Ngàn Mặt Trời Rực Rỡ
Tác giả: Khaled Hossenini
Người dịch: Nguyễn Thị Hương Thảo
Nhà xuất bản Văn học - Hà Nội 2010
41
Mariam
Mùa hè năm 2000, hạn hán tiếp tục kéo dài
sang năm thứ ba và là năm tồi tệ nhất.
Ở Helmand, Zabol, Kandahar, dân từ các làng
mạc lập thành các cộng đồng di cư, nay đây mai đó, họ luôn dịch chuyển để tìm
kiếm những nơi có nước và các đồng cỏ xanh để chăn thả vật nuôi. Khi không tìm
thấy được gì, khi dê, cừu và bò của họ đã chết, họ tới Kabul. Họ tới sườn đồi
Kareh-Ariana, sống trong các khu ổ chuột tạm bợ, chen chúc trong các túp lều, mỗi
lều từ mười lăm đến hai mươi người.
Đó cũng là mùa hè của phim Titanic, mùa hè
mà Mariam và Aziza luôn quấn quýt bên nhau, vật nhau và cười khúc khích, Aziza
khăng khăng nhận mình là Jack.
- Yên lặng nào, Aziza.
- Hãy gọi con là Jack, Khala Mariam. Gọi đi. Jack!
- Bố con sẽ nổi giận nếu con làm ông ấy tỉnh
giấc.
- Jack! Còn bác là Rose.
Cuối cùng Mariam nằm ngửa, đầu hàng, lại đồng
ý làm Rose.
- Được rồi, con là Jack, - bà dịu giọng
hơn. - Con chết trẻ, và ta sẽ sống đến già lụ khụ.
- Đúng vậy, nhưng anh chết như một anh
hùng, - Aziza nói, - trong khi đó, em, Rose ạ, em phải sống cả đời đau khổ nhớ
thương anh. - Rồi nó đứng giạng chân qua ngực Mariam và tuyên bố, - Bây giờ thì
chúng mình phải hôn nhau!
Mariam lắc đầu, còn Aziza thì rất phấn
khích với hành động nổi loạn của mình, cười khúc khích một cách vui sướng.
Thỉnh thoảng Zalmai cũng tới xem trò chơi
này. Nó hỏi xem nó có thể trở thành nhân vật gì.
- Em có thể là tảng băng, - Aziza trả lời.
Mùa hè năm ấy, cơn sốt phim Titanic lan rộng
ở Kabul. Người ta lén lút mang những bản phim lậu từ Pakistan sang - đôi khi
còn giấu trong đồ lót. Khi thời gian giới nghiêm đến, mọi người khóa cửa, tắt
đèn, vặn nhỏ âm lượng và bắt đầu khóc thương cho Jack, Rose và những hành khách
gặp nạn trên con tàu chìm đó. Nếu có điện, Mariam, Laila và lũ trẻ cũng xem. Rất
nhiều lần, vào đêm khuya, họ đào cái ti vi từ phía sau nhà dụng cụ lên, tắt đèn
đi và lấy chăn che lên các cửa sổ.
Trên sông Kabul, những người bán hàng rong
đã chuyển xuống dựng hàng quán ở lòng sông nứt nẻ. Chẳng bao lâu, cứ đến đó là
người ta có thể mua được những tấm thảm Titanic và quần áo Titanic trên những
chiếc xe đẩy hàng nhỏ. Có cả chất khử mùi Titanic, kem đánh răng Titanic, nước
hoa Titanic, pakorah* Titanic, thậm
chí cả những chiếc burqa Titanic. Một
người ăn xin đặc biệt cứ khăng khăng tự gọi mình là “Hành khất Titanic”.
“Thành phố Titanic” ra đời.
Đấy
là bài hát, họ nói.
Không,
là biển cả. Là sự sang trọng. Là con tàu.
Đó là
tình yêu, họ thì thầm.
Leo, Aziza bẽn lẽn nói. Tất cả là
về Leo.
- Mọi người đều muốn Jack, - Laila nói với
Mariam. - Đó là sự thật. Mọi người muốn Jack cứu họ khỏi thảm họa. Nhưng không
thấy Jack đâu cả. Jack không quay lại. Jack đã chết.
Rồi hè năm ấy, một thương nhân buôn vải đã
ngủ quên không dập thuốc lá. Ông ta thoát khỏi đám cháy, nhưng cửa hàng của ông
ta thì không. Ngọn lửa còn thiêu rụi cửa hàng vải bên cạnh, một cửa hàng quần
áo cũ, một cửa hàng nội thất nhỏ và một tiệm bánh.
Sau đó, họ nói với Rasheed rằng nếu cơn gió
thổi hướng Đông thay vì hướng Tây thì cửa hàng của ông ta ở góc đường có thể đã
bình an vô sự.
Họ đã bán mọi thứ.
Đầu tiên là đồ đạc của Mariam, rồi sau đó
là của Laila. Quần áo con nít của Aziza, một vài thứ đồ chơi mà Laila đã đòi
Rasheed phải mua cho con bé. Aziza quan sát quá trình đó với cái nhìn thờ ơ. Đồng
hồ của Rasheed cũng đã bị bán, rồi chiếc đài bán dẫn cũ, đôi cà vạt, giày và nhẫn
cưới của ông ta cũng vậy. Giường, bàn, thảm và những chiếc ghế cũng đã bị bán.
Zalmai lên cơn giận dỗi khi Rasheed bán luôn cái ti vi.
Sau đám cháy, Rasheed ở nhà hầu như cả
ngày. Ông ta tát Aziza. Ông ta đánh Mariam. Ông ta ném hết các thứ đi. Ông ta
moi móc các lỗi của Laila, từ mùi cơ thể cô, từ cách cô ăn mặc, cách cô chải
tóc và cả những chiếc răng xỉn vàng của cô nữa.
- Chuyện gì xảy ra với cô vậy? - ông ta
nói. - Tôi đã cưới một pari* [Công chúa],
và bây giờ tôi đang phải chịu đựng một mụ phù thủy. Cô đang dần biến thành
Mariam.
Rasheed bị đuổi việc khỏi quán thịt nướng gần
quảng trường Haji Yaghoub vì ẩu đả với một khách hàng. Vị khách này phàn nàn rằng
Rasheed đã quẳng cái bánh mì lên bàn ông ta một cách thô lỗ. Những lời khó nghe
được thốt ra. Rasheed gọi vị khách hàng là đồ Uzbek mặt khỉ. Một khẩu súng được
rút ra. Một cái xiên thịt cũng được chĩa ra để đáp lại. Theo tường thuật lại của
Rasheed thì ông ta đã cầm cái xiên thịt. Mariam nghi ngờ điều đó.
Rasheed lại bị đuổi việc khỏi một cửa hàng
khác ở Taimani vì khách hàng than vãn về việc phải chờ lâu, Rasheed biện minh rằng
đó là do đầu bếp nhà hàng chậm chạp và lười biếng.
- Có lẽ ông đã ra đằng sau ngủ cũng nên, -
Laila nói.
- Đừng có khiêu khích ông ấy, Laila thân mến,
- Mariam nói.
- Tôi cảnh cáo cô, đồ đàn bà, - ông ta nói.
- Hoặc thế hoặc ông trốn đi hút thuốc.
- Tôi thề có Thượng đế.
- Ông thì mãi mãi cũng chẳng khác đi được.
Vậy là ông ta lao vào Laila, đấm túi bụi
vào ngực, vào đầu, vào bụng cô, giật tóc cô, quăng cô vào tường. Aziza la hét
inh ỏi, kéo áo ông ta; Zalmai cũng gào thét, cố gắng kéo ông ta ra khỏi mẹ nó.
Rasheed xô bọn trẻ sang một bên, đẩy Laila ngã xuống đất và bắt đầu đá cô.
Mariam lao mình lên người Laila. Ông ta vẫn tiếp tục đá, bây giờ là đá Mariam,
nước dãi bắn ra khỏi miệng, mắt hừng hực sát khí, và ông ta đá cho đến khi
không còn đủ sức nữa.
- Tao thề là mày sẽ khiến tao phải giết
mày, Laila ạ, - ông ta vừa nói vừa thở hổn hển. Sau đó ông ta lao ra khỏi nhà.
Khi tiền đã hết, cơn đói bắt đầu phủ tấm vải
liệm lên cuộc đời của họ. Chính Mariam cũng cảm thấy sửng sốt khi xoa dịu cơn
đói lại nhanh chóng trở thành vấn đề sống còn của họ đến như vậy.
Cơm trắng, không có thịt hay nước xốt, bây
giờ cũng khó kiếm. Họ bỏ bữa một cách thường xuyên hơn và đến mức đáng báo động.
Thỉnh thoảng Rasheed mang về nhà một ít cá mòi hộp và bánh mì khô có vị giống
như mùn cưa. Đôi khi, ông ta ăn trộm cả những túi táo, bất chấp việc đó có thể
khiến ông ta bị cưa tay. Ông ta cẩn thận móc trộm hộp bánh bao ở cửa hàng tạp
hóa, đem về nhà và chia thành năm phần, Zalmai được phần nhiều nhất. Họ ăn củ cải
sống rắc muối. Bữa tối có lá rau diếp héo úa và những quả chuối thâm.
Chết đói bỗng nhiên trở thành một nguy cơ
hiển hiện. Một vài người đã chọn cách không đợi chờ nó. Mariam nghe nói một góa
phụ ở gần nhà đã nghiền bánh mì khô, trộn thêm thuốc chuột và cho cả bảy đứa
con bà ta ăn. Bà để dành phần nhiều nhất cho mình.
Xương sườn của Aziza bắt đầu trơ ra, hai má
của con bé tóp lại. Bắp chân nó gầy rộc, da chuyển sang màu lá chè héo. Khi
Mariam nhấc nó lên, bà có thể cảm nhận được xương hông của nó chọc qua làn da mỏng
manh. Zalmai nằm vạ vật khắp nhà, mắt lờ đờ, lim dim, hoặc có khi nó nằm trong
lòng bố, ủ rũ như một miếng giẻ rách. Nó cố ru mình vào giấc ngủ để lấy lại sức
lực nhưng giấc ngủ của nó cứ chập chờn và rời rạc. Những đốm trắng cứ nhảy nhót
trước mắt mỗi khi Mariam thức dậy. Đầu bà quay cuồng, tai lúc nào cũng ong ong.
Bà nhớ điều mà Giáo sĩ Faizullah từng nói về cơn đói khi tháng Ramadan bắt đầu:
Thậm chí một người bị rắn cắn cũng có thể
ngủ được, nhưng người đói thì không.
- Các con của em sẽ chết, - Laila nói. - Ngay
trước mắt em.
- Không đâu, - Mariam đáp. - Chị sẽ không để
chúng chết. Mọi việc rồi cũng sẽ ổn thôi, Laila ạ. Chị biết mình phải làm gì.
Vào một ngày nóng như thiêu như đốt, Mariam
mặc burqa vào và cùng Rasheed cuốc bộ
tới khách sạn Intercontinental. Xe bus với họ giờ đây là một thứ quá xa xỉ và
Mariam mệt nhoài khi họ lên tới đỉnh của sườn đồi dốc đứng. Lúc trèo lên sườn đồi,
cô đột nhiên hoa mắt chóng mặt và hai lần cô phải dừng lại nghỉ, đợi cho nó qua
đi.
Tại cửa khách sạn, Rasheed chào và ôm một
trong mấy người giữ cửa, người mặc bộ quần áo màu vang đỏ và đội mũ lưỡi trai.
Cuộc nói chuyện giữa họ có vẻ rất thân thiết. Rasheed nói, một tay đặt lên khuỷu
tay của người giữ cửa. Ông ta hất đầu về phía Mariam và cả hai người liếc nhanh
sang bà. Mariam thấy người giữ cửa có vẻ gì đó quen quen.
Khi ông ta đi vào trong, Mariam và Rasheed
đợi bên ngoài. Từ vị trí thuận lợi này, Mariam có thể nhìn thấy Viện Kỹ thuật,
xa hơn nữa là quận Khair Khana và con đường dẫn tới Mazar. Về phía Nam, cô có
thể thấy nhà máy sản xuất bánh mì Silo từ lâu đã bị bỏ hoang, một màu vàng nhợt
nhạt lỗ chỗ cùng với các lỗ thủng toác ra, hậu quả của những đợt nã pháo mà nơi
đây phải gánh chịu. Xa hơn nữa về phía Nam, bà có thể nhìn thấy những phế tích
của cung điện Darulaman, nơi mà nhiều năm trước Rasheed đã đưa bà đi dã ngoại.
Ký ức về ngày ấy chỉ như là một di vật từ quá khứ, một di vật dường như không
còn thuộc về bà nữa.
Mariam tập trung vào những thứ này, những địa
điểm này. Bà sợ rằng mình có thể mất tinh thần nếu cứ để tâm trí đi lang thang.
Cứ vài phút lại có những chiếc xe jeep và
xe taxi đến cửa khách sạn. Những người giữ cửa vội vàng chạy ra đón khách, tất
cả đều là những người đàn ông có vũ trang, để râu, đội khăn xếp, người nào người
nấy bước ra với một tác phong quả quyết như nhau, một không khí nặng nề bao phủ.
Mariam nghe được một vài đoạn tán gẫu của họ khi họ đi ngang qua cửa khách sạn.
Bà nghe thấy không chỉ tiếng Pashto và Farsi mà cả tiếng Urdu và Ả rập nữa.
- Hãy gặp những người chủ thực thụ của chúng ta, - Rasheed nói nhỏ.
- Những người Hồi giáo Pakistan và Ả rập. Quân Taliban là những con rối. Những người này mới là người chơi chính
và Afghanistan là sân chơi của họ.
Rasheed nói ông ta nghe đồn rằng quân
Taliban cho phép những người này lập các trại bí mật trên khắp đất nước, ở đó,
thanh niên được huấn luyện để trở thành những người đánh bom cảm tử và các chiến
binh tử vì đạo.
- Anh ta làm gì mà lâu vậy? - Mariam hồi.
Rasheed khạc nhổ một bãi nước bọt xuống đất.
Một giờ sau, Mariam và Rasheed đã vào bên
trong khách sạn và đi theo người giữ cửa. Gót giày của họ nện lách cách xuống
sàn lát đá hoa khi họ được dẫn qua hành lang mát lạnh. Mariam thấy hai người
đàn ông cầm súng ngồi trên ghế da, giữa họ là một cái bàn uống cà phê, họ nhấp
trà đen và ăn món jelabi rưới xi rô,
những chiếc bánh tròn được rắc bột đường. Bà chợt nghĩ về Aziza, con bé rất
thích ăn jelabi, và bà hướng cái nhìn
của mình đi nơi khác.
Người gác cửa dẫn họ ra ngoài một ban công.
Anh ta rút từ túi ra một chiếc điện thoại nhỏ không dây màu đen và một mảnh giấy
nhỏ với một dãy số nguệch ngoạc trên đó. Anh ta bảo Rasheed đó là điện thoại của
người quản lý của anh ta.
- Tôi cho anh năm phút, - anh ta nói. -
Không hơn.
- Tashakor,
- Rasheed nói. - Tôi sẽ không quên ơn anh.
Người đàn ông gật đầu và bước đi. Rasheed
quay số và đưa điện thoại cho Mariam.
Khi Mariam nghe tiếng chuông điện thoại kêu
lạo xạo, tâm trí bà lại trôi vơ vẩn. Nó trôi về lần cuối bà gặp Jalil, mười ba
năm trước, mùa xuân năm 1987. Ông đứng trên con đường ngoài nhà bà, chống gậy
ba toong, bên cạnh chiếc xe Benz màu xanh với biển đăng ký Herat và có một đường
sọc trắng chia đôi mái, mui và thân xe. Ông đứng đấy đợi bà hằng giờ, thỉnh thoảng
gọi tên bà, giống như bà đã từng gọi tên ông từ bên ngoài nhà ông. Mariam mở hé
hé rèm ra, chỉ một chút, và thoáng nhìn thấy ông. Chỉ là một cái nhìn lướt qua
thôi nhưng cũng đủ để bà có thể thấy tóc ông đã hơi ngả bạc và lưng ông đã bắt
đầu còng xuống. Ông đeo kính, đeo cà vạt đỏ như thường lệ, và vẫn có một chiếc
khăn tay trắng gấp hình tam giác ở trên túi ngực. Điều khiến bà bị ấn tượng nhất
là ông gầy hơn, gầy hơn rất nhiều so với những gì bà nhớ, chiếc áo khoác màu
nâu đậm rũ qua vai, chiếc quần dài tới mắt cá chân.
Jalil cũng đã thấy bà, dù chỉ là thoáng
qua. Ánh mắt của họ đã chạm nhau trong một khoảnh khắc ngắn ngủi qua một kẽ hở
nhỏ của tấm rèm, cũng giống như lần họ thấy nhau nhiều năm trước qua khe hở của
một tấm rèm khác. Nhưng sau đó Mariam đóng ngay cửa sổ lại. Bà ngồi lên giường,
đợi ông bỏ đi.
Bây giờ bà lại nghĩ về bức thư mà Jalil đã
để lại tại cửa nhà bà. Bà đã giữ nó dưới gối trong nhiều ngày, thi thoảng cầm
nó lên, lật qua mặt này mặt kia, rồi cuối cùng xé nó đi mà không mở ra đọc.
Và bây giờ bà ở đây, sau chừng ấy năm, đang
gọi cho ông.
Giờ đây Mariam nuối tiếc về sự kiêu hãnh bồng
bột và ngu ngốc của mình. Bây giờ bà ước rằng bà đã để cho ông vào. Có hại gì
đâu nếu bà cho ông vào, ngồi với ông, để cho ông nói những điều ông đến để nói?
Ông là bố bà. Ông đã không phải là người bố tốt, điều đó đúng, nhưng giờ đây lỗi
lầm của ông mới bình thường làm sao, mới đáng để tha thứ làm sao khi so sánh với
sự độc ác của Rasheed, hay tính hung ác và tàn bạo mà bà thấy những người đàn
ông đã đối xử với nhau.
Bà ước gì mình đã không xé bức thư của ông.
Một giọng đàn ông trầm trầm thông báo với
bà rằng bà đang gọi tới văn phòng của thị trưởng Herat.
Mariam hắng giọng.
- Salaam* [Xin
chào], người anh em, tôi đang tìm một người sống ở Herat. Hoặc ông ấy
đã sống ở đó nhiều năm trước. Ông ấy tên là Jalil Khan. Ông ấy sống ở
Shar-e-Nau và sở hữu một rạp chiếu phim. Ông có thông tin gì về nơi ở của ông ấy
không?
Có thể nghe thấy sự khó chịu trong giọng
nói của người đàn ông.
- Đây là lý do bà gọi điện đến văn phòng thị
trưởng sao?
Mariam nói bà không biết phải gọi điện cho
ai nữa.
- Hãy tha lỗi cho tôi, người anh em. Tôi biết
ông có rất nhiều việc quan trọng phải quan tâm tới nhưng đây là vấn đề sống còn
nên tôi mới gọi điện cho ông.
- Tôi không biết ông ta là ai. Rạp chiếu
bóng đó cũng đóng cửa nhiều năm rồi.
- Liệu có ai đó có thể biết ông ấy không,
ai đó...
- Không có ai cả.
Mariam nhắm mắt lại.
- Làm ơn, người anh em. Có cả những đứa trẻ
liên quan tới vấn đề này. Những đứa trẻ còn rất nhỏ.
Có tiếng thở dài thườn thượt.
- Có thể có ai đó ở đó...
- Có một người gác cổng ở đây. Tôi nghĩ ông
ta đã ở đây từ khi còn bé.
- Dạ vâng, làm ơn hãy hỏi ông ta.
- Ngày mai hãy gọi lại.
Mariam nói bà không thể.
- Tôi chỉ được dùng chiếc điện thoại này
trong vòng năm phút thôi. Tôi không...
Có một tiếng cạch ở đầu dây bên kia và
Mariam nghĩ ông ta đã gác máy. Nhưng bà có thể nghe rõ tiếng bước chân, những
giọng nói, tiếng còi ô tô từ xa và những tiếng máy kêu rền bị ngắt quãng bởi những
tiếng lách cách, có thể là một cái quạt điện. Bà chuyển ống nghe sang tai kia
và nhắm mắt lại.
Bà hình dung ra hình ảnh Jalil mỉm cười,
thò tay vào trong túi áo.
Ah. Tất
nhiên rồi. Đây. Của con đây. Không giả bộ nữa...
Một mặt dây chuyền hình chiếc lá, những đồng
tiền xu nhỏ xíu được khắc hình mặt trăng và các ngôi sao trên đó.
Đeo
thử đi, Mariam thân yêu của bố.
Bố thấy
thế nào?
Bố
nghĩ con trông giống như một nữ hoàng.
Một vài phút trôi qua. Sau đó có tiếng bước
chân, một âm thanh cót két và sau đó là một tiếng cạch.
- Ông ta biết ông ấy đấy.
- Ông ta biết ư?
- Ông ta nói vậy.
- Ông ta ở đâu? - Mariam nói. - Người đàn
ông đó biết Jalil Khan ở đâu sao?
Một khoảng lặng.
- Ông ta nói ông ấy đã chết nhiều năm trước,
năm 1987.
Mariam lặng người. Tất nhiên bà đã nghĩ đến
khả năng này. Jalil có lẽ bây giờ đã ngoài bảy mươi tuổi rồi, nhưng...
1987.
Hồi đó ông đã cận kề với cái chết. Ông đã
lái xe cả chặng đường từ Herat để tới nói lời từ biệt.
Bà ra đứng sát thành ban công. Từ trên này
bà có thể thấy cái bể bơi của khách sạn đã từng nổi tiếng một thời, bây giờ khô
cạn và bẩn thiu, chỉ còn rải rác những hố đạn và những phiến đá vỡ nát. Còn có
một cái sân tennis méo mó, tấm lưới rách tả tơi nằm vắt giữa sân trông giống
như lớp da chết của một con rắn vừa lột xác.
- Bây giờ tôi phải đi đây, - giọng nói bên
đầu dây kia vang lên.
- Tôi xin lỗi đã làm phiền ông, - Mariam
nói, bà khóc không thành tiếng trong điện thoại. Bà thấy Jalil đang vẫy bà, ông
nhảy từ hòn đá này sang hòn đá khác khi băng qua suối, túi ông căng phồng những
quà. Lần nào cũng vậy, bà luôn nín thở chờ đợi ông và cầu xin Thượng đế cho bà
nhiều thời gian được ở bên ông hơn. - Cám ơn, - Mariam cất tiếng nói, nhưng người
đàn ông bên đầu dây kia đã gác máy.
Rasheed đang nhìn bà. Mariam lắc đầu.
- Thật mất công vô ích, - ông ta nói và giật
mạnh chiếc điện thoại từ tay bà. - Cha nào con nấy.
Trên đường ra hành lang, Rasheed bước nhanh
về phía chiếc bàn cà phê giờ đã không còn ai ngồi và nhét vào túi miếng jelabi cuối cùng. Ông ta mang về nhà đưa
cho Zalmai.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét