước đó, một tạp chí giải trí với những diễn viên Lollywood đang mỉm cười trên
bìa láng bóng. Có một bà già mặc áo shalwar-kameez màu xanh và quàng một chiếc
khăn san móc sợi gà gật trong một chiếc ghế đẩy ngang qua chỗ tôi. Chốc chốc bà
lại giật mình tỉnh dậy và lẩm bẩm cầu kinh bằng tiếng Ảrập. Tôi băn khoăn đến
phát mệt mỏi, không biết lời cầu xin của ai, của tôi hay của bà ấy đêm nay sẽ
được Người nghe thấy. Tôi hình dung ra khuôn mặt của Sohrab, cái cằm hơi dẩu
ra, đôi tai ốc biển nho nhỏ, đôi mắt xếch lá tre quá giống bố nó. Một nỗi buồn
thảm đen tối như đêm bên ngoài xâm lấn hồn tôi, và tôi cảm thấy cổ họng mình
nghẹn lại.
Tôi cần không khí.
Tôi đứng dậy và mở cửa sổ. Không khí lọt
qua màn cửa có mùi ẩm mốc và nóng. Nó sực mùi quả chà là chín nẫu và mùi phân
súc vật. Tôi cố hít vào phổi từng ngụm lớn, nhưng như thế cũng không xóa tan cảm
giác nghẽn nghẹt trong lồng ngực. Tôi lại ngồi xuống sàn. Tôi vớ lấy cuốn tạp
chí Time và lật giở các trang. Nhưng
tôi không thể đọc, không thể tập trung vào bất cứ điều gì. Vì vậy tôi lại quăng
nó lên bàn và trở lại chăm chú nhìn vào các khe nứt ngoằn ngoèo trên sàn xi
măng, những mạng nhện ở phào trần nhà, những xác ruồi và xác côn trùng khác
trên bậu cửa sổ. Chủ yếu tôi chăm chăm nhìn đồng hồ treo trên tường. Đã hơn bốn
giờ sáng, tôi đã ở bên ngoài căn phòng cửa quay hơn năm tiếng đồng hồ rồi. Tôi
vẫn chưa nghe được tin tức gì.
Tôi bắt đầu cảm thấy sàn nhà bên dưới như một
phần của cơ thể, hơi thở tôi mỗi lúc một nặng nề hơn, chậm chạp hơn. Tôi muốn
ngủ, nhắm mắt lại, ngả đầu tôi xuống sàn nhà lạnh và bụi bặm. Thiếp đi. Khi tôi
tỉnh dậy, biết đâu tôi sẽ khám phá ra mọi thứ tôi nhìn thấy trong cái buồng tắm
của khách sạn chỉ là một phần của cơn mơ: những giọt nước nhỏ từ vòi thành tiếng
binh binh xuống nước tắm hòa máu, cánh tay trái đung đưa qua thành bồn, lưỡi
dao cạo đầm đìa máu vẫn nằm trên téc nước bồn cầu - vẫn lưỡi dao cạo tôi đã
dùng cạo râu hôm trước - và đôi mắt nó vẫn hé mở nhưng không còn ánh sáng. Hơn
bất cứ điều gì. Tôi muốn quên đi đôi mắt ấy.
Chẳng mấy chốc, giấc ngủ kéo đến và tôi để
mặc nó mang tôi đi. Tôi mơ thấy nhiều chuyện mà sau đó tôi không nhớ nổi.
Ai đó vỗ vào vai tôi. Tôi mở mắt. Có một
người đàn ông đang quỳ bên tôi. Ông ta đội một chiếc mũ, giống những người đàn
ông đằng sau lần cửa quay, với một cái khẩu trang phẫu thuật bằng giấy trùm kín
miệng - tim tôi lặng đi khi tôi nhìn thấy một giọt máu trên chiếc khấu trang.
Ông mới dán tấm hình cô gái nhỏ mắt nai vào
máy nhắn tin của mình. Ông bỏ mặt nạ ra và tôi mừng vì không phải nhìn vào máu
của Sohrab nữa. Da ông ngăm đen giống màu sôcôla Thụy Sĩ nhập khẩu mà Hassan và
tôi vẫn thường mua ở phố chợ Shar-e-Nau. Tóc ông thưa mỏng và đôi mắt màu nâu lục
dưới hai hàng lông mày cong. Bằng giọng nói rất Anh, ông bảo tôi ông là bác sĩ
Nawaz, và bất chợt tôi muốn tránh xa con người này, bởi tôi không nghĩ tôi có
thể chịu nổi khi nghe những gì ông đến để nói với tôi. Ông nói thằng bé đã tự cắt
sâu vào tay mình và mất rất nhiều máu, vậy là miệng tôi lại lẩm bẩm câu kinh ấy.
La
illaha il Allah, Muhammad u rasul ullah.
Họ đã phải truyền vài ba đơn vị máu.
Mình sẽ phải nói với Sohrab thế nào đây?
Hai lần, họ phải giành lại sự sống cho nó.
Tôi sẽ cầu namaz, tôi sẽ cầu zakat.
Họ có lẽ đã không cứu được nó nếu trái tim
nó không trẻ và khỏe mạnh.
Tôi sẽ ăn chay.
Nó sống rồi.
Bác sĩ Nawaz mỉm cười.
Phải mất một lúc tôi mới ghi nhận được những
gì ông vừa nói. Rồi ông còn nói thêm nhưng tôi không nghe thấy. Bởi vì tôi đã nắm
lấy hai tay ông và đưa lên mặt. Tôi khóc vì trút được nỗi lo âu trong hai bàn
tay nhỏ bé, múp míp của con người xa lạ này và ông không nói gì lúc ấy. Ông đợi.
Phòng hồi sức cấp cứu hình chữ L và nhờ tối,
một mớ bòng bong các thiết bị điện tử kiểm tra kêu bíp bíp và các máy móc kêu
ro ro. Bác sĩ Nawaz dẫn tôi đi giữa hai dãy giường phân cách nhau bởi những rèm
nhựa trắng. Giường của Sohrab là chiếc cuối ở góc phòng, chiếc gần nhất với bàn
làm việc của y tá, nơi có hai nữ y tá trang bị áo quần mổ màu xanh đang ghi
chép vội vào kẹp giấy và khẽ chuyện gẫu với nhau. Lúc lặng lẽ cùng lên thang
máy với bác sĩ Nawaz, tôi đã nghĩ tôi sẽ lại khóc khi trông thấy Sohrab. Nhưng
khi ngồi trên chiếc ghế ở chân giường nó, nhìn vào khuôn mặt trắng nhợt của nó
qua một mớ rối tung những ống nhựa nhờ sáng và dây truyền máu, mắt tôi ráo hoảnh.
Nhìn ngực nó phập phồng theo nhịp của chiếc máy thở đang huýt lên tôi lặng người
đi, giống như một người lặng đi mấy giây sau khi đánh tay lái chiếc xe của mình
tránh được một cú va chạm ngay đầu mũi xe.
Tôi ngủ gà ngủ gật, và khi tỉnh dậy, tôi thấy
mặt trời đang lên trên một bầu trời màu bơ sữa qua chiếc cửa sổ gần bàn y tá.
Ánh nắng xiên vào phòng, đổ bóng tôi lên người Sohrab. Nó vẫn không động đậy.
- Tốt nhất ông nên ngủ đi một lúc. - Cô y
tá bảo tôi. Tôi không nhận ra cô. Có lẽ đã có thay ca trong khi tôi thiếp đi.
Cô đưa tôi sang một căn phòng khác, ngay bên ngoài phòng hồi sức cấp cứu. Căn
phòng trống. Cô đưa cho tôi gối và chăn bệnh viện. Tôi cảm ơn cô và nằm xuống một
chiếc sofa nhựa ở góc phòng. Tôi hầu như ngủ thiếp đi ngay.
Tôi mơ thấy mình trở lại căn phòng tầng dưới.
Bác sĩ Nawaz bước vào và tôi ngồi dậy đón ông. Ông tháo cái khẩu trang giấy ra,
hai bàn tay ông đột nhiên trắng hơn tôi nhớ, những móng tay gọt giũa cẩn thận,
tóc rẽ đường ngôi mượt mà, và tôi thấy ông không phải là bác sĩ Nawaz nữa mà là
Raymond Andrews, người đàn ông bé nhỏ ở tòa đại sứ, với chậu cà chua. Andrews
ngẩng đầu lên. Nheo mắt lại.
Ban ngày, bệnh viện là mê cung vô số những
hành lang bắt góc nhau, nhờ nhờ thứ ánh sáng huỳnh quang đỏ nhạt ở trên đầu.
Tôi đã nhận ra sơ đồ bệnh viện, nhận ra rằng nút bấm tầng bốn trong thang máy
phía Đông không bật sáng, rằng cánh cửa tới phòng đàn ông ở tầng ấy bị kẹt và
phải đẩy vai mới mở ra được. Tôi đã hiểu được bệnh viện có một nhịp sống riêng,
hoạt động náo nhiệt lúc đổi ca sáng, cái hối hả ban trưa, sự tĩnh lặng và êm ả
của những giờ giấc đêm khuya, thỉnh thoảng mới bị ngắt quãng bởi những hình ảnh
lờ mờ các bác sĩ và y tá vội vã cấp cứu ai đó. Tôi vẫn ngồi canh bên giường
Sohrab suốt cả ngày, và đêm thì lang thang qua những hành lang ngoằn ngoèo của
bệnh viện, lắng nghe gót giày mình gõ trên gạch lát, nghĩ về những gì tôi sẽ
nói với Sohrab khi nó tỉnh đậy. Cuối cùng tôi đành trở lại phòng hồi sức cấp cứu,
bên chiếc máy thở kêu ro ro cạnh giường nó, hầu như chẳng thiết nghĩ thêm gì nữa.
Sau ba ngày ở phòng hồi sức cấp cứu, họ
tháo ống thở và chuyển nó xuống chiếc giường tầng dưới. Tôi không ở đó lúc họ
chuyển nó. Tôi đã trở về khách sạn đêm ấy để có thể ngủ thêm một chút nhưng cuối
cùng trằn trọc trên giường suốt cả đêm. Sáng ra, tôi cố không nhìn vào cái bồn
tắm. Lúc này nó đã sạch sẽ, ai đó đã lau sạch máu, trải chiếu mới lên sàn, và cọ
rửa sạch tường. Nhưng tôi không thể ngăn tôi ngồi trên bờ sứ lạnh của bồn tắm.
Tôi hình dung Sohrab xả đầy nước nóng vào bồn. Thấy nó cởi quần áo. Thấy nó vặn
bàn cạo ra, và mở cái chốt kép an toàn ở trên, tháo lưỡi dao, cầm giữa ngón trỏ
và ngón cái. Tôi hình dung nó ngâm mình vào nước, nằm ở đó một lúc, mắt nhắm lại.
Tôi không hiểu lúc cuối nó nghĩ gì khi nó giơ lưỡi dao lên rồi hạ xuống.
Tôi đang chực ra khỏi phòng tiếp khách của
khách sạn thì ông giám đốc Fayyaz đuổi kịp tôi:
- Tôi rất lấy làm buồn cho ông, - ông nói.
- Nhưng tôi yêu cầu ông, làm ơn rời khỏi khách sạn. Chuyện này tệ hại cho công
việc kinh doanh của tôi, rất tệ hại.
Tôi bảo ông tôi hiểu, và làm thủ tục trả
phòng. Ông không tính tiền ba ngày tôi ở bệnh viện. Chờ một chiếc taxi bên
ngoài phòng đợi của khách sạn, tôi lại nghĩ đến những gì ông Fayyaz đã nói với
tôi cái đêm chúng tôi đi tìm Sohrab: một điều về người Afghan các ông là... ồ,
dân các ông hơi liều đấy.
Tôi đã cười ông, nhưng bây giờ tôi thật sự
kinh ngạc. Có phải thực sự tôi đã ngủ mất sau khi cho Sohrab hay cái tin mà nó
sợ nhất hay không?
Khi đã vào trong xe, tôi hỏi người tài xế
có biết một hiệu sách Ba Tư nào không. Anh ta nói có một hiệu cách đây hai cây
số về phía Nam. Chúng tôi dừng lại ở đó trên đường tới bệnh viện.
Phòng mới của Sohrab có tường màu kem, gờ
tường xám đen sứt mẻ, gạch lát nền tráng men có lẽ đã từng rất trắng. Nó ở cùng
phòng với một đứa con trai choai choai người Punjabi, một y tá cho biết thằng
bé bị gãy chân khi tuột từ trên nóc chiếc xe buýt đang chạy. Chân thằng bé bị
bó bột, được nâng lên, giữ bằng nẹp có đai dây da treo lên cho khối nặng.
Giường của Sohrab ở gần cửa sổ, nửa phía dưới
được chiếu sáng bởi ánh nắng mặt trời non trưa tràn qua những ô cửa hình chữ nhật.
Một nhân viên bảo vệ mặc đồng phục đứng ở cửa sổ đang cắn hạt dưa rang - Sohrab
được theo dõi hai bốn trên hai bốn giờ vì tự sát. Quy chế bệnh viện, bác sĩ
Nawaz thông báo vậy cho tôi. Người gác nghiêng mũ khi thấy tôi và rời khỏi
phòng.
Sohrab mặc áo ngủ cộc tay của bệnh viện và
nằm ngửa, chăn kéo tới ngực, mặt quay về phía cửa sổ. Tôi nghĩ nó đang ngủ,
nhưng khi tôi kéo nhẹ chiếc ghế sát vào giường nó, hai mi mắt nó chớp chớp và mở
ra. Nó nhìn tôi, rồi nhìn đi chỗ khác. Nó quá xanh xao, mặc dầu tất cả số máu họ
đã tiếp cho nó, và có vết thâm tím ở nếp gấp cánh tay phải.
- Cháu có sao không? - Tôi hỏi.
Nó không trả lời. Nó nhìn qua cửa sổ, vào
những hố cát và ghế đu trong vườn bệnh viện. Có một giàn lưới uốn hình vòm gần
sân chơi, dưới bóng những hàng cây dâm bụt, vài cây nho xanh leo lên hàng rào mắt
cáo bằng gỗ. Đám trẻ đang nô đùa với những xô chậu trong hố cát. Bầu trời hôm
đó xanh biếc không một gợn mây và tôi thấy một chiếc máy bay phản lực nhỏ xíu để
lại đằng sau hai vệt trắng. Tôi quay lại Sohrab và hỏi:
- Mấy phút trước, bác nói chuyện với bác sĩ
Nawaz, ông ấy nghĩ vài ngày nữa cháu sẽ được ra viện. Đó là một tin mừng, phải
không?
Tôi vẫn vấp phải yên lặng. Đứa con trai
Punjabi ở cuối phòng cựa quậy trong giấc ngủ và rên lên điều gì đó.
- Bác thích phòng này của cháu, - tôi vừa
nói vừa cố không nhìn vào cổ tay băng bó của Sohrab. - Trời đẹp quá, cháu có thấy
thế không.
im lặng. Vài phút lúng túng nữa trôi qua,
lông mày và môi trên tôi lấm tấm mồ hôi. Tôi chỉ vào bát đậu aush [món canh Afghan
gồm mì sợi, rau, cà chua dầm, bên trên có kem sữa chua và húng bạc hà]
Hà Lan không đụng đến ở trên tủ giường, và chiếc thìa nhựa không dùng đến:
- Cháu nên cố ăn một chút. Lấy lại sức khỏe
của cháu. Cháu có muốn bác giúp cháu ăn không?
Nó bắt lấy cái nhìn của tôi, rồi lại trông
đi nơi khác, mặt lạnh như đá. Mắt nó vẫn không có sắc sáng, trống rỗng y như
khi tôi tìm thấy nó và kéo nó ra khỏi bồn tắm. Tôi thò tay vào trong túi giấy
giữa hai chân và lấy ra cuốn sách cũ Shahnamah tôi đã mua ở hiệu sách Ba Tư.
Tôi quay bìa sách về phía Sohrab:
- Bác vẫn thường đọc cuốn này cho bố cháu,
khi hai anh em còn nhỏ. Bọn bác thường leo lên ngọn đồi ở gần nhà, và ngồi dưới
gốc cây lựu...
Tôi nói nhỏ dần, Sohrab lại nhìn ra ngoài cửa
sổ. Tôi gượng cười:
- Bố cháu thích nhất là chuyện về Rostam và
Sohrab, vì thế mà cháu mang cái tên ấy, bác biết là cháu biết điều đó. - Tôi dừng
lại, hơi cảm thấy như mình là một thằng ngốc. - Dù thế nào thì bố cháu cũng đã
nói trong thư gửi cho bác cháu thích chuyện đó, vì vậy bác nghĩ bác có thể đọc
cho cháu nghe một ít. Cháu có thích thế không?
Sohrab nhắm mắt lại. Lấy cánh tay, cái cánh
tay thâm tím ấy che lên mắt. Tôi lật mở đến trang tôi gập lúc ở trong xe taxi
và bảo “bắt đầu nào”, lần đầu tiên tự hỏi không biết Hassan đã nghĩ gì khi cuối
cùng cậu tự đọc được Shahnamah và phát hiện ra tôi đã đánh lừa cậu suốt những
năm tháng ấy.
Tôi hắng giọng và đọc: “Hãy để tai nghe kỳ
hết trận chiến của Sohrab chống Rostam, dẫu đó là một chuyện đầm đìa nước mắt.
Chuyện kể rằng vào một ngày, Rostam từ trường kỷ vươn mình thức dậy, đầu óc đầy
nhưng điềm triệu quái gở. Ông ta nhớ ra…”.
Tôi đọc cho nó gần hết chương 1, tới phần
chàng chiến binh trẻ Sohrab đến chỗ mẹ mình, là Tahminah, công chúa của
Samengan và yêu cầu được biết hình dáng của cha chàng. Tôi gấp sách lại.
- Cháu có muốn bác tiếp tục không? Sắp có
những trận đánh xảy ra, cháu nhớ không? Sohrab dẫn quân đội của mình tới pháo đài
trắng ở Iran phải không nhỉ? Bác đọc tiếp nhé?
Nó khẽ lắc đầu. Tôi bỏ cuốn sách trở lại
vào túi giấy.
- Cũng được, - tôi nói, cảm thấy phấn chấn
vì dẫu sao nó cũng đã đáp lại. - Có lẽ ngày mai chúng ta sẽ tiếp tục. Cháu cảm
thấy thế nào?
Miệng Sohrab hé mở và một tiếng khàn khàn
vuột ra. Bác sĩ Nawaz đã bảo tôi sẽ xảy ra như thế do ống thở luồn qua dây
thanh quản. Nó liếm môi và lại cố nói:
- Mệt.
- Bác biết. Bác sĩ Nawaz đã lường trước là
như thế. - Nó lắc đầu.
- Sao cơ, Sohrab?
Nó nhăn mặt khi nói lại bằng một giọng khàn
khàn, gần như không hơn tiếng thì thào:
- Chán tất cả.
Tôi thở dài và ngồi sụp xuống ghế. Có một dải
nắng trên giường giữa hai chúng tôi, và trong đúng một khắc, từ phía bên kia dải
nắng, bộ mặt xanh xám như tro đang nhìn tôi giống hệt bộ mặt của Hassan. Không
phải Hassan chơi bi đá với tôi tới tận lúc giáo sĩ rung chuông báo giờ kinh
Azan buổi tối và ông Ali gọi chúng tôi về nhà, không phải Hassan tôi đuổi theo
từ trên đồi trong khi mặt trời đang lặn sau những nóc nhà đất sét ở đằng Tây,
mà là Hassan lần cuối cùng tôi thấy còn sống, đang kéo lê đồ đạc của mình phía
sau ông Ali trong một trận mưa như trút nước của mùa hè ấm áp, nhét chúng vào cốp
xe của Baba trong khi tôi dõi theo qua cửa sổ ròng ròng nước mưa của phòng
mình.
Nó lắc đầu từ từ và nhắc lại:
- Chán hết mọi thứ.
- Bác phải làm gì, Sohrab? Làm ơn nói cho
bác biết.
- Cháu muốn… - nó lắc đầu. Nó lại nhăn nhó
và đưa tay lên họng như thể để gỡ tung bất cứ thứ gì đang chặn lấy giọng nói của
nó. Hai mắt tôi lại hướng vào cổ tay quấn chặt băng gạc trắng. - Cháu muốn lại
được sống như xưa. - Nó thở.
- Ồ, Sohrab.
- Cháu muốn Bố và Mẹ Jan. Cháu muốn Sasa.
Cháu muốn chơi đùa với ông Rahim Khan sahib ở ngoài vườn, cháu muốn được sống
trong ngôi nhà của chúng cháu, - nó đưa cánh tay lên ngang mắt. - Cháu muốn lại
được sống như xưa.
Tôi không biết nói gì, nhìn đi đâu, đành
nhìn xuống hai bàn tay tôi. Cuộc sống như xưa của cháu, tôi nghĩ. Cuộc sống như
xưa của bác nữa. Bác đã chơi đùa trong cùng cái sân ấy, Sohrab. Bác sống trong
cùng ngôi nhà đó. Nhưng cỏ đã chết và một chiếc xe jeep của kẻ xa lạ đã đỗ trên
lối xe vào ngôi nhà của chúng ta, vãi dầu trên khắp mặt đường nhựa. Cuộc sống
như xưa của chúng ta đã ra đi rồi, Sohrab, và mọi người trong đó đều đã chết hoặc
đang chết. Bây giờ chỉ còn mỗi cháu và bác thôi. Chỉ mỗi cháu và bác.
- Bác không thể cho cháu điều đó, - tôi
nói.
- Giá bác đừng...
- Xin cháu đừng nói thế.
- Giá bác đừng... giá bác để mặc cháu trong
bồn nước.
- Đừng bao giờ nói thế, Sohrab, - tôi vừa
nói vừa ngả người về phía trước. - Nghe cháu nói thế bác không chịu nổi. - Tôi
sờ vào vai nó, nó giật nảy người. Lùi lại. Tôi buông tay, buồn rầu nhớ lại
nhưng ngày cuối cùng trước khi tôi thất hứa với nó rút cục nó đã thoải mái để
tôi chạm vào người nó thế nào.
- Sohrab, bác không thể đem lại cho cháu cuộc
sống như xưa, bác cầu mong Thượng đế để bác có thể làm như vậy. Nhưng bác có thể
mang cháu đi theo bác. Bác chạy vào buồng tắm để nói cho cháu biết là vì thế.
Cháu có visa đi sang Mỹ, để sống với bác và bác gái. Thật đấy. Bác xin hứa.
Nó thở hắt ra qua lỗ mũi và nhắm mắt lại.
Giá tôi đừng nói mấy từ “Bác xin hứa” thì hơn.
- Cháu biết đấy, bác đã làm nhiều điều bác
hối tiếc trong đời. Và có thể không gì đáng tiếc hơn việc bác không giữ được lời
hứa với cháu. Nhưng chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra nữa, bác hết sức xin lỗi,
bác xin cháu, xin sự tha thứ của cháu. Cháu có thể làm việc đó không? Có thể
tha thứ cho bác không? Cháu có thể tin tưởng bác không - Tôi hạ giọng. - Cháu sẽ
đi cùng với bác chứ?
Trong lúc đợi nó trả lời, trí óc tôi chợt
lóe trở lại một ngày đông đã lâu rồi, Hassan và tôi ngồi trên tuyết dưới gốc
cây anh đào trụi lá. Tôi đã chơi một trò độc ác với Hassan hôm đó, giỡn với cậu
ấy, yêu cầu cậu ấy ăn bẩn để chứng tỏ lòng trung thành của cậu ấy với tôi. Giờ
đây, tôi là kẻ dưới kính hiển vi, là kẻ phải chứng tỏ nhân cách của mình. Tôi
đáng như thế lắm.
Sohrab xoay nghiêng người, xây lưng lại
tôi. Nó không nói gì một lúc lâu. Thế rồi, đúng lúc tôi nghĩ có thể nó đã ngủ,
nó nói giọng khàn khàn:
- Cháu mệt lắm.
Tôi ngồi bên giường nó cho tới khi nó ngủ.
Có cái gì đó đã mất giữa Sohrab và tôi. Cho tới lúc tôi gặp ông luật sư, ông
Omar Faisal, một tia hy vọng đã bắt đầu lọt vào đôi mắt Sohrab, như một vị
khách rụt rè. Bây giờ tia hy vọng ấy đã ra đi rồi, vị khách kia đã bỏ chạy, tôi
không biết khi nào nó dám quay trở lại. Tôi không biết bao lâu nữa Sohrab mới lại
cười. Bao lâu nữa nó mới lại tin tôi. Liệu có bao giờ không?
Tôi đành rời khỏi phòng bệnh và đi tìm một
khách sạn khác, không biết rằng phải một năm sau đó tôi mới lại được nghe thấy
Sohrab nói thêm một lời nào khác.
Cuối cùng thì Sohrab cũng chẳng bao giờ nhận
lời đề nghị của tôi. Nó cũng chẳng khước từ. Nhưng nó biết, một khi băng đã được
tháo ra, áo quần bệnh viện đã trả lại, nó chỉ là một đứa trẻ Hazara mồ côi vô
gia cư nào đấy. Nó có gì mà lựa chọn? Nó có thể đi đâu? Vì vậy, tiếng vâng ở nó
trên thực tế giống một sự đầu hàng lặng lẽ hơn, không hẳn một sự chấp thuận mà
chính là một hành động buông xuôi, vì quá chán nản để mà quyết định, và quá mệt
mỏi để mà tin tưởng. Điều nó mong mỏi là cuộc sống xưa kia. Những gì nó có được
là tôi và nước Mỹ. Xét cho hết lẽ, chẳng phải là một số phận tồi tệ gì cho lắm,
nhưng tôi không thể nói với nó như thế. Viễn cảnh là điều xa xỉ khi đầu óc anh
lúc nào cũng ong ong một bầy quỷ dữ.
Và nếu sự việc diễn ra như thế, khoảng một
tuần nữa thôi, chúng tôi sẽ vượt qua cái đường băng trải bê tông nhựa đường ấm
nóng, và tôi sẽ mang con trai của Hassan từ Afghanistan tới Mỹ, đem nó ra khỏi
tình trạng chắc chắn hỗn loạn và bỏ nó vào sự hỗn loạn của sự không chắc chắn.
Một hôm, có thể vào khoảng năm 1983 hoặc
1984 gì đó, tôi ở cửa hàng video ở Fremont. Tôi đang đứng ở gian hàng phim
Phương Tây thì một anh chàng cạnh tôi đang uống coke, chỉ vào băng Bảy anh chàng cừ khôi và hỏi tôi đã xem
phim này chưa.
- Rồi, mười ba lần, - tôi nói. - Charles
Bronson chết trong phim, rồi cả James Coburn và Robert Vangha cũng chết.
Hắn nhăn mặt lại nhìn tôi, như thế tôi vừa
nhổ vào cốc nước giải khát của hắn.
- Cảm ơn nhiều, trời hỡi.
Hắn vừa nói vừa lắc đầu, mồm lẩm bẩm một điều
gì đó trong khi đi khỏi. Về sau tôi mới biết, ở Mỹ, đừng có tiết lộ hồi kết của
bộ phim, nếu anh làm thế, anh sẽ bị khinh thường, và phải hết lời xin lỗi vì đã
mắc tội Làm Hỏng Phần Kết.
Ở Afghanistan, phần kết mới là phần được
quan tâm nhất. Khi Hassan và tôi trở về nhà sau khi xem một bộ phim Hindu ở rạp
chiếu phim Zainab, những gì ông Ali, chú Rahim Khan - Baba hoặc vô số bạn bè của
Baba, những em họ, cháu họ lũ lượt ra ra vào vào ngôi nhà - chỉ muốn biết điều
này: Cô gái trong phim có tìm thấy hạnh phúc không? Bacheh, chàng trai trong
phim, có thành công và hoàn thành những giấc mộng của mình không hay là chàng
ta đành chịu đắm mình trong thất bại?
Cuối cùng có hạnh phúc không, họ muốn biết
điều ấy.
Nếu có ai hôm nay muốn hỏi tôi liệu câu
chuyện về Hassan, Sohrab và tôi có kết thúc hạnh phúc không, có lẽ tôi sẽ chẳng
biết nói thế nào.
Liệu có ai muốn hỏi?
Rốt cuộc, cuộc đời không phải là một bộ
phim Hindu. Zendagi migzana, những
người Afghan thích nói thế: Đời cứ trôi đi, chẳng kể đến bắt đầu, kết thúc,
kamyab, nab-kam, khủng hoảng hay thanh thản, luôn tiến về phía trước như một
đoàn lữ hành ì ạch và bụi bặm của người du mục Kochis. Tôi có lẽ không biết trả
lời câu hỏi đó thế nào. Bất kể chuyện phép mầu nho nhỏ Chủ nhật vừa rồi.
Chúng tôi về đến nhà khoảng bảy tháng trước,
vào một ngày ấm áp tháng Tám năm 2001. Soraya đón chúng tôi ở sân bay. Tôi chưa
từng lần nào xa Soraya lâu đến thế, và khi nàng khóa hai cánh tay quanh cổ tôi,
khi tôi ngửi thấy mùi hương táo trên tóc nàng, tôi mới nhận ra tôi nhớ nàng quá
thể. Tôi thì thầm:
- Em vẫn cứ là mặt trời ban mai cho yelda [Những đêm dài
mùa đông] của anh.
- Gì cơ?
- Không có gì. - Tôi hôn tai nàng.
Sau đó nàng khom gối xuống ngang tầm mắt
Sohrab. Nàng cầm tay nó và mỉm cười với nó:
- Salaam, Sohrab Jan. Dì là Khala Soraya của
cháu. Tất cả chúng ta đang mong cháu.
Nhìn nàng mỉm cười với Sohrab, mắt hơi ngân
ngấn, tôi thoáng nghĩ nàng lẽ ra đã có thể làm mẹ, nếu dạ con của nàng không phản
bội nàng.
Sohrab rê rê chân và nhìn đi chỗ khác.
Soraya đã chuyển phòng đọc trên gác thành
phòng ngủ cho Sohrab. Nàng dẫn nó vào và nó ngồi ở mép giường. Khăn trải giường
nổi bật những cánh diều sắc màu rực rỡ tung bay trong bầu trời xanh biếc. Nàng
đã tạo nhiều vạch trên bức tường gần chiếc tủ con, từng phân từng tấc để đo chiều
cao sẽ ngày một tăng của đứa trẻ. Ở chân giường, tôi thấy một rổ liễu gai đầy
sách, một đầu tàu và một hộp màu nước.
Sohrab đang mặc một chiếc áo phông trắng loại
bình thường và quần Jeans mới mà tôi mua cho nó ở Islamabad ngay trước khi
chúng tôi rời khỏi đó - Chiếc áo phông lụng thụng ngoài đôi vai giơ xương và
hõm xuống của nó. Sắc màu vẫn còn chưa ửng lên trên mặt nó, trừ những quầng
thâm quanh đôi mắt. Lúc này nó nhìn chúng tôi một cách thản nhiên như nhìn vào
những đĩa cơm bệnh viện đặt ngay ngắn trước mặt.
Soraya hỏi liệu nó có thích căn phòng của
nó không và tôi để ý thấy nàng cố tránh nhìn vào cổ tay thằng bé, mắt nàng luôn
quay trở lại những vết cắt màu hồng. Sohrab hơi cúi đầu. Giấu hai bàn tay dưới
khe đùi và không nói không rằng. Rồi nó hồn nhiên ngả đầu lên gối. Chưa đầy năm
phút sau, Soraya và tôi đứng ở cửa ngắm vào, nó đã đang ngáy.
Chúng tôi đi ngủ, Soraya ngủ thiếp đi, đầu
nàng gối trên ngực tôi. Trong bóng tối của căn phòng, tôi nằm thao thức, lại
thêm một lần mất ngủ. Thao thức. Và cô đơn cùng lũ ma quỷ của bản thân tôi.
Đôi lần giữa đêm khuya, tôi rón rén ra khỏi
giường đến phòng Sohrab. Tôi đứng bên, nhìn xuống, và thấy một cái gì đó thò ra
dưới gối. Tôi cầm lên. Thấy đó là tấm ảnh Polaroid của Rahim Khan, tấm ảnh tôi
đã cho Sohrab vào cái đêm chúng tôi ngồi bên nhà thờ Shah Faisal. Tấm ảnh của
Hassan và Sohrab đứng sát cạnh nhau, nheo mắt trong ánh mặt trời, và mỉm cười
như thể thế giới là một nơi tốt đẹp, công bằng. Tôi không hiểu Sohrab đã nằm
trên giường chăm chú nhìn tấm ảnh, chuyển tay nọ qua tay kia trong bao lâu. Tôi
nhìn vào tấm ảnh. Cha cháu là một người bị
giằng xé giữa hai nửa, chú Rahim Khan đã viết thế trong bức thư của ông.
Tôi đã từng là cái nửa được cho phép, được xã hội thừa nhận, nửa hợp pháp, hiện
thân vô thức tội lỗi của Baba. Tôi nhìn vào Hassan phô ra hai chiếc răng cửa bị
khuyết, ánh nắng chiếu xiên lên mặt. Nửa kia của Baba. Cái nửa không được phép,
nửa không có đặc quyền. Cái nửa thừa kế tất cả những gì là trong sạch và cao
quý ở Baba. Cái nửa mà, biết đâu, trong cõi hẻo lánh bí ẩn nhất của trái tim
mình, Baba đã nghĩ nó mới là đứa con trai đích thực của ông.
Tôi lại luồn tấm ảnh trở về nơi tôi đã lấy.
Rồi tôi nhận ra được một điều: Rằng ý nghĩ vừa xong không hề mang theo nhói đau
nào hết. Khép cửa phòng Sohrab, tôi băn khoăn tự hỏi liệu có phải ấy là con đường
sự khoan dung đâm chồi nảy lộc, không phải bằng trống giong cờ mở, mà chính là
nỗi đau đã thu dọn những đồ lề của nó, gói ghém lại, và tiêu biến đi không lời
giã biệt giữa đêm khuya.
Ông tướng và Khala Jamila hôm sau đến ăn tối.
Khala Jamila, tóc cắt ngắn và đỏ sẫm hơn bình thường, đưa cho Soraya maghout rắc
hạnh nhân để ăn tráng miệng. Bà nhìn thấy Sohrab liền tươi cười:
- Mashallah! Soraya jan bảo chúng ta là
cháu xinh trai lắm, nhưng nhìn ngoài đời cháu còn xinh trai hơn.
Bà trao cho nó chiếc áo len màu xanh cổ lọ:
- Bà đan cho cháu đấy. Cho mùa đông tới.
Inshallah, mong cháu mặc vừa.
Sohrab cầm lấy chiếc áo len.
- Xin chào, anh bạn trẻ, - đó là tất cả những
gì ông tướng nói, vừa cúi xuống hai tay tì lên cây gậy của ông, nhìn Sohrab như
thể người ta đang nghiên cứu một đồ trang hoàng lạ lùng tại nhà ai đó.
Tôi trả lời, rồi lại trả lời, những câu hỏi
của Khala Jamila về những vết thương của tôi - Tôi đã yêu cầu Soraya nói với họ
rằng tôi bị cướp - khẳng định với bà rằng tôi không bị thương tật nào vĩnh viễn,
rằng những dây thép vài tuần nữa sẽ được tháo ra và tôi lại có thể ăn những thứ
bà nấu, rằng, vâng, tôi sẽ cố bôi nước ép cây hoàng liên và đường lên các vết sẹo
của tôi để cho chúng chóng mờ.
Ông tướng và tôi ngồi ở phòng khách uống rượu
vang trong khi Soraya và mẹ nàng dọn bàn ăn. Tôi kể cho ông nghe về Kabul và bọn
Taliban. Ông lắng nghe và gật gù, cây gậy đặt lên đùi và tặc tặc lưỡi khi tôi kể
cho ông về người đàn ông tôi bắt gặp đang bán chiếc chân giả của mình. Tôi
không đả động đến cuộc hành quyết ở Sân vận động Ghazi và Assef. Ông hỏi tôi về
Rahim Khan, người mà ông đã gặp ở Kabul vài lần, và lắc đầu nghiêm nghị khi tôi
kể cho ông nghe về bệnh tình của chú. Nhưng trong khi chúng tôi nói chuyện, tôi
bắt gặp mắt ông không ngừng hướng về Sohrab đang nằm ngủ trên chiếc ghế dài.
Như thể chúng tôi đang mon men quanh bờ những gì ông thực sự muốn biết.
Việc tán gẫu cuối cùng cũng chấm dứt trong
bữa tối, khi ông tướng đặt dĩa xuống và nói:
- Vậy Amir jan, anh sẽ nói cho chúng ta biết
tại sao anh lại mang cậu bé này về cùng với anh chứ?
- Iqbal jan! Hỏi thế là thế nào? - Khala
Jamila nói.
- Trong khi mình đang bận đan áo len, mình
yêu quý, tôi phải quan tâm sự nhìn nhận của cộng đồng về gia đình chúng ta. Mọi
người sẽ hỏi. Họ sẽ muốn biết tại sao lại có một thằng bé Hazara sống cùng với
con gái chúng ta. Tôi phải nói với họ thế nào đây?
Soraya buông thìa xuống. Quay về phía bố
mình.
- Bố có thể nói...
- Thôi được rồi, Soraya, - tôi vừa nói, vừa
cầm lấy tay nàng, - thôi được rồi. - Tướng quân Sahib hoàn toàn có lý. Mọi người
sẽ hỏi.
- Amir!... - Nàng ngắt lời.
- Không sao. - Tôi quay về phía ông tướng. -
Tướng quân Sahib, bố thấy đấy, bố con ngủ với vợ người ở của ông ấy. Bà này đẻ
cho bố con một đứa con trai tên là Hassan. Hassan bây giờ đã chết. Thằng bé
đang ngủ trên ghế dài là con của Hassan. Nó là cháu của con. Đó là những gì bố
cứ nói cho mọi người biết khi họ hỏi.
Tất cả đều nhìn tôi chằm chằm.
- Và một điều nữa, tướng quân Sahib, - tôi
nói. - Bố đừng bao giờ gọi nó là thằng bé Hazara trước mặt con nữa. Nó có một
cái tên. Tên nó là Sohrab.
Chẳng ai nói gì đến bữa ăn bị ế.
Sẽ là sai lầm nếu nói Sohrab trầm lặng. Trầm
lặng là thanh thản. Bình yên. Trầm lặng là vặn nhỏ cái nút Âm Lượng của cuộc đời.
Im lặng là ấn nút Tắt. Tắt nó đi. Tắt tất cả.
Sự im lặng của Sohrab không phải là im lặng
tự thân của những kẻ nhận thức được tội lỗi của mình, những kẻ phản kháng, tìm
cách nói lên căn nguyên bằng cách không thèm nói gì hết. Đó là sự im lặng của một
người che mình trong một chốn tối tăm, cuốn hết tất cả các mép điểm lại và đè
chặt xuống dưới.
Nó có chiếm mất nhiều không gian sống lắm
đâu. Rất ít là khác. Đôi khi ở chợ, trong công viên, tôi đề ý thấy cái lối mọi
người khác hầu như không cả nhìn nó, như thể nó chẳng hề ở đó. Tôi đang đọc
sách chợt nhìn lên, thấy Sohrab đã vào trong phòng và ngồi trước mặt tôi từ lúc
nào mà tôi đã không hề để ý. Nó bước như sợ để lại đằng sau tiếng bước chân. Nó
di chuyển như không muốn khuấy động không khí xung quanh nó. Thường thường, nó
ngủ.
Sự im lặng của Sohrab cũng khó cho cả
Soraya nữa. Trên điện thoại đường dài tới Pakistan, Soraya đã nói với tôi về những
việc nàng đang sắp xếp cho Sohrab. Những lớp học bơi. Bóng đá. Liên đoàn Bowling.
Giờ đây nàng sẽ chỉ lướt qua phòng Sohrab, hé nhìn những cuốn sách vẫn nằm im không
mở trong giỏ liễu gai, đồ thị tăng trưởng không đánh dấu, mớ đồ chơi xếp hình
không lắp ráp, mỗi thứ lại một nhắc nhở về cuộc đời lẽ ra có được. Một sự nhắc
nhở đến giấc mơ héo rũ khi mới đâm chồi. Nhưng không phải một mình nàng như thế.
Tôi cũng đã có những giấc mơ riêng cho Sohrab.
Trong khi Sohrab trầm lặng, thế giới lại
không như vậy. Một buổi sáng thứ Ba ngày 11 tháng Chín năm 2001, tòa Tháp Đôi đổ
sụp và sau đêm ấy, thế giới đã đổi thay. Cờ Mỹ đột nhiên xuất hiện ở khắp nơi,
trên cần ăng ten của những chiếc taxi màu vàng len lỏi giữa dòng xe cộ, trên những
ve áo của khách hộ hành đi lại trên các hè đường thành một dòng chảy đều đặn, cả
trên những chiếc mũ cáu bẩn của đám ăn xin ở San Francisco ngồi bệt dưới mái bạt
của những phòng trưng bày mỹ thuật nhỏ và những cửa hiệu có mặt tiền rộng rãi.
Một hôm tôi đi qua chỗ Edith, người đàn bà vô gia cư ngày nào cũng chơi đàn ắc-coóc-đê-ông
trên góc phố Sutter và Stockton và nhận thấy một lá cờ Mỹ dán trên hộp đàn dưới
chân bà ta.
Chẳng bao lâu, sau khi tòa Tháp Đôi bị tấn
công, Mỹ oanh tạc Afghanistan. Liên minh miền Bắc tiến vào và bọn Taliban chạy
cuống quýt như lũ chuột cống rút vào hang. Đột nhiên, mọi người đứng xếp hàng
trong cửa hàng bách hóa cũng nói chuyện với nhau về những thành phố tuổi thơ
tôi. Kandahar, Herat, Maza-i-Sharif. Khi tôi còn nhỏ, Baba đã mang Hassan và
tôi tới Kunduz. Tôi không còn nhớ nhiều lắm về chuyến đi, trừ chuyện ngồi dưới
bóng một cây keo với Baba và Hassan, thay nhau uống nước ép dưa hấu tươi trong
một cái vò sành và xem ai nhổ hạt dưa xa nhất. Giờ đây Dan Rather, Tom Brokaw,
và mọi người nhấm nháp cà phê sữa tại Starbucks cũng đang nói về trận đánh chiếm
Kunduz, thành lũy cuối cùng của Taliban ở phía Bắc. Tháng Mười hai năm ấy, người
Pashtun, người Tajik, người Uzbek và người Hazara, tập trung lại ở Bonn và, dưới
sự giám sát của Liên Hiệp Quốc, bắt đầu một tiến trình để ngày nào đó chấm dứt
trên hai mươi năm bất hạnh trong thời trai trẻ của họ. Chiếc mũ lông cừu và chiếc
áo chapan xanh của Hamid Karzai* trở nên nổi tiếng.
*[Hiện là Tổng thống chính thức của
Afghanistan]
Sohrab mộng du qua tất cả những sự kiện đó.
Soraya và tôi tham gia vào những dự án của
người Afghan, ngoài ý thức về nghĩa vụ công dân, còn là nhu cầu đối với một điều
gì đó - bất cứ điều gì - để lấp đầy cái im lặng ở trên gác, cái im lặng hút hết
mọi điều như một cái hố đen. Trước đây, tôi chưa từng là kiểu người ưa hoạt động,
nhưng khi một người đàn ông tên là Kabir, một cựu đại sứ của Afghanistan ở Sofia,
kêu gọi tôi và hỏi tôi có muốn giúp ông một dự án bệnh viện không, tôi nói đồng
ý. Cái bệnh viện nhỏ này trụ gần biên giới Afghan - Pakistan và có một phòng mổ
nhỏ điều trị cho những người Afghan tị nạn bị thương vì mìn chôn. Nhưng nó đã
phải đóng cửa vì thiếu ngân sách. Tôi trở thành giám đốc dự án, Soraya là đồng
giám đốc của tôi. Hầu như ngày nào tôi cũng ở trong phòng làm việc, gửi thư điện
tử cho mọi người khắp thế giới, xin trợ cấp, tổ chức những chương trình xã hội
gây vốn. Và tự nhủ mang Sohrab sang đây là việc nên làm.
Năm đó kết thúc với tôi và Soraya trên
tràng kỷ, chăn phủ lên chân, xem Dick Clark trên tivi. Mọi người reo lên vui mừng
và hôn nhau khi quả cầu bạc rơi xuống và hoa giấy tung trắng xóa màn hình.
Trong ngôi nhà chúng tôi, năm mới bắt đầu khá giống cách năm cũ kết thúc. Trong
im lặng.
Thế rồi, bốn hôm trước, vào một ngày mưa lạnh
tháng Ba năm 2002, một điều kỳ diệu nho nhỏ đã xảy ra.
Tôi đem Soraya, Khala Jamila, và Sohrab tới
nơi người Afghan tụ hội lại với nhau ở công viên Hồ Elizabeth tại Fremont. Ông
tướng, tháng trước cũng đã được triệu tập về Afghanistan giữ cương vị bộ trưởng,
và đã bay về đó hai tuần trước - Ông không mang theo bộ đồ màu xám và chiếc đồng
hồ bỏ túi. Kế hoạch để mấy tháng sau Khala Jamila đoàn tụ với ông cũng đã được
ông sắp xếp. Bà nhớ ông khổ sở - và lo lắng cho sức khỏe của ông ở đó - và
chúng tôi đã nài bà ở lại với chúng tôi ít lâu.
Thứ Năm trước, ngày đầu xuân, là ngày Tết
Năm Mới - ngày Sawl-e-Nau - nên người Afghan ở Vùng Vịnh đã lên kế hoạch đón mừng
khắp Vịnh Đông và toàn bán đảo. Kabir, Soraya, và tôi có thêm lý do để vui mừng:
Cái bệnh viện nhỏ bé của chúng tôi ở Rawalpindi đã khai trương tuần trước,
không phải một bệnh viện phẫu thuật, chỉ là một bệnh viện nhi khoa. Nhưng đây
là sự khởi đầu tốt, tất cả chúng tôi đều nhất trí như vậy.
Đã nhiều ngày nắng mãi, nhưng sáng Chủ nhật
khi tôi bước ra khỏi giường, tôi nghe thấy tiếng những giọt mưa vỗ mạnh vào cửa
sổ. Vận may của người Afghan, tôi nghĩ vậy. Cười thầm. Tôi cầu kinh namaz buổi
sáng, trong khi Soraya vẫn ngủ - Tôi không còn phải xem đến cuốn sách kinh nhỏ
tôi có được từ nhà thờ nữa, những thánh thi lúc này tuôn ra một cách tự nhiên,
không cần cố gắng.
Chúng tôi đến vào quãng trưa và thấy đầy
người đang trú dưới một tấm vải nhựa lớn hình chữ nhật căng trên sáu cái cọc cắm
xuống đất. Ai đó đã rán món bánh bolani, hơi nước bốc lên từ những tách trà, và
một thùng xúp lơ nấu aush. Một bài hát cũ của Ahmad Zahir xoẹt xoẹt, ồm ồm cất
lên từ một máy cát-xét. Tôi hơi mỉm cười lúc bốn người chúng tôi chạy vội qua
bãi cỏ ướt sũng. Soraya và tôi dẫn đầu, Khala Jamila chạy giữa, Sohrab đằng sau
chúng tôi, mũ trùm của chiếc áo mưa màu vàng nảy lên sau lưng nó.
- Chuyện gì mà vui thế - Soraya vừa nói vừa
cầm tờ báo gấp che lên đầu.
- Em có thể đem người Afghan ra khỏi
Paghman, nhưng em không thể đem Paghman ra khỏi người Afghan được. - Tôi nói.
Chúng tôi rạp người xuống dưới cái lều bạt
tự chế. Soraya và Khala Jamila từ từ đi về phía một người đàn bà to béo quá khổ
đang rán bánh bolani nhồi rau bina. Sohrab đứng im dưới mái che một lúc rồi bước
ra ngoài trời mưa, hai tay đút túi áo mưa. Tóc nó - bây giờ ngả màu nâu và thẳng
như tóc Hassan - bết xuống da đầu. Nó dừng lại gần một vũng nước nhỏ màu cà phê
và chăm chú nhìn vào đó. Hình như chẳng ai để ý. Chẳng ai gọi nó vào. Thời gian
trôi đi, những thắc mắc về đứa con trai nuôi bé nhỏ - nhất định là kỳ cục - của
chúng tôi may sao cũng đã tạm ngừng, và xét tới thực tế những thắc mắc của người
Afghan đôi khi sống sượng đến mức nào, cũng có thể coi đây như một khuây khỏa
đáng kể. Mọi người thôi không hỏi tại sao nó chẳng bao giờ nói. Tại sao nó
không chơi với những đứa trẻ khác. Và hay nhất là, họ thôi không làm chúng tôi
ngột ngạt với sự đồng cảm quá mức của họ, họ khe khẽ lắc đầu, với tiếng “tặc”
lưỡi, với câu “Oh, gung bichara”. Ô, thằng bé tội nghiệp này câm. Trò sính cái
lạ dần dần sẽ biến đi. Như tấm giấy dán tường xỉn màu, Sohrab đã hòa lẫn vào bối
cảnh.
Tôi bắt tay ông Kabir, một người đàn ông nhỏ
nhắn tóc trắng như cước. Ông giới thiệu tôi với hơn chục người, một trong số họ
là giáo viên về hưu, người khác là một kỹ sư, một cựu kiến trúc sư, một nhà phẫu
thuật lúc này đang điều hành một cửa hàng bánh mì kẹp xúc xích nóng ở Hayward.
Tất cả bọn họ đều nói họ đã biết Baba từ hồi ở Kabul, và đều nói về ông với
lòng kính trọng. Bằng cách này hoặc cách khác, ông đều liên quan tới cuộc sống
của họ. Những người này đều nói tôi thật may mắn có một người cha vĩ đại như
ông.
Chúng tôi trò chuyện với nhau về thế sự khó
khăn và cái cương vị có thể là bạc bẽo mà ông Karzai đang gánh, về khóa Loya
jirga [Quốc hội]
sắp tới, và việc nhà vua đe dọa sắp trở về quê hương sau hai mươi tám năm biệt
xứ. Tôi còn nhớ cái đêm năm 1973, người em họ của Zahir Shah lật đổ ông ta. Tôi
còn nhớ súng nổ hàng loạt và bầu trời sáng trắng như bạc, ông Ali ôm tôi và
Hassan trong cánh tay ông và bảo chúng tôi đừng sợ, rằng đó chỉ là họ đang bắn
vịt.
Rồi ai đó kể một chuyện cười về giáo sĩ
Nasruddin và tất cả chúng tôi đều cười.
- Anh biết không, cha anh cũng là một con
người hài hước đấy. - ông Kabir nói.
- Ông ấy hài hước à, đúng thế không? - Tôi
vừa nói vừa mỉm cười nhớ lại chỉ sau khi đến Mỹ được ít lâu Baba bắt đầu càu
nhàu về ruồi Mỹ ra sao. Ông thường ngồi tại bàn bếp với cái vỉ ruồi của ông,
theo dõi lũ ruồi bay vụt từ tường này sang tường khác, vo ve ở chỗ này, vù vù ở
chỗ kia, gây bực bội và đâm bổ vào người.
- Ở cái đất nước này, đến ruồi cũng vội vội
vàng vàng. - Ông thường rên rỉ. Tôi đã cười thích chí đến thế nào. Bây giờ nhớ
lại tôi chỉ mỉm cười.
Vào quãng ba giờ chiều, mưa ngừng, và bầu
trời đông đặc những cụm mây màu xám nặng nề. Một luồng gió mát lạnh thổi qua
công viên. Thêm những gia đình xuất hiện. Nhưng người Afghan đón chào nhau, ôm
ghì lấy nhau, hôn nhau, chia sẻ các món ăn. Ai đó nhóm than trong những bếp nướng
ngoài trời, và chẳng mấy chốc, mùi hành nướng và thịt cừu morgh ngào ngạt mũi
tôi. Rồi nhạc, giọng một ca sĩ mới nào đó tôi không biết và tiếng trẻ con khúc
khích cười đùa. Tôi thấy Sohrab, vẫn trong chiếc áo mưa màu vàng, tựa người vào
thùng rác, mắt đăm đăm nhìn một cái chuồng dơi rỗng không bên kia công viên.
Một lúc sau, lúc tôi đang chuyện gẫu với một
nhà cựu phẫu thuật, người mới nói cho tôi biết ông và Baba từng là bạn học cùng
lớp tám, thì Soraya kéo ống tay áo tôi:
- Amir, xem kìa!
Nàng đang chỉ tay lên trời. Nửa tá diều
đang bay trên cao, lấp lánh các màu vàng, đỏ, xanh lá cây in trên nền trời.
- Thử xem sao, - Soraya nói, lần này nàng
chỉ vào một người đang bán diều ở một quầy hàng gần đó.
- Cầm lấy cái này, - tôi nói và đưa cốc trà
của tôi cho Soraya. Tôi xin lỗi và bước tới quầy bán diều, đôi giầy của tôi
nhóp phép trên cỏ ướt. Tôi chỉ vào chiếc seh parcha [Diều] màu vàng. “Sawh-e-nau
mubabrak” [Chúc
năm mới hạnh phúc], người bán diều nói, lấy hai mươi đô và trao cho
tôi chiếc diều với ống tar thủy tinh. Tôi cảm ơn và cũng chúc ông ta một năm mới
hạnh phúc. Tôi thử dây theo cách Hassan và tôi vẫn quen thử, kẹp dây diều giữa
ngón cái và ngón trỏ rồi kéo. Dây đỏ máu và người bán diều mỉm cười. Tôi cũng mỉm
cười đáp lại.
Tôi mang diều tới chỗ Sohrab đang đứng, vẫn
tựa người vào thùng rác, hai tay khoanh trước ngực. Nó đang nhìn lên bầu trời.
- Cháu có thích chiếc seh parcha này không?
- Tôi vừa nói vừa cầm chiếc diều ở hai đầu thanh ngang, nâng lên. Đôi mắt nó
chuyển từ trên trời xuống nhìn tôi, rồi lại nhìn lên trời. Vài dòng nước mưa nhỏ
rỉ từ tóc xuống mặt nó.
- Một lần bác đọc thấy ở Malaysia, người ta
dùng diều để câu cá, - tôi nói. - Bác dám cược cháu không biết chuyện đó đấy. Họ
buộc dây câu vào diều và thả diều bay trên những chỗ nước nông để diều không in
bóng xuống nước làm cá sợ. Cả ở nước Trung Hoa cổ đại, các vị tướng cũng dùng
diều bay qua chiến trường để gửi những chỉ thị cho quân lính của mình. Chuyện
thật đấy. Bác không bịp cháu đâu, - Tôi chỉ cho nó xem ngón cái đang chảy máu. -
Dây tar này cũng không tồi đâu.
Liếc mắt sang bên, tôi thấy Soraya từ lều bạt
đang theo dõi chúng tôi, hai bàn tay kẹp vào bên nách. Không giống tôi, nàng đã
dần dần từ bỏ ý đồ thu phục nó. Những câu hỏi không được trả lời, những cái
nhìn hoang mang trống rỗng, sự im lặng, tất cả đều quá đau khổ. Nàng đã phải
chuyển sang “Thế cầm cự”*, chờ tín hiệu đèn xanh của Sohrab. Đợi chờ.
*[Tiếng Anh Holding pattern trong nguyên bản:
Lộ trình máy bay phải lượn vòng trên sân bay chờ tín hiệu hạ cánh, tạm dịch: thế
cầm cự]
Tôi nhấp nước bọt vào ngón tay trỏ và giơ
lên:
- Bác vẫn nhớ cách bố cháu kiểm tra hướng
gió, lấy dép đá tung bụi lên, nhìn xem gió thổi hướng nào. Bố cháu biết rất nhiều
mẹo kiểu như thế, - hạ ngón tay xuống, tôi nói. - Hướng Tây, bác nghĩ vậy.
Sohrab lau một giọt nước ở dái tai và rê rê
hai chân. Không nói gì. Tôi lại nghĩ tới mấy tháng trước khi Soraya hỏi tôi giọng
nói của thằng bé nghe thế nào. Tôi đã bảo nàng tôi cũng chẳng còn nhớ gì nữa.
- Đã bao giờ bác nói cho cháu biết bố cháu
là người đua diều giỏi nhất quận Wazir-Akhbar Khan chưa? Có thể nhất cả Kabul ấy
chứ? - Tôi vừa nói vừa thắt nút đầu dây tar vào dây thòng buộc ở trụ quay. - Bố
cháu làm cho trẻ con hàng xóm phát ghen lên. Bố cháu điều khiển diều mà chẳng
bao giờ cần phải nhìn lên trời, và mọi người thường nói, cậu ta săn bóng diều.
Nhưng họ không hiểu rõ bố cháu như bác. Bố cháu không săn đuổi cái bóng nào cả.
Mà chỉ... hiểu rõ thôi.
Nửa tá diều khác đã bay lên. Mọi người bắt
đầu tụ tập lại thành từng nhóm, tách trà trong tay, mắt dán lên bầu trời.
- Cháu có muốn giúp bác thả cái diều này
không - Tôi hỏi.
Mắt Sohrab chăm chú nhìn chiếc diều rồi
nhìn sang tôi. Rồi lại nhìn lên trời.
- Thôi được, - tôi nhún vai. - Xem như bác
sẽ phải thả diều một mình vậy.
Tôi giữ cho cân cuộn dây trong tay trái và
thả ra khoảng một mét dây nhựa. Chiếc diều vàng đung đưa ở đầu dây ngay trên cỏ
ướt:
- Cơ hội cuối cùng này - Tôi nói. Nhưng
Sohrab đang nhìn lên, một cặp diều đang mắc vào nhau bên trên những ngọn cây.
- Hay lắm, bác thả đây, - tôi bắt đầu chạy,
đôi giày đế mềm của tôi làm các vũng nước mưa bắn tung tóe, bàn tay tôi giữ chặt
đầu dây diều và giơ cao lên trên trên đầu. Đã quá lâu rồi, quá nhiều năm rồi kể
từ khi tôi làm như thế này, và tôi cũng chẳng hiểu liệu mình có làm trò cười
cho thiên hạ hay không. Tôi để cho ống cuộn quay trong bàn tay trái trong khi
chạy, cảm thấy dây diều lại cứa vào bàn tay phải lúc nó tở ra. Lúc này, chiếc
diều được nâng bổng lên sau vai tôi, cất lên, quay như bánh xe, và tôi chạy
nhanh hơn. Ống cuộn quay nhanh hơn nữa và dây tẩm thủy tinh cứa thêm một vết rạch
vào lòng bàn tay phải tôi. Tôi dừng và quay lại. Mỉm cười. Tít trên cao, con diều
của tôi nghiêng bên nọ qua bên kia như một quả lắc đồng hồ, nghe như tiếng vỗ
cánh của con chim giấy xưa kia, khiến tôi luôn luôn liên tưởng tới những sáng
mùa đông ở Kabul. Đã một phần tư thế kỷ tôi không thả con diều nào, nhưng bất
ngờ tôi lại trở lại tuổi mười hai và những bản năng xưa kia của tôi ào ạt trở về.
Tôi cảm thấy có ai đó ở gần tôi và tôi nhìn
xuống. Thì ra Sohrab. Hai tay thọc vào túi áo mưa, nó đã chạy theo tôi.
- Cháu có muốn thử không, - tôi hỏi. Nó
không nói gì. Nhưng khi tôi trao dây diều cho nó, nó rút bàn tay ra khỏi túi.
Phân vân. Nắm lấy dây diều. Tim tôi đập nhanh, trong lúc tôi quay ống dây cho
dây kịp. Chúng tôi đứng lặng lẽ bên nhau. Cổ ngẩng lên.
Xung quanh chúng tôi, lũ trẻ đuổi nhau, trượt
chân trên cỏ. Ai đó đang cho chạy một băng nhạc từ phim Hindu cũ. Một hàng người
lớn đang làm lễ cầu kinh namaz buổi chiều trên một tấm vải nhựa trải trên đất.
Không khí sực mùi cỏ ướt, mùi khói và mùi thịt nướng. Tôi ước sao thời gian ngừng
trôi.
Rồi tôi thấy, chúng tôi có cả một bầy đoàn
diều. Một chiếc diều xanh đang sát vào. Tôi dò ra dây diều là của một thằng bé
đứng cách xa chỗ tôi khoảng gần mười mét. Đầu nó húi ngắn, nó mặc một chiếc áo
phông cộc tay in đậm nét hàng chữ THE ROCK RULES. Nó thấy tôi đang nhìn nó, và
nó mỉm cười. Vẫy tôi. Tôi vẫy lại.
Sohrab trả lại dây diều cho tôi.
- Cháu trả lại thật đấy chứ? - Tôi vừa hỏi
vừa cầm lấy dây diều.
Nó cầm lấy ống cuộn từ tay tôi.
- Được lắm, - Tôi nói. - Bác cháu mình hãy
cho nó một sabagh, dạy cho nó một bài học, phải không?
Tôi liếc nhìn nó. Vẻ vô hồn, trống trải
trong đôi mắt nó đã biến mất. Cái nhìn chăm chú của nó lướt đi lướt lại giữa
con diều của chúng tôi và chiếc diều xanh. Mặt nó hơi ửng đỏ, mắt nó bất chợt
lanh lợi hẳn lên.
Thức tỉnh. Sống động. Tôi không hiểu từ khi
nào tôi đã quên mất rằng, bất kể mọi chuyện xảy ra, nó vẫn chỉ là một đứa trẻ
con.
Chiếc diều xanh đang xoay chuyển.
- Cứ đợi đã, - tôi nói. - Cứ để nó đến sát
hơn chút nữa.
Nó nhào xuống hai lần và lén bay về phía
con diều của chúng tôi.
- Nào, lao vào. Lao vào diều ta đi, - tôi
nói.
Chiếc diều xanh bây giờ đã bay đến sát hơn,
lúc này đang vọt lên cao trên con diều của chúng tôi, không biết đó là cái bẫy
tôi đã giăng sẵn.
- Xem đây, Sohrab. Bác sắp biểu diễn cho
cháu xem một trong những mẹo lừa mà bố cháu ưa thích, cái mẹo nhào lộn cũ rích ấy.
Đứng gần tôi, Sohrab đang thở nhanh bằng
mũi. Ống cuộn lăn trong lòng bàn tay nó. Gân tay ở cổ tay đóng sẹo của nó giống
như những dây đàn rubab. [158]. Rồi tôi chớp mắt, và chỉ trong khoảnh khắc, hai
bàn tay cầm ống cuộn đã thành hai bàn tay sứt móng, chai sạn của một thằng bé hẻ
môi. Tôi nghe thấy một con quạ kêu quạ quạ ở đâu đó, và tôi ngước mắt nhìn.
Công viên lung linh tuyết mới rơi, lấp lánh sáng trắng, làm lóa mắt tôi. Tuyết
lất phất rơi không một tiếng động từ những cành cây như mạ bạc. Lúc này, tôi ngửi
thấy mùi củ cải nấu qurma. Những quả dâu tằm khô. Cam chua. Mùn cưa và quả óc
chó. Một sự yên tĩnh ấp ủ, một lớp êm đềm tuyết phủ đang im lìm tuyệt đối. Thế
rồi xa xa, vượt qua sự tĩnh lặng, một giọng nói kêu gọi chúng tôi trở về quê
hương, giọng nói của một người đàn ông kéo lê chân phải của mình.
Chiếc diều xanh lúc này đang bay liệng ngay
trên trên con diều của chúng tôi.
- Nó đang định lao xuống đấy. Giờ thì lúc
nào cũng được. - tôi nói và mắt tôi vụt nhìn từ Sohrab lên con diều của chúng
tôi.
Chiếc diều xanh ngập ngừng. Giữ thế. Rồi
lao xuống.
- Nó đến rồi! - Tôi nói.
Tôi triển khai một cách hoàn hảo. Sau ngần ấy
năm trời. Cái hãy nhào-lên-lộn-xuống. Tôi nới lỏng tay và giật dây, nhào xuống
và tránh khỏi chiếc diều xanh. Một loạt những cú giật nhanh bên cánh, và con diều
của chúng tôi lao lên ngược chiều kim đồng hồ, thành nửa vòng tròn. Bất thình
lình diều tôi vọt lên trên. Chiếc diều xanh lúc này đang trườn ra, hoang mang
luống cuống. Nhưng chậm quá rồi. Tôi đã thoát khỏi nó bằng trò lừa của Hassan.
Tôi giật mạnh và diều tôi bổ thẳng xuống. Tôi gần như nghe thấy, tiếng dây diều
tôi cứa vào dây diều nó. Gần như nghe thấy tiếng đứt phựt.
Rồi, đúng vậy, chiếc diều xanh quay quay và
mất lái.
Phía sau chúng tôi, mọi người reo lên. Tiếng
huýt sáo và tiếng vỗ tay hoan hô vang dậy. Tôi thở hổn hển. Lần cuối cùng tôi cảm
thấy một sự trào dâng như thế này là cái ngày mùa đông năm 1975, ngay sau khi
tôi cắt hạ chiếc diều cuối cùng, khi tôi thấy Baba trên nóc nhà của chúng tôi,
đang vỗ tay, mặt rạng rỡ.
Tôi nhìn xuống Sohrab. Một bên mép nó cong
lên, đúng vậy.
Một nụ cười.
Lệch về một bên.
Khó có thể được.
Nhưng lại có đấy.
Phía sau chúng tôi, lũ nhỏ chạy lăng quăng,
và một đám đông hỗn loạn những người đua diều la hét, sai đuổi chiếc điều bị đứt
đang rơi xuống bên trên những ngọn cây. Tôi chớp chớp mắt và nụ cười biến mất.
Nhưng nó đã ở đó. Tôi đã thấy.
- Cháu có muốn bác đoạt chiếc diều đó cho
cháu không.
Nó nuốt nước bọt, quả hầu nó nâng lên hạ xuống.
Gió làm tung tóc nó lên. Tôi nghĩ tôi đã thấy nó gật đầu.
- Vì cháu, cả ngàn lần rồi, - tôi nghe thấy
mình nói thế.
Rồi tôi quay lưng và chạy đuổi.
Chỉ là một nụ cười thôi, có gì hơn đâu. Nó
chẳng khiến mọi chuyện ổn thỏa. Nó chẳng khiến điều gì ổn thỏa. Chỉ là một nụ
cười thôi. Một việc nhỏ nhặt. Một chiếc lá trong rừng cây, rung rinh theo đường
bay của một con chim giật mình cất cánh.
Nhưng tôi sẽ nắm lấy nó. Với hai cánh tay rộng
mở. Bởi vì khi mùa xuân đến, tuyết từng bông một sẽ tan, và có thể tôi sẽ dược
chứng kiến bông tuyết đầu tiên tan chảy.
Tôi chạy. Một người đàn ông cùng một lũ trẻ
con đang la hét chạy đua. Nhưng tôi không bận tâm. Tôi chạy theo hướng gió thổi
vào mặt, và một nụ cười nụ rộng như thung lũng Panjsher trên đôi môi tôi.
Tôi chạy.
Hết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét