Người Đua Diều
Tác giả: Khaled Hossenini
Người dịch: Nguyễn Bản
NXB Phụ Nữ - 09/2017
Chương 14
Tháng
Sáu năm 2001
Tôi gác máy và chằm chằm nhìn vào đấy một
lúc lâu. Không phải đợi cho tới khi Aflatoon làm tôi giật mình bằng một tiếng sủa
tôi mới nhận ra căn phòng của chúng tôi yên tĩnh biết bao, Soraya đã tắt máy
thu hình.
- Anh trông xanh xao quá, Amir, - nàng nói
từ ghế sofa, vẫn chiếc sofa mà cha mẹ nàng đã tặng chúng tôi làm quà nhà mới
khi lần đầu tiên chúng tôi có căn hộ riêng. Nàng vẫn đang nằm trên sofa với con
Aflatoon rúc đầu vào ngực, hai chân nàng vùi vào những chiếc gối cũ. Nàng vừa
xem chương trình PBS [PBS: Viết tắt Public Casting Service: Dịch vụ truyền
thông đại chúng] đặc biệt về hoàn cảnh khốn quẫn của đàn sói ở bang
Minnesota, vừa sửa những tiểu luận của lớp học hè cho một trường học nàng đã dạy
suốt sáu năm. Nàng ngồi dậy và con Aflatoon cũng nhảy từ sofa xuống. Cái tên ấy
do ông tướng đặt cho con chó cộc đuôi, tai cụp giống Tây Ban Nha của chúng tôi,
tiếng Farsi là “Plato” bởi vì, ông nói, nếu anh nhìn tương đối nghiêm túc và
lâu lâu một chút vào đôi mắt đen trong suốt của con chó, anh sẽ tin nó đang suy
nghĩ tinh thông như người.
Bây giờ dưới cằm Soraya đã có một ngấn mỡ,
đúng ra chỉ là một chút xíu thôi. Mười năm trôi qua làm đầy lên đôi chút những
đường cong ở đôi hông nàng, và điểm vào mớ tóc đen nhánh như than đá của nàng
vài vệt màu tro. Nhưng nàng vẫn còn gương mặt của một quận chúa ở Đại Vũ hội, với
đôi lông mày như cánh chim bay và chiếc mũi cong tao nhã như nét chữ cổ của người
Ả rập.
- Anh trông xanh xao quá, - Soraya vừa nhắc
lại, vừa đặt tệp giấy lên bàn.
- Anh phải đi Pakistan.
Thế là nàng đứng phắt dậy.
- Pakistan?
- Chú Rahim Khan ốm lắm. - Tôi thấy lòng thắt
lại khi nói ra những lời ấy.
- Bạn kinh doanh cũ của Kaka?
Nàng chưa bao giờ gặp chú Rahim Khan, nhưng
tôi đã kể với nàng về ông. Tôi gật đầu.
- Ồ, em rất tiếc. Amir.
- Ông và anh vốn gắn bó với nhau. - tôi
nói. - Khi anh còn là một đứa trẻ, ông là người lớn đầu tiên mà anh coi là bạn.
Tôi hình dung ra ông và Baba đang uống trà ở
phòng đọc của Baba, rồi hút thuốc bên cửa sổ, một làn gió nhẹ thoảng mùi hoa tầm
xuân thổi từ ngoài vườn vào làm uốn lượn hai cột khói thuốc.
- Em nhớ anh đã kể cho em chuyện đó. -
Soraya nói rồi dừng lại. - Anh định đi bao lâu?
- Anh không biết. Ông muốn gặp anh.
- Như thế có...
- Có an toàn thôi. Soraya, anh sẽ ổn mà. - Đó
là câu nàng muốn hỏi. Mười lăm năm hôn nhân đã biến chúng tôi thành những người
đọc được ý nghĩ của nhau.
- Anh định đi dạo bộ một lúc.
- Em đi với anh nhé?
- Không, anh đi một mình thì hơn.
Tôi lái xe đến công viên Cổng Vàng và dạo bộ
ven Hồ Spreckels ở bờ Bắc công viên. Đó là một buổi chiều Chủ nhật đẹp trời, mặt
trời lấp lánh nước hồ, trên đó hàng tá nhưng chiếc thuyền nhỏ đang giong buồm,
làn gió khô lạnh của San Francisco đưa những cánh buồm đi. Tôi ngồi trên băng
ghế dài ở công viên, ngắm một người đàn ông tung quả bóng đá cho đứa con trai,
bảo nó đừng lấy cánh tay cắp bóng mà hãy ném bóng qua vai. Tôi liếc nhìn lên và
thấy một đôi diều màu đỏ với những chiếc đuôi dài màu xanh lơ. Chúng bồng bềnh
trên cao, bên trên những hàng cây ở cuối phía Tây công viên, bay qua những cối
xay gió.
Tôi nghĩ về lời chú Rahim Khan đã nói ngay
trước khi tôi gác máy. Nói rất tình cờ, hầu như thể chợt nghĩ thêm ra. Tôi nhắm
mắt lại và nhìn thấy chú ở bên kia dải phân cách xa tắp, nhạt nhòa, thấy chú
đôi môi hơi hé mở, đầu nghiêng về một bên. Và nữa, trong đôi mắt đen sâu thẳm của
chú giấu một bí mật không nói ra giữa hai chúng tôi. Trừ lúc này, tôi biết chú
đã biết. Mối nghi ngờ của tôi vẫn còn nguyên suốt những năm tháng ấy, chú biết
về Assef, chiếc diều, tiền, cái đồng hồ với đôi kim có dạ quang. Chú lúc nào
cũng biết.
Cố lên. Luôn có một con đường để tốt lành
trở lại đấy. Rahim Khan đã nói vậy qua điện thoại ngay trước khi gác máy. Nói rất
tình cờ, hầu như thể chợt nghĩ thêm ra.
Một
con đường để tốt lành trở lại.
Khi tôi về tới nhà, Soraya đang nói chuyện
qua điện thoại với mẹ nàng:
- Sẽ không lâu đâu, Madar jan. Một tuần, có
thể hai... vâng, mẹ và Padar có thể đến ở với con...
Hai năm trước, ông tướng bị gãy xương hông
phải. Ông lại bị thêm một trong những cơn đau nửa đầu, và trong khi đang ra khỏi
phòng, mắt mờ đi và ngơ ngác, ông vấp phải cái mép thảm bị gấp lên. Tiếng kêu của
ông khiến Khala Jamila phải chạy vội từ bếp lên.
Nghe như một cái cán chổi bị gãy đánh rắc một
cái, bà vẫn cứ thích nói như thế, dẫu bác sĩ đã bảo tiếng bà nghe thấy đâu có
thể như vậy. Chuyện cái hông bị vỡ của ông tướng - và tất cả những gì phức tạp
xảy ra sau đó, chứng viêm phổi, nhiễm độc máu, đợt điều trị kéo dài tại viện điều
dưỡng - kết thúc bằng những đoạn độc thoại dài dòng lôi thôi về sức khỏe của
chính bà. Rồi lại bắt đầu những độc thoại mới về sức khỏe của ông tướng. Gặp bất
kỳ ai muốn nghe bà cũng kể bác sĩ đã bảo cho ông bà biết ông bị suy thận.
- Nhưng rồi họ chẳng bao giờ thấy những quả
thận Afghan, phải không nào? - Bà thường nói một cách kiêu hãnh.
Những gì tôi nhớ nhất về thời kỳ ông tướng
phải nằm lại ở bệnh viện là Khala đã ngồi đợi cho đến khi ông ngủ như thế nào,
rồi hát cho ông nghe những bài hát mà tôi vẫn nhớ đã nghe ở Kabul, từ chiếc đài
bán dẫn xẹt xẹt cổ lỗ của Baba.
Sức khỏe của ông tướng suy sụp, cộng với thời
gian cũng đã xoa dịu đi nhiều điều giữa ông và Soraya. Họ đi dạo cùng nhau, đi
ăn trưa vào những ngày thứ Bảy, và đôi khi ông còn dự một giờ lên lớp nào đó của
nàng. Ông thường ngồi ở cuối lớp, chỉnh tề trong bộ đồ cũ màu xám là bóng của
ông, chiếc gậy chống để ngang đùi, mỉm cười. Đôi khi ông còn ghi chép nữa.
Đêm đó, tôi và Soraya ngủ chung giường,
lưng nàng ép vào ngực tôi, mặt tôi vùi vào tóc nàng. Tôi vẫn nhớ, chúng tôi từng
quen nằm trán chạm trán, chia sẻ với nhau những nụ hôn muộn màng, và thầm thì
cho đến khi mắt chúng tôi díp lại, thầm thì về đôi gót nhỏ cong lên, những nụ
cười ban đầu, những lời nói đầu tiên, những bước đi đầu tiên. Đôi khi chúng tôi
vẫn còn thầm thì với nhau, nhưng là về trường học, về cuốn sách mới của tôi, một
tiếng cười khúc khích về cách ăn mặc lố lăng của ai đó tại một bữa tiệc. Chuyện
làm tình của chúng tôi vẫn tốt, lắm khi còn hơn cả tốt nữa. Nhưng có những đêm
tất cả những gì tôi cảm nhận được là chuyện đó để khuây khỏa, để buông trôi và
quên đi, ít nhất cũng trong chốc lát, sự phù phiếm của chính những gì chúng tôi
vừa làm. Nàng không bao giờ nói thế, nhưng tôi biết đôi khi Soraya cũng cảm thấy
thế. Vào những đêm ấy, chúng tôi thường nằm lăn ra mỗi người một bên giường, để
mặc Đấng Cứu thế riêng của mỗi chúng tôi cuốn chúng tôi đi. Chúa Cứu thế của
Soraya là giấc ngủ. Của tôi như thường lệ, vẫn là một cuốn sách.
Tôi nằm trong bóng tối cái đêm chú Rahim
Khan gọi, mắt tôi lần theo những vạch song song sáng như bạc mà ánh trăng tràn
qua cửa chớp in lên tường. Cho tới lúc nào đấy, có lẽ đúng trước bình minh, tôi
mới ngủ thiếp đi. Và mơ thấy Hassan chạy trong tuyết, vạt áo chapan màu xanh lục
quét lê phía sau, tuyết xào xạo dưới đôi ủng cao su đen của cậu ấy. Cậu đang
hét lên về phía sau: Vì cậu, cả ngàn lần
rồi!
Một tuần sau, tôi ngồi ở chiếc ghế cạnh cửa
sổ, trên chuyến bay của hãng Hàng không Quốc tế Pakistan, dõi theo hai nhân
viên mặc đồng phục hàng không đang tháo chèn bánh máy bay. Chiếc máy bay cất
cánh khỏi ga hàng không và chẳng mấy chốc, chúng tôi đã cất cánh, xuyên qua những
đám mây. Tôi ngả đầu tựa vào cửa sổ. Mong chờ giấc ngủ, nhưng vô vọng.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét