Người Đua Diều
Tác giả: Khaled Hossenini
Người dịch: Nguyễn Bản
NXB Phụ Nữ - 09/2017
Chương 19
Lại say xe. Đến lúc xe chúng tôi chạy qua
cái biển đạn bắn lỗ chỗ, ĐÈO KHYBER HOAN NGHÊNH QUÝ KHÁCH, miệng tôi bắt đầu muốn
nôn. Một cái gì đó trong dạ dày tôi cuộn lên và xoắn lại. Farid, gã tài xế của
tôi, liếc nhìn tôi lạnh lùng. Không một chút đồng cảm nào trong mắt hắn. Tôi hỏi:
- Có thể hạ kính xe xuống không?
Hắn châm một điêu thuốc và kẹp chặt giữa
hai ngón còn lại của tay trái, bàn tay vẫn để trên tay lái. Đôi mắt đen vẫn
nhìn đường, hắn cúi xuống phía trước nhặt chiếc tuốc nơ vít nằm giữa hai chân,
và trao nó cho tôi. Tôi cắm vào cái lỗ nhỏ ở cửa xe, nơi đáng lẽ có tay quay và
vặn cho cửa kính xe chỗ tôi hạ xuống.
Farid lại nhìn tôi khinh miệt, cái nhìn này
có vẻ như một kẻ thù địch được nén lại, và tiếp tục hút thuốc. Hắn không nói
quá mươi lời từ lúc chúng tôi khởi hành ở Jamrud Ford.
- Cảm ơn, - tôi lẩm bẩm. Tôi ngả đầu ra
ngoài cửa số để cho khí lạnh giữa ban trưa ào qua mặt tôi. Xe chạy xuyên qua những
vùng đất của các bộ tộc. Đèo Khyber, ngoằn ngoèo giữa những vách đá phiến và đá
vôi, đúng như tôi nhớ Baba và tôi đã cho chạy xe qua miền đất tuyệt vọng này
trước năm 1974. Những dãy núi khô cằn, sừng sững dọc theo những vực sâu, vút
lên nhưng đỉnh lởm chởm tai mèo. Những pháo đài cổ, tường bằng đất nung đang vỡ
vụn trên đỉnh những vách đá cheo leo. Tôi cố dán mắt vào dãy Hindu Kush phủ tuyết
ở phía Bắc, nhưng mỗi lần bụng tôi ổn ổn được một chút, chiếc xe tải lại lượn
vòng một khúc ngoặt khác, làm dội lên một đợt sóng buồn nôn mới.
- Thử một miếng chanh xem.
- Cái gì?
- Chanh. Say xe dùng tốt đấy, - Farid nói.
- Tôi luôn mang theo một quả khi lái xe đường này.
- Không, cảm ơn. - Tôi nói. Nghĩ đến thêm
chất chua cho dạ dày là đã muốn nôn thêm rồi.
Farid cười khẩy.
- Không màu nhiệm như thuốc Mỹ đâu, tôi biết
chỉ là một phương thuốc cổ mẹ tôi dạy tôi thôi.
Tôi chỉ tiếc nhỡ để lỡ mất dịp may thân thiện
với hắn:
- Đã vậy thì có lẽ cho tôi một miếng.
Hắn vớ lấy cái túi giấy ở sau ghế và bóc một
nửa quả chanh ra. Tôi cắn một miếng, đợi vài phút:
- Anh nói đúng, tôi thấy dễ chịu hơn.
Tôi nói dối. Là một người Afghan, tôi biết
tốt nhất là chịu khổ còn hơn thô lỗ. Tôi cố nặn ra một nụ cười yếu ớt.
- Mẹo watani [Watani trick: Trò lừa trẻ con] cổ
đấy mà, không cần phải thuốc tiên đâu. - Hắn nói giọng gần như cáu kỉnh. Hắn
búng tàn thuốc đi và tự ban cho mình một cái nhìn thỏa mãn trong chiếc gương
chiếu hậu. Hắn là một người Tajik, [Một nhóm người thiểu số sống ở Afghanistan, Uzbekistan,
Iran, Pakistan, Tajkistan và Tầu...], một gã đàn ông gầy cao lêu
đêu, da ngăm đen, mặt sạm nắng gió, vai hẹp, cái cổ dài lộ yết hầu, nhưng chỉ
ló ra sau bộ râu khi hắn quay đầu lại. Hắn mặc nhiều hơn tôi, dù tôi cho đó thực
ra chỉ là lối ăn mặc khác: một chiếc mền len dệt thô trùm lên pirhan-tumban [Một loại áo
choàng] màu xám và một áo vest. Trên đầu, hắn đội chiếc pakol [Một loại mũ]
nâu hơi nghiêng về một bên, giống như người anh hùng Tajik Ahmad Shad Massoud -
được dân Tajik coi như “Con mãnh sư của Panjsher”.
Chính Rahim Khan đã giới thiệu tôi với
Farid. Ở Peshawar. Ông bảo tôi Farid hai chín tuổi, dẫu hắn có bộ mặt thận trọng,
chằng chịt nếp nhăn của một người già hơn cái tuổi chưa đến ba mươi. Hắn sinh
ra ở Mazar-i-Sharif, và sống ở đó cho tới khi lên mười thì cha hắn chuyển cả
gia đình tới Jalalabad. Mười bốn tuổi, hắn theo cha tham gia phong trào Hồi
giáo Thánh chiến Jihad chống lại bọn Shorawi. Cha con hắn đã chiến đấu ở thung
lũng Panjsher hai năm liền cho đến khi trực thăng nã súng máy và xé ông bố ra
làm nhiều mảnh. Farid có hai vợ và năm đứa con. “Hắn vốn có bảy đứa”, Rahim
Khan nói bằng con mắt buồn buồn, nhưng hắn đã để mất đứa con gái bé nhất mấy
năm trước trong một vụ mìn nổ ngay phía ngoài Jalalabad, cũng vụ nổ đã cắt mất
gót chân và ba ngón tay trái hắn. Sau đó, hắn đưa hai vợ hắn và lũ trẻ tới
Peshawar.
- Trạm kiểm soát. - Farid gầm lên. Tôi khom
người xuống một chút trong ghế ngồi của tôi, hai tay khoanh trước ngực, quên cả
buồn nôn. Nhưng không cần phải lo. Hai quân nhân Pakistan lại gần chiếc xe Land
Cruiser cũ nát của chúng tôi, liếc vội vào trong xe, và vẫy chúng tôi đi.
Tên Farid đứng đầu danh sách chuẩn bị của
chú Rahim Khan và tôi, một danh sách gồm cả việc đổi tiền đô sang tiền Kaldar
và tiền Afghan, quần áo của tôi và chiếc pakol - mỉa mai thay, tôi chưa từng mặc
thứ nào hồi tôi còn sống ở Afghanistan, tấm ảnh Polaroid của Hassan và Sohrab,
và cuối cùng, khoản quan trọng nhất, một bộ râu đen giả dài đến ngực, Shari’a tử
tế - hoặc ít nhất cũng là Shari’a theo cách hiểu của bọn Taliban. Rahim Khan
quen một người bạn ở Peshawar, chuyên gia trong việc gắn những thứ đó, đôi khi
cho cả những nhà báo phương Tây đến làm phóng sự về chiến tranh.
Rahim Khan muốn tôi lưu lại với ông thêm mấy
ngày nữa để sắp xếp mọi việc trôi chảy hơn. Nhưng tôi biết tôi phải rời đi càng
sớm càng tốt.
Tôi sợ tôi sẽ đổi ý. Tôi sợ tôi sẽ cân nhắc,
suy tính, dằn vặt, duy lý, và thuyết phục bản thân đừng đi. Tôi sợ tiếng gọi của
cuộc sống ở Mỹ sẽ kéo tôi trở lại, tôi sẽ lội ngược dòng con sông lớn vĩ đại đó
và phó mặc bản thân quên đi, phó mặc mọi chuyện tôi biết được vài ngày vừa qua
chìm xuống đáy. Tôi sợ tôi sẽ để cho nước cuốn tôi khỏi những gì tôi phải làm.
Khỏi Hassan. Khỏi quá khứ đã lên tiếng gọi. Khỏi cơ may cuối cùng này để chuộc
tội. Vì vậy tôi lên đường trước khi có một khả năng nào của những điều đó xảy
ra. Còn đối với Soraya, báo cho nàng biết tôi sẽ trở về Afghanistan không phải
lựa chọn của tôi. Nếu tôi làm thế, nàng sẽ đặt vé máy bay ngay chuyến kế tới
Pakistan.
Chúng tôi đã vượt qua biên giới và những dấu
hiệu của nghèo khổ hiện ra ở khắp mọi nơi. Bên kia đường, tôi thấy hàng loạt những
ngôi làng nhỏ mọc ra đó đây, giống như những mảnh vụn đồ chơi giữa đám đất đá,
những ngôi nhà và những túp lều bằng đất đổ nát chẳng có gì ngoài bốn cây cột gỗ
và mảnh vải rách coi như cái mái. Tôi thấy lũ trẻ ăn mặc rách rưới săn đuổi quả
bóng đá bên ngoài những túp lều ấy. Vài dặm đường sau, tôi bất chợt thấy một
nhóm đàn ông ngồi xệp, trông như một đàn quạ, trên cái xác chiếc xe tăng Xô viết
cháy rụi, gió thổi bay mép những tấm mền quấn quanh người họ. Phía sau họ một
người đàn bà trong chiếc burqa nâu vác một vò sành lớn trên vai, đi xuống con
đường hằn sâu và bánh xe, về phía dãy nhà đất.
- Lạ thật, - tôi nói.
- Gì cơ?
- Tôi cảm thấy như một khách du lịch trên
chính đất nước mình, - tôi vừa nói vừa quan sát một người chăn dê đang chăn sáu
con dê còm nhom dọc lề đường. Farid cười khẩy. Hắn quẳng điếu thuốc đi:
- Ông vẫn còn nghĩ nơi này là đất nước mình
ư?
- Tôi nghĩ một phần con người tôi sẽ luôn
luôn nghĩ vậy, - tôi nói, để chống chế hơn là chủ định.
- Sau hai mươi năm sống ở Mỹ chứ gì, - hắn
vừa nói vừa đánh tay lái, tránh một cái hố to bằng trái bóng bãi biển.
Tôi gật đầu:
- Tôi lớn lên ở Afghanistan.
Farid lại cười khẩy.
- Tại sao anh lại thế?
- Chẳng sao cả, - hắn lẩm bẩm.
- Không, tôi muốn biết. Tại sao anh lại làm
thế?
Trong chiếc gương chiếu hậu, tôi thấy một
cái gì đó lóe lên trong mắt hắn.
- Ông muốn biết không? - Hắn cười mỉa. - Để
tôi tưởng tượng xem nào, Agha sahib. Có thể ông đã sống trong một tòa nhà lớn
hai hoặc ba tầng với một cái sân sau tuyệt đẹp nơi người coi vườn của ông trồng
đầy hoa và cây ăn quả. Tất cả đều có cổng, tất nhiên. Bố ông lái một chiếc xe
hơi Mỹ. Ông cũng có nhiều đày tớ, có thể là người Hazara. Cha mẹ ông thuê thợ
trang trí ngôi nhà theo lối mehmanis [Mehmanis: Giải trí, vui chơi] cầu kỳ của họ, để
bạn bè họ ghé thăm, chè chén rồi khoác lác về những chuyến đi châu Âu hoặc Mỹ của
họ. Và tôi dám đem đôi mắt của đứa con trai đầu lòng của tôi ra cược, đây là lần
đầu tiên ông đội pakol.
Hắn nhăn nhở cười với tôi, để lộ đầy một mồm
răng sún.
- Tôi nói đúng chứ?
- Tại sao anh lại nói những điều này? - Tôi
hỏi.
- Bởi vì ông muốn biết.
Hắn nhổ. Hắn chỉ một ông già, quần áo rách
rưới lê bước xuống lối đi bẩn thỉu, một bao to đầy cây chổi xể [Scrub grass: Loại
cây thân nhỏ mọc ở đồi núi - tạm dịch: chổi xể] buộc trên lưng:
- Đó mới là Afghanistan thực sự, Agha
sahib. Là Afghanistan mà tôi biết. Còn ông? Ông mãi mãi là một khách du lịch ở
đây, ông đâu có biết điều đó.
Rahim Khan đã cảnh báo tôi đừng mong một sự
đón tiếp nồng nhiệt ở Afghanistan từ những con người đã ở lại phía sau và chiến
đấu. Tôi nói:
- Tôi rất tiếc về chuyện cha anh, con gái
anh đã mất, và rất tiếc về bàn tay anh.
- Chẳng là gì đối với tôi, - hắn lắc đầu
nói. - Chung quy là tại sao ông lại trở về? Bán đất của Baba ông à? Đút tiền
vào túi và chuồn thẳng về với mẹ ông ở Mỹ à?
- Mẹ tôi chết ngay lúc sinh ra tôi, - tôi
nói.
Hắn thở dài, châm một điếu thuốc khác.
Không nói gì nữa.
- Đỗ lại.
- Cái gì?
- Đỗ lại, chết tiệt! - Tôi nói. - Tôi sắp bị
nôn.
Tôi nhào vội ra khỏi xe, lúc nó vừa táp vào
lề sỏi dọc đường. Đến xế chiều, địa hình đã chuyển từ một vùng toàn những đỉnh
núi dãi nắng và vách đá trơ trụi sang một quang cảnh thôn dã hơn, xanh tươi
hơn. Con đèo chính từ Landi Kotal dốc xuống qua địa phận Shinwari với Landi
Khana. Đến Torkham là chúng tôi đã vào địa phận Afghanistan rồi. Những cây
thông mọc bên lề đường, ít hơn là tôi nhớ và nhiều cây trơ trụi, nhưng lại được
nhìn thấy cây cũng tốt sau một đoạn đường xe chạy gian nan qua đèo Khyber.
Chúng tôi đang đến sát Jalalahad, ở đấy Farid có một người anh trai ban đêm sẽ
đón chúng tôi vào nhà.
Mặt trời chưa lặn hẳn khi xe chúng tôi vào
Jalalabad, thủ phủ của tiểu bang Nangarhar, thành phố từng nổi tiếng về trái
cây và khí hậu ấm áp. Farid lái xe qua những tòa chung cư và những ngôi nhà bằng
đá của khu trung tâm thành phố. Không có nhiều cây cọ như tôi nhớ nữa, và nhiều
nhà đã biến thành những bức tường không mái với những đống đất sét vụn nát.
Farid ngoặt lên một con đường hẹp không lát
và đỗ chiếc Land Cruiser dọc theo con mương khô cạn. Tôi chui ra khỏi xe, vươn
vai, và hít một hơi dài. Ngày xưa, gió thổi tràn qua những cánh đồng được tưới
tiêu xung quanh Jalalabad, nơi nông dân trồng mía làm không khí thành phố đượm
một mùi thơm ngọt ngào. Tôi nhắm mắt lại và tìm kiếm mùi ngọt ngào ấy. Nhưng
tôi không thấy.
- Ta đi thôi. - Farid nôn nóng nói. Chúng
tôi bước lên một con đường đất, qua mấy cây bạch dương trụi lá dọc theo một dãy
những bức tường đất đổ nát, Farid dẫn tôi đến ngôi nhà một tầng cũ nát và gõ
vào cánh cửa ván gỗ. Một phụ nữ trẻ với đôi mắt màu xanh đại dương và một chiếc
khăn trùm đầu màu trắng quấn quanh khuôn mặt ló ra. Chị ta trông thấy tôi trước,
ngần ngại, chợt thấy Farid, mắt chị sáng lên:
- Salaam alaykum, Kaka Farid!
- Salaam, Maryam jan. - Farid đáp lại, và tặng
chị ta thứ mà suốt ngày hôm ấy hắn đã từ chối tôi: nụ cười nồng ấm. Hắn hôn lên
đỉnh đầu chị. Người phụ nữ trẻ bước sang một bên, nhìn tôi đôi chút thông cảm
hơn, khi tôi theo Farid vào ngôi nhà bé nhỏ.
Trần nhà gạch phơi thấp, những tường đất
chung quanh trơ trọi, và chỉ có chút ánh sáng từ cặp đèn lồng ở góc nhà. Chúng
tôi cởi giày ra và bước lên chiếc chiếu cói trải trên nền nhà. Dọc một bức tường,
ba đứa con trai ngồi khoanh chân trên đệm trải một cái mền mép rách bươm. Một
người đàn ông cao lớn để râu, vai rộng, đứng lên chào đón chúng tôi. Farid và
anh ta ôm ghì lấy nhau và hôn nhau lên má. Farid giới thiệu anh ta tên là
Wahid, và là anh trai của mình.
- Ông ấy từ Mỹ về, - Farid vừa nói với anh
trai vừa ngoắc ngón tay cái về phía tôi. Rồi hắn để mặc hai chúng tôi với nhau
và đến thăm lũ trẻ. Wahid ngồi dựa vào tường cùng tôi, đối diện với lũ trẻ.
Chúng vồ lấy Farid và trèo lên vai hắn. Mặc cho tôi phản đối, Wahid sai một đứa
trải chiếc mền nữa để tôi được thoải mái hơn trên nền nhà, và yêu cầu Maryam
mang cho tôi một tách trà. Anh ta hỏi thăm tôi chuyến xe từ Peshawar và việc
qua đèo Khyber.
Anh ta nói:
- Tôi hy vọng ông không tình cờ đụng phải một
đám dozd [Cướp]
nào. Đèo Khyber nổi tiếng về địa hình cũng như những toán cướp thường nhũng nhiễu
khách du hành. - Trước khi tôi kịp trả lời, anh ta nháy mắt và nói to:
- Tất nhiên, chẳng dozd nào lại phí thì giờ
đi cướp chiếc xe xấu xí như của em tôi.
Farid vật đứa bé nhất trong ba đứa con trai
ra nền nhà và cù vào xương sườn nó bằng bàn tay lành. Thằng bé cười rinh rích
và đá hắn.
- Ít nhất em cũng có được một cái xe, -
Farid hổn hển nói. - Dạo này con lừa của anh ra sao rồi?
- Lừa của tôi cưỡi còn tốt hơn xe của chú.
- Khar Khara mishnassah [Có cưỡi lừa mới
biết lừa thế nào]. - Farid đáp trả. Tất cả đều cười và tôi cũng cười
theo. Tôi nghe thấy những tiếng đàn bà từ gian phòng kề bên. Tôi có thể nhìn rõ
nửa gian phòng đó từ chỗ tôi ngồi. Maryan và một phụ nữ lớn tuổi hơn, đội hijab
[Một loại
khăn của phụ nữ Afghan] nâu, chừng như là mẹ chị ta, đang thì thầm với
nhau và rót trà từ ấm sang một cái bình.
- Vậy ông làm gì ở Mỹ, Amir agha? - Wahid hỏi.
- Tôi là một nhà văn, - tôi nói. Tôi tưởng
như nghe thấy Farid cười thầm khi tôi nói thế.
- Nhà văn ư? - Wahid nói, rõ ràng xúc động.
- Ông viết về Afghanistan à?
- Phải, tôi đã viết. Nhưng không phải mới
đây. - Tôi nói.
Cuốn tiểu thuyết gần nhất của tôi: Một thời
tro bụi [A
season for Ashes: Tạm dịch là Một thời tro bụi] viết về một giáo sư
đại học gia nhập một bộ lạc người Di-gan sau khi thấy vợ mình lên giường với một
trong những sinh viên của ông. Đó không phải là một cuốn sách tồi. Một vài nhà
phê bình đã gọi đó là cuốn sách “hay”, và một người thậm chí đã dùng từ “lôi cuốn”.
Nhưng chợt tôi thấy ngượng ngùng về chuyện đó. Tôi mong Wahid sẽ đừng hỏi tôi
viết về cái gì nữa.
- Có lẽ ông nên lại viết về Afghanistan, -
Wahid nói. - Nói cho mọi người khác trên thế giới biết bọn Taliban đang làm gì
đất nước chúng ta.
- Ồ, tôi không... tôi không hoàn toàn thuộc
loại nhà văn đó.
- Ồ! - Wahid vừa nói vừa gật đầu và hơi đỏ
mặt lên. - Tất nhiên, ông biết rõ nhất nên viết gì. Đâu đến lượt tôi gợi ý...
Ngay lúc đó, Maryam và người đàn bà kia bước
vào phòng với hai cái tách và ấm trà trên khay nhỏ. Tôi lễ phép đứng lên, ép
tay vào ngực, và cúi đầu chào:
- Salaam alaykum.
Người đàn bà lúc này đã quấn hijab, che
phía dưới mặt, cũng cúi đầu chào lại:
- Salaam, - bà đáp bằng một giọng hầu như
không nghe thấy. Mắt chúng tôi chẳng hề tiếp xúc với nhau. Bà rót trà, còn tôi
vẫn đứng. Người đàn bà đặt tách trà đang bốc khói trước mặt tôi và ra khỏi
phòng, đôi chân trần của bà không gây một tiếng động nhỏ khi bà biến mất. Tôi
ngồi xuống và nhấp trà đen đặc. Wahid cuối cùng cũng phá vỡ sự im lặng không mấy
dễ chịu theo sau.
- Vậy cái gì khiến ông quay lại Afghanistan?.
- Cái gì khiến tất cả bọn họ quay lại
Afghanistan chứ, anh thân mến? - Farid nói với Wahid, nhưng mắt lại dán vào tôi
bằng một cái nhìn khinh thị.
- Bas! Thôi đi! - Wahid ngắt lời.
- Vẫn chuyện ấy thôi. - Farid nói. - Bán mảnh
đất này, bán ngôi nhà kia, gom tiền và chạy trốn như một con chuột nhắt. Trở về
Mỹ, tiêu tiền ấy vào việc cho cả gia đình đi nghỉ ở Mêhicô.
- Farid! - Wahid gầm lên. Lũ trẻ con, và
ngay cả Farid nữa, sợ hãi lùi cả lại. - Quên mất phép tắc rồi ư? Đây là nhà
tôi! Amir agha là khách của tôi đêm nay và tôi sẽ không cho phép chú làm mất
danh dự tôi như thế!
Farid mở miệng, định nói điều gì đó, nhưng
rồi nghĩ lại và không nói gì nữa. Hắn ngồi phịch xuống dựa vào tường, lẩm bẩm
điều gì đó, và gác cẳng chân què lên chân lành. Đôi mắt buộc tội của hắn không
chịu rời tôi.
- Thứ lỗi cho chúng tôi, Amir agha, - Wahid
nói. - Từ lúc còn nhỏ, miệng em tôi vẫn luôn đi trước cái đầu của nó hai bước.
- Thực ra đấy là lỗi của tôi, - tôi nói, cố
mỉm cười dưới cái nhìn quyết liệt của Farid. - Tôi không thấy bị xúc phạm đâu.
Lẽ ra tôi nên giải thích cho anh ấy công việc của tôi ở Afghanistan. Tôi không
về đây để bán tài sản. Tôi định đi Kabul để tìm một đứa bé trai.
- Đứa bé trai? - Wahid hỏi lại.
- Vâng.
Tôi moi ở túi áo sơ mi ra tấm ảnh Polaroid.
Nhìn lại tấm hình của Hassan, một lần nữa xé toang lớp vảy mới liền trên nỗi
đau cái chết của cậu ấy. Tôi phải nhìn đi chỗ khác. Tôi đưa tấm ảnh cho Wahid.
Anh ta ngắm nghía tấm ảnh. Hết nhìn tôi lại nhìn tấm ảnh, rồi ngược lại.
- Đứa bé này à?
Tôi gật đầu.
- Một thằng bé Hazara?
- Vâng.
- Nó là thế nào với ông?
- Bố nó có ý nghĩa rất nhiều với tôi. Người
đàn ông trong tấm ảnh đó. Cậu ấy chết rồi.
Wahid chớp chớp mắt:
- Một người bạn của ông à?
Bản năng của tôi muốn nói “vâng”, như thể,
sâu thẳm trong tôi, tôi vẫn muốn bảo vệ bí mật của Baba. Nhưng nói dối thế là đủ
lắm rồi:
- Cậu ấy là em trai cùng bố với tôi. - Tôi
nghẹn giọng. Nói thêm, - em trai khác mẹ, bất hợp pháp của tôi. - Tôi xoay tách
trà. Mân mê tai tách.
- Tôi không có ý tọc mạch.
- Anh tọc mạch gì đâu. - Tôi nói.
- Ông sẽ làm gì với thằng bé?
- Mang nó về Peshawar. Ở đó có những con
người sẽ trông nom săn sóc nó.
Wahid trao trả tôi tấm ảnh và đặt bàn tay
thân thiện lên vai tôi.
- Amir agha, ông là một người đàn ông đáng
kính. Một người Afghan đích thực.
Tôi thấy ngượng trong lòng.
- Tôi tự hào được có một người như ông ở
nhà chúng tôi đêm nay, - Wahid nói.
Tôi cảm ơn anh ta và liếc nhìn sang phía
Farid. Lúc này hắn cúi nhìn xuống, mân mê những mép rách của tấm chiếu cói.
Một lát sau, Maryam và bà mẹ đem hai bát
rau nấu shorwa nghi ngút khói và hai ổ bánh mì ra. Wahid nói:
- Tôi rất tiếc là chúng tôi không thể mời
ông món thịt. Giờ chỉ có bọn Taliban có thể ăn thịt thôi.
- Món này trông tuyệt lắm, - tôi nói. Mà
cũng tuyệt thật. Tôi mời anh ta và lũ trẻ ăn một chút nhưng Wahid bảo gia đình
đã ăn trước khi chúng tôi đến rồi. Farid và tôi xắn ống tay áo lên, dầm bánh
vào bát shorwa, và ăn bằng tay.
Trong khi ăn, tôi để ý thấy cả ba đứa trẻ
nhà Wahid đều gầy còm, mặt cáu bẩn, tóc nâu cắt ngắn dưới những chiếc mũ chỏm đầu,
đang nhìn trộm vào chiếc đồng hồ điện tử đeo tay của tôi. Đứa nhỏ nhất thì thào
điều gì đó vào tai anh nó. Thằng anh gật đầu, không rời mắt khỏi chiếc đồng hồ
của tôi. Đứa lớn nhất - tôi đoán chừng mười hai tuổi, rập rà rập rình, mắt dán
vào cổ tay tôi. Ăn tối xong, sau khi rửa tay bằng nước Maryam dội từ chiếc vò
sành, tôi xin Wahid cho phép tôi tặng con trai anh một hadia, một món quà. Anh
bảo không, nhưng khi tôi cố nài, anh ta miễn cưỡng đồng ý. Tôi tháo chiếc đồng
hồ đeo tay và tặng nó cho đứa bé nhất trong ba đứa trẻ. Nó ngượng ngập lẩm bẩm:
- Taskakor!
- Đồng hồ này sẽ cho cháu biết giờ của bất
kỳ thành phố nào trên toàn thế giới, - tôi bảo nó thế.
Lũ trẻ lễ phép gật đầu, chuyền cái đồng hồ
cho nhau xem. Nhưng chúng hết hứng thú ngay và, chẳng mấy chốc, chiếc đồng hồ
đã bị bỏ quên trên manh chiếu cói.
Lát sau, Farid bảo tôi, khi nằm sát bên
nhau trên chiếc chiếu cói vợ Wahid trải cho chúng tôi:
- Đáng lẽ ông có thể nói cho tôi biết.
- Nói cho anh biết cái gì?
- Nói tại sao ông trở về Afghanistan.
Giọng hắn đã mất hẳn vẻ thô lỗ mà tôi vẫn
được nghe từ lúc tôi gặp hắn.
- Anh có hỏi đâu, - tôi nói.
- Lẽ ra ông phải nói cho tôi biết.
- Anh không hỏi mà.
Hắn xoay người lại nhìn tôi. Vòng cánh tay
ra gối đầu:
- Có thể tôi sẽ giúp ông tìm thằng bé.
- Cảm ơn anh, Farid. - Tôi nói.
- Tôi thừa nhận là tôi đã nhầm.
Tôi thở dài:
- Không sao. Anh đã đúng hơn là anh tưởng đấy.
Hai tay cậu bị trói ngoặt ra sau bằng một
chiếc thừng bện xù xì, cứa đến lút thịt cổ tay cậu. Cậu bị bịt mắt bằng một miếng
vải đen. Cậu đang quỳ trên đường phố trên bờ một con mương đầy nước tù, đầu cậu
rũ xuống giữa hai vai. Hai đầu gối run rẩy trên đất cứng và máu thấm qua quần
khiến cậu như đang lắc lư trong lúc cầu nguyện. Đó là lúc xế chiều, và cái bóng
dài của cậu chao đảo tới lui trên lớp sỏi rải đường. Cậu đang lẩm bẩm một điều
gì đấy. Tôi bước sát hơn. Cậu lẩm bẩm: Cả
nghìn lần rồi. Vì cậu cả nghìn lần rồi. Cậu ấy lắc lư lui tới. Cậu ngẩng mặt
lên. Tôi thấy một vết sẹo mờ trên môi trên của cậu.
Chúng tôi không chỉ có một mình.
Thoạt đầu, tôi thấy cái nòng súng. Rồi gã
đàn ông đứng sau cậu. Hắn cao lớn, mặc một chiếc áo vest rằn ri và đội chiếc
khăn tu-ban đen Hồi giáo. Hắn nhìn xuống người bị bịt mắt trước hắn bằng đôi mắt
chẳng biểu hiện điều gì ngoài sự trống rỗng mênh mông như hang tối. Hắn lùi lại
đằng sau một bước và giơ nòng súng lên. Gí vào sau gáy người đang quỳ. Trong một
khoảnh khắc, nắng nhạt chiều tà hắt lên màu kim loại lấp lánh.
Khẩu súng gầm lên một tiếng chói tai.
Tôi dõi theo nòng súng theo vòng cung ngược
lên. Tôi thấy bộ mặt sau bụm khói đang xoáy tròn từ họng súng. Tôi là người đàn
ông trong chiếc áo vest rằn ri.
Tôi tỉnh giấc với một tiếng thét bị nghẹn lại
trong họng.
Tôi bước ra ngoài. Đứng trong ánh trăng
bàng bạc của vầng trăng khuyết một nửa và nhìn lên bầu trời lấm tấm những vì
sao. Dế kêu râm ran trong bóng đêm bịt bùng và một luồng gió ào qua các khóm
cây. Đất lạnh giá dưới đôi chân trần của tôi và bất chợt, lần đầu tiên, từ lúc
chúng tôi vượt qua biên giới tôi cảm thấy như tôi đã trở về. Sau bao năm ấy,
tôi lại trở về quê hương, đang đứng trên đất đai của tổ tiên tôi. Đó là mảnh đất
nơi cụ tôi đã cưới bà vợ thứ ba một năm trước khi bị cái chết trong trận dịch tả
xảy ra ở Kabul năm 1915 cướp đi. Cuối cùng thì cụ bà cũng sinh cho cụ một người
con trai mà hai bà vợ trước không có được. Đó là mảnh đất mà ông nội tôi đã
tham gia vào một chuyến đi săn cùng với quốc vương Nadir Shah và bắn được con
nai. Mẹ tôi đã chết trên mảnh đất ấy. Và trên mảnh đất ấy tôi đã giành giật để
có được tình yêu của cha tôi.
Tôi ngồi dựa lưng vào bức tường đất sét của
ngôi nhà. Mối tình máu mủ tôi bất chợt cảm thấy đối với mảnh đất cũ này làm tôi
ngạc nhiên. Tôi ra đi đã khá lâu, đủ để quên và bị lãng quên. Tôi đã có một mái
ấm trên một mảnh đất có lẽ cũng như một dải thiên hà khác đối với những người
đang ngủ bên kia bức tường tôi đang dựa đây. Tôi nghĩ tôi đã quên mảnh đất này.
Nhưng tôi đã không quên. Và, dưới ánh trăng sáng trắng như xương của vầng trăng
khuyết nửa, tôi cảm thấy Afghanistan đang ngân nga dưới chân tôi.
Có thể Afghanistan đã không hề quên tôi.Tôi
nhìn về phía Tây và ngạc nhiên thấy, đâu đó bên kia những dãy núi, Kabul vẫn tồn
tại. Nó thực sự vẫn tồn tại, không chỉ là một ký ức xưa cũ, hoặc như đầu đề của
một truyện của hãng A.P [A.P: Viết tắt American Press - Hãng thông tấn Mỹ]
trên trang 15 của tờ Biên niên ký San Francisco.
Đâu đó bên kia những dãy núi ấy, về phía
Tây, yên ngủ thành phố, nơi đứa em môi hẻ của tôi và tôi từng đua diều. Đâu đó
bên ấy, người đàn ông bị bịt mắt trong giấc mơ của tôi đã chết một cái chết
không cần thiết. Một lần, bên kia những dãy núi đó, tôi đã từng lựa chọn. Và giờ
đây, một phần tư thế kỷ sau, sự lựa chọn đó lại đặt tôi trở lại đúng trên mảnh
đất này.
Tôi đang định trở vào thì nghe thấy những
tiếng nói từ trong nhà. Tôi nhận ra một trong những giọng nói ấy là của Wahid.
-... Chẳng còn gì cho lũ trẻ.
- Chúng ta đói nhưng chúng ta không phải là
những kẻ dã man! Ông ấy là khách! Tôi nên làm gì nào? - Anh ta nói bằng một giọng
căng thẳng.
-... ngày mai tìm cái gì đó. - Người đàn bà
nói, gần như rơi nước mắt. - Em biết cho con ăn cái gì...
Tôi kiễng chân rón rén lảng ra xa. Lúc này
tôi mới hiểu tại sao lũ trẻ không tỏ ra quan tâm tới chiếc đồng hồ của tôi chút
nào. Chúng chẳng hề chăm chú nhìn vào chiếc đồng hồ. Chúng chỉ chăm chú nhìn
vào thức ăn của tôi.
Chúng tôi chào tạm biệt nhau vào sáng sớm
hôm sau. Trước khi trèo lên chiếc Land Cruiser, tôi cảm ơn Wahid về lòng hiếu
khách của anh. Anh chỉ vào ngôi nhà nhỏ bé phía sau mình và nói:
- Đây là nhà của ông.
Ba đứa trẻ đứng ở bậc cửa quan sát chúng
tôi. Đứa bé nhất đang đeo chiếc đồng hồ, nó lủng lẳng quanh cổ tay bé tẹo của
thằng bé.
Tôi liếc nhìn vào chiếc gương chiếu hậu khi
xe chạy. Wahid đứng quây quần cùng mấy đứa con trai trong đám bụi xe cuốn tung
lên. Tôi chợt nghĩ, ở một thế giới khác, những đứa trẻ đó sẽ không quá đói đến
nỗi không đủ sức đuổi theo chiếc xe.
Sáng sớm hôm đó, khi tin chắc không có ai
nhìn, tôi đã làm một việc hai mươi sáu năm trước đây tôi từng làm: nhét một nắm
tiền nhàu nát dưới cái đệm.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét