Người Đua Diều
Tác giả: Khaled Hossenini
Người dịch: Nguyễn Bản
NXB Phụ Nữ - 09/2017
Chương 2
Khi còn là hai đứa trẻ, Hassan và tôi thường
trèo lên những cây bạch dương trên con đường xe chạy vào nhà cha tôi, và dùng một
mảnh gương chiếu ánh nắng vào nhà những người hàng xóm của chúng tôi làm họ tức
giận. Chúng tôi thường ngồi chéo nhau, trên một cặp cành cây cao, chân trần đung
đưa, túi quần đầy quả dâu tằm phơi khô và quả óc chó, thay nhau chiếu gương, vừa
ăn dâu tằm vừa ném vào nhau, khúc khích, cười vang. Tôi vẫn như còn thấy Hassan
trên cái cây đó, nắng lung linh xuyên qua kẽ lá chiếu lên khuôn mặt gần như
tròn xoe của cậu, một khuôn mặt giống như búp bê Tàu được gọt từ gỗ cứng: mũi nở
và tẹt, mắt vừa hẹp vừa xếch như lá tre, đôi mắt nếu nhìn vào, tùy theo ánh
sáng, lúc vàng, lúc xanh, lúc cả màu ngọc bích nữa. Tôi vẫn có thể thấy đôi tai
nhỏ mọc thấp, và mẩu cằm nhô ra có vẻ như đắp thêm chút thịt, như sau đó mới
thêm vào. Và chiếc môi hẻ tách ra ở chính giữa, nơi mà người làm búp bê Tàu có
thể đã để trượt đồ nghề, hoặc có lẽ lúc đó chỉ đơn giản thấm mệt thành ra bất cẩn.
Đôi khi ngồi trên những ngọn cây đó, tôi
xui Hassan lấy súng cao su bắn quả óc chó vào con chó chăn cừu giống Đức chột mắt
của ông hàng xóm. Hassan chẳng bao giờ muốn vậy, nhưng nếu tôi yêu cầu, thực sự
yêu cầu, cậu sẽ không từ chối. Hassan chẳng bao giờ từ chối tôi bất cứ điều gì.
Và cậu bắn súng cao su chính xác chết người. Cha của Hassan, ông Ali, thường bắt
gặp chúng tôi và phát điên lên, điên theo cách người hiền hậu như Ali có thể
làm được. Ông thường bật ngón tay, vẫy chúng tôi tụt xuống. Ông giật lấy mảnh
gương và bảo chúng tôi là bà nội của Hassan đã dạy ông rằng quỷ dữ cũng chiếu
những mảnh gương, chiếu để làm rối trí các tín đồ Hồi giáo trong lúc cầu nguyện.
Ông luôn quắc mắt nhìn con trai mình nói thêm “và quỷ cũng cười hô hố trong khi
làm như vậy”.
“Vâng, thưa cha”, Hassan thường lẩm bẩm, vừa
nhìn xuống dưới chân. Nhưng không bao giờ cậu đổ cho tôi. Không bao giờ nói rằng
mảnh gương cũng như việc bắn quả óc chó vào con chó của ông láng giềng luôn
luôn là trò nghịch ngợm của tôi.
Những cây bạch dương xếp thành hàng dọc con
đường xe chạy lát gạch đỏ dẫn tới đôi cổng sắt uốn. Đôi cổng kế tiếp mở vào phần
mở rộng của đường xe vào tư dinh của cha tôi. Ngôi nhà nằm phía bên trái con đường
gạch, sân sau ở cuối đường.
Mọi người đều đồng ý là cha tôi, tức Baba của
tôi, đã xây một ngôi nhà đẹp nhất quận Wazir Akar Khan, vùng phụ cận mới và
giàu có ở phần Bắc Kabul. Vài người còn nghĩ đó là ngôi nhà xinh đẹp nhất trong
toàn bộ Kabul. Một lối vào rộng, hai bên là những khóm hồng dẫn tới một tòa nhà
trải dài với sàn nhà bằng đá cẩm thạch và những cửa sổ rộng. Những viên gạch khảm
khắc cầu kỳ, mà Baba tự tay lựa chọn ở Isfahan, được lát cho sàn của bốn phòng
tắm. Những tấm thảm thêu sợi vàng, Baba mua ở Calcutta, chăng dọc các bức tường.
Một chùm đèn phalê treo dưới vòm trần.
Trên gác là phòng ngủ của tôi, phòng ngủ của
Baba, phòng đọc của ông, còn được coi như “phòng hút”, nơi không ngừng tỏa ra
mùi thuốc lá và mùi quế. Baba và bạn ông ngả người trên chiếc ghế đệm da màu
đen ở đó, sau khi Ali đã phục vụ cơm tối. Họ nhồi tẩu thuốc - riêng Baba luôn gọi
đó là “vỗ béo tẩu thuốc” - và tranh luận về ba đề tài ưa thích: chính trị, kinh
doanh và bóng đá. Đôi khi tôi hỏi Baba liệu tôi có thề ngồi cùng họ được không,
nhưng Baba thường đứng chặn trước cửa và nói: “Làm việc của con đi, nhanh lên
nào. Giờ là lúc người lớn nói chuyện. Sao con không đọc một cuốn sách nào đó của
con?”. Ông thường đóng cửa lại, để mặc tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao ông cứ
“lúc người lớn nói chuyện” mãi thế. Tôi thường ôm đầu gối ngồi ngay bên cửa.
Đôi khi tôi ngồi đó một tiếng đồng hồ, có khi hai tiếng, lắng nghe họ cười, họ
chuyện gẫu với nhau.
Phòng khách ở tầng dưới có một bức tường
cong với những chiếc tủ đóng theo phong cách truyền thống. Trong phòng treo
nhưng bức hình gia đình. Một tấm ảnh giấy lụa cũ của ông nội tôi và quốc vương
Nadir Shah chụp năm 1931, hai năm trước khi quốc vương bị ám sát. Hai người
đang đứng bên ngắm một con nai chết, chân đi ủng cao tận đầu gối, súng khoác
qua vai. Kia là một bức hình đêm cưới cha mẹ tôi, Baba sang trọng trong bộ lễ
phục đen và mẹ tôi váy trắng với nụ cười của một nữ quận chúa trẻ. Đây là Baba
và người bạn quý nhất, bạn kinh doanh của ông, chú Rahim Khan, đứng trước nhà của
chúng tôi, chẳng ai mỉm cười. Tôi là đứa bé trong bức ảnh, Baba đang bế tôi,
trông có vẻ mệt mỏi và nghiêm khắc. Tôi ở trong tay ông, nhưng những ngón tay
tôi cong lên ngoắc lấy ngón út của chú Rahim Khan.
Bức tường cong dẫn vào phòng ăn, giữa phòng
là một chiếc bàn bằng gỗ gụ có thể phục vụ thoải mái ba mươi thực khách - và hợp
với sở thích của cha tôi, những bữa tiệc cực kỳ tốn kém hầu như tuần nào cũng
có. Ở đầu kia của phòng ăn là một lò sưởi cao lớn bằng đá cẩm thạch, luôn luôn
cháy sáng ngọn lửa màu da cam trong suốt mùa đông.
Một cửa kính trượt rộng lớn mở ra cái hiên
bán nguyệt bao quát non một hécta đất phía sau và những hàng cây anh đào. Baba
và Ali đã trồng một vườn rau nhỏ dọc theo dãy tường phía Đông, gồm cà chua,
húng bạc hà, ớt và cả một hàng ngô chẳng bao giờ thu hoạch mà Hassan và tôi
quen gọi là “bức tường Ngô ốm”.
Đầu phía Nam của khu vườn, dưới bóng cây
sơn trà là nhà của những người giúp việc, một túp lều nhỏ tường đất khiêm tốn,
nơi Hassan sống cùng với bố mình.
Chính ở đó, trong túp lều nhỏ ấy, Hassan được
sinh ra vào mùa đông năm 1964, đúng một năm sau khi mẹ tôi mất lúc sinh tôi.
Mười tám năm sống trong ngôi nhà này, tôi
chỉ bước vào lãnh địa của Hassan và Ali một vài lần. Khi mặt trời xuống thấp
sau những dãy đồi và chúng tôi đã chơi đùa hết cả ngày, Hassan và tôi ai về đường
nấy. Tôi đi qua những khóm hoa hồng về tòa lầu của Baba, Hassan về túp lều đất
nơi cậu đã được sinh ra, nơi cậu sống đời mình. Tôi vẫn còn nhớ nơi đó vắng vẻ,
sạch sẽ và leo lét sáng nhờ hai cây đèn dầu. Có hai tấm đệm ở hai phía đối diện
căn lều, ở giữa là một tấm thảm Herati nhỏ đã cũ, xung quanh mòn xơ, một chiếc
ghế đẩu ba chân và chiếc bàn gỗ ở góc nhà để Hassan vẽ tranh. Tường xung quanh
trần trụi, ngoại trừ một tấm thảm duy nhất đính các hạt cườm thành mấy từ
Allah-u-akbar [Đức Allah vĩ đại], Baba đã mua nó cho ông Ali trong một chuyến
đi Mashad.
Chính trong túp lều đó mà mẹ của Hassan, bà
Sanaubar đã sinh ra cậu vào một ngày đông giá năm 1964. Trong khi mẹ tôi băng
huyết chết khi sinh tôi, Hassan lại mất mẹ lúc sinh ra chưa được một tuần. Mất
mẹ, thì hầu hết người Afghan đều coi là còn tệ hại hơn mẹ chết nhiều: Bà ấy bỏ
đi theo một bộ tộc vũ công và du ca.
Hassan chẳng bao giờ nói về mẹ, như thể bà ấy
chưa bao giờ tồn tại. Tôi luôn luôn thắc mắc không hiểu liệu cậu có mơ thấy mẹ
mình không, bà ấy trông như thế nào và đang ở đâu. Tôi không hiểu liệu cậu có
mong gặp mẹ không. Cậu có đau khổ về mẹ như tôi đau khổ vì không bao giờ được gặp
mẹ? Một hôm, chúng tôi đang cuốc bộ từ ngôi nhà của cha tôi đến rạp chiếu phim
Zainab để xem bộ phim mới của Iran. Chúng tôi đã đi tắt qua trại lính gần trường
trung học Istiqlal - Baba đã cấm chúng tôi đi lối tắt ấy, nhưng lúc này ông
cùng chú Rahim Khan đang ở Pakistan. Chúng tôi nhảy qua hàng rào vây quanh
doanh trại, băng qua khe nước nhỏ và đột nhập vào một bãi đất trống bẩn thỉu có
những chiếc xe tăng cổ lỗ bỏ hoang phủ đầy bụi. Đám lính tụ tập dưới bóng một
chiếc xe tăng vừa hút thuốc lá vừa đánh bài. Một gã trông thấy chúng tôi, huých
khuỷu tay vào gã ngồi bên, gọi Hassan.
- Ê thằng nhỏ, - hắn nói. - Tao biết mày đấy.
Trước đó, chúng tôi đã bao giờ gặp hắn đâu.
Hắn là một gã đàn ông to bè, thấp béo, đầu cạo trọc, râu đen lởm chởm trên mặt.
Cái cách hắn nhăn nhở cười với chúng tôi, liếc nhìn dâm dật khiến tôi hoảng sợ.
“Kệ, cứ đi,” tôi lúng búng bảo Hassan.
- Mày! Thằng Hazara! [Hazara: một tộc người
Afghan bị người Pashtun kỳ thị]. Hãy nhìn tao khi tao nói với mày, - tên lính sủa.
Hắn đưa điếu thuốc đang hút cho thằng ngồi
bên, một tay ngoắc ngón cái vào ngón trỏ thành một vòng tròn. Ngón giữa tay bên
kia thọc vào vòng tròn đó. Thọc vào thọc ra. Thọc vào, thọc ra, - tao biết mẹ
mày đấy, mày có hiểu không? Tao biết mẹ mày hàng thật. Tao chơi mẹ mày từ phía
sau, bên khe nước, chỗ kia kìa.
Bọn lính cười rộ. Một tên trong bọn kêu ré
lên. Tôi bảo Hassan cứ đi, kệ cứ đi.
- Cái lều [Cunt: một từ rất tục chỉ bộ phận
sinh dục nữ, tạm dịch là cái lều] xinh xinh nhỏ xíu của mẹ mày mới mùi mẫn làm
sao! - Tên lính vừa nói vừa nhăn nhở cười, bắt tay những tên khác.
Lát sau, trong bóng tối, sau khi bộ phim bắt
đầu chiếu, tôi nghe tiếng Hassan ngồi bên tôi đang sụt sịt. Nước mắt chảy ròng
ròng trên đôi má. Tôi ngồi xích lại, dang cánh tay ôm lấy người cậu, kéo cậu
sát vào tôi. Cậu ngả đầu lên vai tôi. “Hắn nhầm cậu với ai đấy”, tôi thì thào.
“Hắn nhầm cậu với ai mà!”
Tôi nghe nói chẳng một ai thực sự ngạc
nhiên khi Sanaubar bỏ nhà đi. Mọi người đều phải nhướn mày khi Ali, một người
đàn ông làu làu kinh Koran, cưới Sanaubar, người đàn bà mười chín, trông trẻ
hơn tuổi, một người đàn bà đẹp nhưng tai tiếng, buông thả, sống bất chấp những
điều ô nhục. Cũng giống như Ali, bà ta là một tín đồ Hồi giáo Shi’a và thuộc chủng
tộc Hazara. Bà cũng là em họ, con cô con cậu của ông và điều đó dẫn đến sự chọn
lựa tự nhiên cho hôn phối. Nhưng ngoài sự tương đồng ấy, Ali và Sanaubar hầu
như chẳng có điểm giống nhau nào, ít nhất là mọi vẻ bề ngoài tương ứng. Trong
khi đôi mắt Sanaubar long lanh xanh biếc, bộ mặt ranh ma, nghe đồn đã dụ dỗ
không biết bao nhiêu đàn ông rơi vào tội lỗi, thì Ali lại bị liệt bẩm sinh cơ mặt
dưới, nguyên nhân khiến ông không thể mỉm cười, khiến ông mãi mãi có bộ mặt
nghiêm khắc. Nếu thấy được bộ mặt như đá tạc của Ali sung sướng hoặc buồn rầu
thì đó là một điều kỳ lạ, bởi vì chỉ có đôi mắt xếch màu nâu của ông lóe lên
thay cho nụ cười và tuôn ra nỗi sầu. Người ta bảo đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn.
Chẳng bao giờ có trường hợp nào đúng hơn thế với Ali, con người chỉ có thể thổ
lộ tâm can mình qua đôi mắt.
Tôi nghe đồn rằng những bước đi khêu gợi và
cái hông đung đưa của Sanaubar đã khiến bao người đàn ông phải mơ đến cảnh phản
bội vợ con. Nhưng bệnh viêm tủy xám gây bại liệt đã để lại cho Ali chân phải vặn
vẹo, teo cơ, lớp da vàng sạm bên dưới chỉ là một lớp cơ mỏng bọc xương. Tôi nhớ
một hôm, năm tôi tám tuổi, Ali đem tôi ra phố chợ [Bazaarr: phố hoặc một khu đất
có nhiều cửa hiệu nhỏ - khu phố chợ] mua một ít bánh naan [một loại bánh mì dẹt
của Afghanistan, hơi giống bánh dẻo của ta]. Tôi bước phía sau ông, bụm miệng,
cố bắt chước bước đi của ông. Tôi quan sát ông ngoáy chiếc chân khẳng khiu theo
một vòng cung quét đất. Tôi quan sát toàn thân ông nghiêng một cách khó khăn về
bên phải mỗi lần ông đặt chân đó xuống. Mỗi bước đi như vậy mà ông không bị lật
nhào dường như đã là một điều thần kỳ nho nhỏ. Khi cố bắt chước ông, tôi suýt bị
ngã xuống rãnh nước. Khiến tôi khúc khích cười. Ali quay lại, bắt gặp tôi nhại
theo ông. Ông không nói gì. Không lúc ấy. Không bao giờ hết. Ông chỉ tiếp tục
bước đi.
Bộ mặt của Ali và bước đi của ông làm đám
trẻ nhỏ trong vùng hoảng sợ. Nhưng điều phiền nhiễu thực sự là những đứa lớn
hơn. Chúng bám theo ông trên đường phố, và nhại theo ông mỗi khi ông cà nhắc đi
qua. Có đứa còn gọi ông là Bababu hay Ngoáo ộp.
“Ê, Bababu, hôm nay ăn thịt ai rồi”. Chúng
đồng thanh sủa lên và cười phá. “Đồ Bababu Mũi Tẹt, mi ăn thịt ai rồi?”
Chúng gọi ông là “đồ mũi tẹt” bởi vì Ali và
Hassan mang đặc trưng chủng tộc Hazara gốc Mông Cổ. Đã bao năm rồi, tất cả những
gì tôi biết về người Hazara là họ là hậu duệ của người Mông Cổ thời Đế chế
Mogul và trông giống như những người Trung Hoa bé nhỏ. Sách giáo khoa trong nhà
trường chỉ nhắc đến tổ tiên họ một cách qua loa. Thế rồi một hôm, tôi ở trong
phòng đọc của Baba, xem qua những sách linh tinh của ông, tôi tìm thấy một
trong những cuốn cổ sử của mẹ tôi. Cuốn sách do một người Iran có tên là
Khorami viết. Tôi thổi bụi đi, lén đem nó về giường tôi đêm đó, và sửng sốt thấy
cả một chương về lịch sử của người Hazara. Cả một chương riêng về dân tộc của
Hassan! Trong chương ấy, tôi đọc thấy dân tộc tôi, tộc Pashtun đã ngược đãi và
hà hiếp người Hazara. Chương sách nói người Hazara đã gắng sức vùng lên chống lại
người Pashtun vào thế kỷ mười chín, nhưng người Pashtun đã “nghiền nát họ bằng
bạo lực không thể tả xiết bằng lời”. Cuốn sách nói dân chúng tôi đã giết người
Hazara, đuổi họ khỏi đất đai của họ, đốt nhà của họ, bán vợ con họ. Cuốn sách
nói, một phần lý do khiến người Pashtun áp bức người Hazara vì người Pashtun là
những tín đồ hồi giáo Sunni, trong khi đó người Hazara lại là Hồi giáo Shi’a.
Cuốn sách viết nhiều điều mà tôi không hiểu, những điều mà các thầy giáo tôi
không nói đến. Những điều mà cả Baba cũng chẳng bao giờ đề cập. Nó cũng nói một
số điều tôi đã biết, như mọi người gọi người Hazara là bọn ăn thịt chuột, mũi tẹt,
lũ lừa ưa nặng. Tôi đã từng nghe thấy mấy thằng nhãi ở vùng lân cận hét lên những
biệt hiệu ấy với Hassan.
Tuần sau đó, sau giờ học, tôi giơ cuốn sách
cho thầy giáo tôi và chỉ vào chương nói về người Hazara. Ông xem lướt qua vài
trang, cười khẩy và trả lại tôi cuốn sách. “Đó là điều duy nhất dân Shi’a làm
đúng”, ông nói tiếp, vừa thu dọn sách vở, “làm như những kẻ tuẫn đạo”. Ông nhăn
mũi khi nói từ Shi’a, như thể nó là một loại bệnh nào đó.
Nhưng mặc dầu kế thừa cùng dòng máu gia
đình và chủng tộc với ông, Sanaubar vẫn vào hùa với lũ trẻ trong vùng nhục mạ
Ali. Tôi được nghe nói bà ta chẳng cần giấu giếm gì việc bà ta khinh thị vẻ
ngoài của ông.
- Thế này mà là chồng ư? - bà ta thường cười
nhạo. - Tôi thấy lấy con lừa già làm chồng còn thích hợp hơn.
Rốt cuộc, phần lớn mọi người đều ngờ cuộc
hôn nhân này vốn là một sự dàn xếp giữa Ali và cậu mình, cha của Sanaubar. Họ
nói Ali đã cưới cô em họ để giúp phục hồi đôi chút danh dự cho tên tuổi bị ô uế
của cậu, cho dù Ali, mồ côi từ hồi năm tuổi, đâu có chút của cải vật chất hay
khoản thừa kế nào.
Ali không bao giờ trả đũa bất kỳ kẻ nào
hành hạ ông, tôi cho rằng một phần vì ông không bao giờ có thể đuổi kịp họ bằng
cái chân xoắn vặn kéo lê phía sau. Nhưng chủ yếu bởi Ali đã miễn nhiễm trước những
lời lăng nhục của đám người công kích ông. Ông đã tìm thấy niềm vui, thấy thứ
thuốc giải độc của mình, lúc Sanaubar sinh hạ Hassan. Việc đó vốn khá đơn giản.
Không có nhân viên sản khoa, không có người gây mê, không có những thiết bị kiểm
tra thích hợp. Đúng là Sanaubar chỉ nằm ngửa ra trên một tấm đệm trần bẩn thỉu,
với Ali và một bà đỡ giúp việc sinh nở. Thật ra, Sanaubar cũng chẳng cần giúp lắm,
bởi vì, ngay trong khi ra đời, Hassan đã giống hệt như bản chất của mình rồi. Cậu
không thể làm tổn thương bất kỳ ai. Cằn nhằn vài câu, đẩy mấy cái, thế là tòi
ra Hassan. Tòi ra và cười.
Theo như lời thổ lộ với đày tớ nhà một người
hàng xóm của cái bà đỡ hay buôn chuyện, người đã kể lại với bất kỳ ai muốn
nghe, thì Sanaubar liếc mắt nhìn đứa trẻ trong cánh tay Ali, thấy cái môi hở,
đã xổ ra một chuỗi cười cay đắng.
- Đó. - Sanaubar nói. - Bây giờ thì ông đã
có đứa con ngu xuẩn của chính ông để nó cười hộ cho ông rồi đó!
Bà ta đã không chịu ngay cả bế Hassan, và
đúng năm ngày sau thì bỏ đi. Baba thuê chính bà vú đã từng cho tôi bú để cho
Hassan bú. Ali kể cho chúng tôi, bà vú là một người đàn bà Hazara mắt xanh quê ở
Bamiyan, thành phố của những bức tượng Phật khổng lồ. “Bà ấy có giọng hát ru mới
ngọt ngào làm sao chứ!”. Ông thường nói với chúng tôi như thế.
- Bà ấy hát thế nào, - Hassan và tôi luôn hỏi,
dẫu hai đứa đã biết thừa - thật ra vì Ali đã kể lại cho chúng tôi không biết
bao lần. Chúng tôi chỉ muốn nghe Ali hát.
Ông hắng giọng và bắt đầu:
Trên một ngọn núi cao tôi đứng,
Và gọi to tên của Ali, con Sư tử của Thượng
đế.
Ôi Ali, Sư tử của Thượng đế, Vua của Con
người,
Hãy mang lại niềm vui cho những trái tim sầu
não của chúng tôi.
Hát xong, ông thường nhắc nhở chúng tôi rằng
có một tình anh em giữa những con người được bú cùng một bầu vú mẹ, tình máu mủ
mà ngay cả thời gian cũng không thể phá vỡ.
Hassan và tôi bú cùng một bầu vú. Chúng tôi
chập chững đi những bước đầu tiên trên cùng một bãi cỏ trong cùng một chiếc sân.
Và dưới cùng một mái nhà, chúng tôi bập bẹ những tiếng nói đầu tiên:
Của tôi là Baba.
Của cậu ấy là Amir.
Tên tôi.
Bây giờ nhìn lại, tôi nghĩ khởi nguồn của
những gì đã xảy ra trong mùa đông năm 1975 - và tất cả những gì tiếp theo sau
đó - đã nằm sẵn trong những tiếng bập bẹ đầu tiên ấy.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét