Mục Tiêu Cuối Cùng
(The Last Dead Girl)
Tác giả: Harry Dolan
Dịch giả: Đỗ Phi
NXB Lao Động - 2018
9
Trong căn phòng với những bức tường ốp gạch
trắng xóa - sau khi Jana qua đời, sau khi tôi phát hiện ra thi thể của cô - tôi
nhìn Thanh tra Frank Moretti dùng những đầu ngón tay bóp sống mũi to bự của
mình và nghe ông ta hít một hơi thật sâu.
- Một que kem ư? - ông ta nói.
- Trong khu rừng phía sau căn hộ của Jana,
- tôi nói. - Tôi có thể chỉ chỗ cho ông.
Ông áp lòng bàn tay lên mặt bàn giữa chúng
tôi.
- Đừng cầm đèn chạy trước ô tô. Tôi cần biết
mọi thứ về cô ta, bất cứ điều gì anh có thể kể với tôi. Hãy bắt đầu từ cái ngày
hai người gặp nhau và chúng ta sẽ đi tiếp từ đó.
Và chúng tôi đã làm vậy. Tôi kể cho ông ta
mọi thứ mình có thể nhớ được về Đêm con
hươu cái và cả đêm dưới ánh trăng khi Jana nghĩ mình đang bị theo dõi. Tôi
cũng kể cho ông ta về Simon Lanik, gã cháu trai của bà chủ nhà. Chúng tôi nói
chuyện về tất cả những lần tôi gặp gỡ Jana, những nơi chúng tôi cùng nhau tới.
Có lúc, Moretti ghi chép lại. Thỉnh thoảng, một đồng nghiệp nào đó của ông ta sẽ
gõ cửa, gọi ông ta ra ngoài hành lang. Tôi nghe được lõm bõm cuộc hội thoại -
vì Moretti đã đóng cửa khi ông ta rời khỏi và nó chỉ được mở ra lúc ông ta trở
lại.
Chúng tôi cũng nói về Sophie Emerson. Đáng
lẽ, tôi sẽ không lôi cô ấy vào chuyện này nhưng Moretti đã biết cô ấy - rằng
chúng tôi đã đính hôn. Ông ta nhìn thấy vết cắt trên thái dương của tôi và muốn
biết nguyên do. Khi tôi kể ra, ông ta phá lên cười. “Anh bị như thế là còn nhẹ đấy”, ông ta nói.
Sophie cảm thấy hối hận vì tát tôi ngay khi
sau đó - ít nhất, cô ấy cũng đã nói lời xin lỗi. Tôi không biết liệu cô ấy có
thật sự cảm thấy như vậy hay liệu cô ấy có nên thế không. Cô ấy đã đề nghị khâu
vết cắt lại cho tôi hoặc chở tôi đến bệnh viện để ai đó có thể làm việc ấy.
Nhưng cuối cùng, tôi đã quyết định tự mình lo liệu lấy bằng cách dùng cồn lau qua
nó trong phòng tắm căn hộ của chúng tôi, rồi dùng gạc và băng keo dán lại.
Thời điểm đó, Jana chỉ còn vài tiếng đồng hồ
để sống và chẳng có gì tôi làm có ích cho cô trong những giờ khắc ấy.
Tôi lẻn khỏi căn hộ mà không nói gì thêm với
Sophie. Cũng dễ - dù cô ấy cũng sẽ chẳng buồn ngăn tôi. Tôi ăn trưa tại một
quán ăn rẻ tiền ở khu trung tâm. Sau đó, tôi lái xe ra một khu phân lô có hồ
nhân tạo và sân gôn 9 lỗ, kiểm tra hiện trạng nhà cửa cho một nhân viên bán bảo
hiểm cùng cô vợ đang mang thai. 4 phòng ngủ, 3 phòng tắm, tầng hầm hoàn chỉnh -
tất cả đều ở trong tình trạng tốt, ngoại trừ mái nhà cần phải được lợp lại.
Tôi nhận séc thanh toán từ anh nhân viên
bán bảo hiểm và mang đến ngân hàng. Sau đó, tôi dừng lại mua một cốc cà phê.
Lúc ấy đã gần 5 giờ chiều mà tôi thì có hẹn ăn tối với Jana lúc 7 giờ 30 tại
The Falcon, nhà hàng có chiếc ca nô treo trên trần.
Kế hoạch là như thế. Nhưng lẽ ra tôi không
nên theo sát nó quá. Lẽ ra, tôi nên đến tìm cô và làm cái việc mà mình đã trì
hoãn: nói cho cô biết về Sophie.
Thay vào đó, tôi lại lái xe đi lòng vòng,
cân nhắc về chuyện ấy và trù tính kế hoạch. Bạn có thể nói rằng vết cắt trên
thái dương đã khiến tôi phải e dè trước việc nói chuyện với phụ nữ. Hoặc bạn
cũng có thể cho rằng tôi là một gã nhát gan và chính sự hèn nhát của tôi đã lấy
đi mạng sống của Jana.
Thật khó để nhớ hết được những nơi tôi đã
đi mặc dù Frank Moretti muốn tôi phải nhớ. Trong căn phòng ốp gạch trắng, ông
ta chất vấn tôi về mọi chi tiết. Tôi chỉ biết rằng mình đã đi tới đường Quaker
Hill. Chẳng có gì đánh dấu vị trí nơi Jana đã gặp con hươu, ngoại trừ vài mảnh
vụn từ tấm kính chắn gió trên chiếc Plymouth của cô.
Vào lúc 7 giờ 30, tôi đang ngồi trong buồng
ăn quen thuộc của chúng tôi bên dưới chiếc ca nô. Tôi gỡ miếng gạc trên thái
dương ra vì nghĩ rằng dù vết cắt có trông tệ đến thế nào thì vẫn không gây sự
chú ý bằng một mảnh băng trắng hình vuông dán vào đầu. Và tôi ngồi chờ đợi.
Khi tới 7 giờ 45 mà Jana vẫn chưa xuất hiện,
tôi liền gọi di động tới căn hộ của cô. Nhưng không thấy trả lời. Tôi để lại một
tin nhắn trên hộp thoại. Đến 8 giờ, tôi gọi lại lần nữa. Vẫn không ai bắt máy.
8 giờ 10, tôi uống nốt cốc đồ uống mình đã
gọi rồi để tiền lại trên mặt bàn cho nhân viên phục vụ. Tôi lái xe tới căn hộ của
Jana thật nhanh nhưng không nhanh quá. Một mặt là vì có kẻ nào đó đã gây ra vết
bầm kia và có lẽ còn do thám cô từ trong rừng. Nhưng mặt khác, tôi không muốn
phản ứng thái quá. Có lẽ có chuyện đột xuất hoặc xe cô gặp trục trặc gì đó.
Khoảng 8 rưỡi, tôi rẽ vào con đường trước
nhà Jana và nhìn thấy chiếc Plymouth cà tàng trên lối vào - nó đã được thay một
tấm kính chắn gió mới toanh sau khi con hươu làm vỡ cái cũ. Dường như tất cả đèn
trong căn hộ đều tắt, nhưng ngoài ra thì không có chuyện gì bất thường. Ngay cả
cửa trước nhà thoáng nhìn qua lúc đầu cũng thấy rất bình thường. Nhưng khi tôi
tra chìa khóa vào ổ và cánh cửa xoay mở vào trong, tôi bỗng nhận ra một phần rầm
cửa đã bị ai đó đập vỡ.
Và tôi cũng đã sai lầm trong chuyện đèn
đóm. Một ánh sáng vẫn le lói cháy bên trong căn hộ. Đó là ngọn nến trà nằm đơn
độc trên sàn phòng khách, cách bàn chân trái của Jana chưa đẩy nửa mét.
* * *
Tôi bật công tắc và chiếc đèn treo trên đầu
sáng lên ngay lập tức và nếu trong đầu tôi còn bất cứ hoài nghi nào về chuyện
Jana đã chết thì nó đều đã tan biến.
Cô đang nằm ngửa trên sàn nhà, mắt mở trừng
trừng và gương mặt hơi nghiêng sang phía bên vai phải. Tôi nhớ mình đã tưởng rằng
vết bầm hình lưỡi liềm trên má cô đã biến mất.
(Nó
đang mờ đi. Chỉ vài ngày nữa thôi anh sẽ không còn nhìn thấy nó nữa)
Nhưng giờ cô ấy lại có thêm những vết bầm
khác: những vết bầm xấu xí trên cổ mà một kẻ nào đó đã để lại khi ấn những ngón
tay cái lên họng cô. Áo bị xé rách toang. Quần bò và quần lót bị kéo xuống dưới
đầu gối. Và đôi chân để trần.
Tấm gỗ 2x4 vốn được đặt trên mặt lò sưởi giờ
nằm ngay trên sàn nhà bên cạnh cô ấy. Nó dài khoảng 1,2 mét - dài hơn một cây gậy
bóng chày - và có lẽ Jana đã dùng nó làm gậy. Tôi muốn nghĩ rằng cô thực sự đã
làm vậy và rằng ít nhất cô cũng đã phang cho tên sát nhân kia một cú ra trò.
Nếu thế thì có thể giải thích được chuyện
đã xảy ra với những ngọn nến trà. Chúng đáng lẽ ra vẫn đang cháy trên mặt lò sưởi
và nằm trong những lỗ nông được đục trên tấm gỗ 2x4. Nhưng giờ chúng lại nằm rải
rác trên mặt sàn gỗ cứng, ba ngọn nến đã tắt, chỉ còn một vẫn đang le lói.
Tôi vẫn có thể hình dung lại cảnh tượng đó,
nhưng thứ duy nhất lúc này tôi không nhớ lại được là biểu cảm trên gương mặt
Jana và đó chính là một sự may mắn. Tôi chỉ có thể nhớ được rằng có điều gì đó
không đúng. Giống như khi bạn thoáng trông thấy một người quen trên đường nhưng
họ không biết bạn đang quan sát họ và họ đang khổ sở, tức giận hay phiền muộn
chán nản, còn bạn thì nhìn thấy họ trong một khoảnh khắc không phòng bị. Trông
họ có vẻ gì đó không đúng, không giống chính bản thân họ.
Điều đó không chính xác lắm, nhưng cũng gần
đúng. Gần nhất tôi có thể diễn tả.
* * *
- Vậy anh không hề kiểm tra mạch của cô ta,
- Frank Moretti nói.
- Không.
- Những người khác sẽ làm như vậy.
- Tôi không cần làm thế, - tôi nói. - Cô ấy
đã đi rồi.
- Và anh không đắp gì cho cô ta.
- Đắp cho cô ấy ư?
- Một tấm khăn trải giường hay một cái
chăn.
- Tôi nên làm thế sao?
- Tốt nhất là không. Làm thế sẽ phá hoại
công tác pháp y.
- Vậy tại sao...
- Bởi vì đó là chuyện mọi người vẫn thường
làm, - Moretti nói. - Cô ta nằm đó trên sàn nhà, trần trụi và yếu đuối. Người
quan tâm tới Jana sẽ muốn che cô ta lại.
- Có nghĩa là tôi đã không quan tâm cô ấy
sao?
- Tôi không nói vậy.
* * *
Nếu nó có ý nghĩa gì thì tôi cũng đã nắm
tay Jana. Tôi lấy di động gọi 911 rồi quỳ xuống bên cạnh cô chờ đợi và khi tôi
cầm tay cô, nó không ấm áp nhưng cũng chẳng lạnh lẽo. Nó có cảm giác trống rỗng
như một đôi găng tay, song dẫu vậy, tôi vẫn nắm lấy nó. Tôi không chắc mình đã
làm thế bao lâu - một quãng thời gian đủ để viên cảnh sát đầu tiên xuất hiện.
Anh ta còn trẻ và là một cảnh sát tuần tra
đang làm nhiệm vụ phân làn đường giao thông. Khi tôi ra gặp anh ta ở cửa, anh
ta ngay lập tức để ý thấy cái xác và vội vàng bước qua tôi. Tôi đứng dưới lối
vào bếp, quan sát tấm lưng của anh ta lúc anh ta cúi xuống nhìn Jana. Tôi nghĩ
đây hẳn là vụ án mạng đầu tiên của anh ta. Và khi anh ta cuối cùng cũng xoay
người lại, mặt anh ta trông rất nhợt nhạt. Tôi bước giật lùi trong về phía bếp
và chỉ tay về phía bồn rửa bát vì nghĩ có khi anh ta cần tới nó.
Nhưng rốt cuộc anh ta không cần đến nó. Anh
ta cúi xuống trên thành bồn, há hốc miệng hít thở không khí, nhưng chỉ thế
thôi. Khi đã đứng thẳng người, anh ta đưa tay áo lên quệt ngang miệng, dù với
tôi, trông nó có vẻ còn khô ráo.
- Anh sẽ ổn thôi, - tôi bảo anh ta.
Thật là một câu nói sai lầm, bởi vì nó nhắc
anh ta nhớ ra rằng tôi đã có mặt ở đây từ nãy tới giờ. Anh ta đã sơ suất. Ai mà
biết được tôi có thể làm gì trong khi anh ta đứng quay lưng lại? Tôi có thể
đánh vào đầu anh ta, giật lấy súng và cướp xe phóng đi dạo. Rồi anh ta quyết định
phải cứng rắn lên.
- Đặt hai tay lên đầu.
- Ồ, thôi nào.
- Làm đi.
Anh ta mở khóa bao súng rồi chạm tay vào
báng súng và tôi đưa hai tay đặt lên đầu. Khi anh ta bảo tôi xoay người lại,
tôi làm theo. Tôi đứng úp mặt vào bức tường bên cạnh cổng vòm. Tôi có thể nghe
thấy tiếng ô tô đang tấp vào lối đi trước cửa nhà, nhiều cảnh sát nữa đang tới.
Tôi cảm thấy tay anh ta đặt sau gáy mình, nghe anh ta nói tôi có quyền giữ im lặng.
Anh ta thô bạo đẩy tôi về phía trước và nếu không quay đầu đi, tôi nghĩ anh ta
có lẽ đã làm tôi vỡ mũi. Và thế là một bên mặt tôi đập vào tường và cú va chạm
làm rách vết cắt trên thái dương tôi.
* * *
Trong căn phòng có tường ốp gạch trắng, những
ngón tay của tôi cứ liên tục lần trở lại vết cắt. Nó có địa thế của riêng mình:
một vết lằn mỏng và dài. Moretti đã đưa tôi một miếng băng cá nhân để dán lên
nhưng nó không đủ lớn và tôi vẫn có thể cảm thấy được hai đầu vết cắt.
Moretti thấy tôi xuýt xoa và gấp cuốn sổ
tay lại rồi nói:
- Được rồi. Chúng ta nghỉ một lát. 10 phút.
Sau đó, chúng ta sẽ bắt đầu lại từ đầu.
- Không, - tôi nói.
- Không ư?
- Tôi đi đây.
Ý tưởng đó làm ông ta thấy thích thú:
- Anh sẽ không đi đâu cả.
- Tôi đã kể cho ông nghe mọi điều mà tôi biết.
- Tôi vẫn còn những câu hỏi.
Đã gần 3 giờ sáng và tôi cũng có những câu
hỏi của riêng mình. Nhưng không phải những câu có thể trả lời được trong căn
phòng này. Tôi rất mệt mỏi và cần được biết mình đang đứng ở đâu. Cách duy nhất
để xác định là nhằm vào vấn đề.
- Chuyện này kéo dài đủ lâu rồi, - tôi nói.
- Ông có thể để tôi đi hoặc buộc tôi tội gì đó. Mà tôi thì không nghĩ ông sẽ buộc
tội tôi.
- Tại sao lại không chứ? - Moretti hỏi.
- Bởi vì lúc này, ông đã có thể xác định được
thời điểm Jana tử vong. - Tôi chỉ đang đoán mò, nhưng điều đó rất có khả năng.
Đấy có thể là chủ đề của một trong những cuộc hội thoại ngoài hành lang của ông
ta. - Và chuyện nó có xảy ra lúc tôi đợi cô ấy ở quán The Falcon hay không, ông
cũng có thể xác nhận. Có lẽ ông đã làm xong chuyện ấy rồi.
Tôi đang hy vọng chuyện đó là sự thật,
nhưng phản ứng của Moretti - một cái lắc đầu nhè nhẹ - đã cho thấy rõ rằng tôi
không may mắn đến vậy.
- Dự đoán chắc chắn nhất của bác sĩ pháp y
là Jana Fletcher đã tử vong trong khoảng từ 6 đến 7 giờ, - ông ta nói, - điều
đó có nghĩa là nó xảy ra trong khi anh đang lái xe lòng vòng và nghĩ ngợi. Theo
như câu chuyện của anh.
- Đó không phải một câu chuyện.
- Sẽ là như vậy cho đến khi tôi xác minh được.
Tôi nhún vai:
- Ông vẫn sẽ không định buộc tội tôi. Vẫn
còn quá sớm. Ông muốn thật chắc chắn. Và không muốn về sau bị chứng minh rằng
mình đã sai - khi ông phát hiện ra kẻ gây ra chuyện này lại là một người khác.
Như thế sẽ thật là đáng hổ thẹn...
- Tôi có thể sống được với nỗi hổ thẹn.
- Nhưng nó sẽ gây bất lợi cho ông và cho
toàn bộ sở cảnh sát. Ông đang quên mất tôi là ai rồi đấy. Tên gia đình tôi nằm
trên những tòa nhà trong thành phố này. Nếu ông đoán sai, tôi có thể khiến ông
gặp rắc rối đấy.
Moretti cau mày:
- Anh đang đe dọa tôi sao?
- Không. Tôi đã nói xong chuyện với ông rồi.
Nếu ông định giữ tôi ở lại đây, tôi sẽ cần gọi luật sư.
Tôi ngồi xuống và khoanh hai tay trước ngực,
trong khi ông ta lườm tôi. Đèn huỳnh quang vẫn đang kêu lách tách phía trên đầu
- một bản nhạc nền hoàn hảo cho cuộc đấu trí giữa chúng tôi. Chúng tôi có lẽ sẽ
còn tiếp tục như vậy một lúc lâu nữa nếu không có người nào đó gõ cửa, rồi
Moretti từ từ đúng dậy, cầm lấy cuốn sổ tay trước khi bước ra ngoài.
Ông ta ở ngoài đó chừng 20 phút. Sau 10
phút đầu tiên, tôi đứng dậy và thử kiểm tra cửa (nhưng nó đã bị khóa), vươn vai
rồi đi tới đi lui quanh chiếc bàn. Tuy không thể nghe thấy bất cứ thanh âm nào
từ phía ngoài hành lang nhưng tôi nghĩ Moretti đang nói chuyện với ai đấy ngoài
đó - có lẽ là về việc liệu tôi có thể thực sự gây phiền toái cho họ hay không nếu
họ từ chối thả tôi đi. Tôi hy vọng họ đang nói đến chuyện ấy và cũng hy vọng
cái viễn cảnh kia sẽ khiến họ lo lắng. Nhưng tôi lại không nghĩ nó sẽ có tác dụng
nếu họ mở cuộc điều tra về những mối quan hệ của gia đình tôi. Bởi vì thật ra,
tất cả những gì tôi đã nói với Moretti đều chỉ là lừa gạt.
Moretti chính là người đầu tiên khơi ra
chuyện về Austin Malone, người đã được đề tên trên một vài tòa nhà ở Đại học
Bellamy. Austin đúng thật là cụ tôi, và lúc sinh thời, cụ vốn rất giàu có. Cụ
đã thừa kế công việc kinh doanh từ cha mình: một xưởng sản xuất dây đồng cho đường
dây điện thoại và ống đồng cho hệ thống ống nước. Nhưng xưởng sản suất là một
nơi bụi bặm và cụ Austin Malone không hề có hứng thú dành thời gian ở những nơi
bụi bặm như thế. Cụ đã bán xưởng sản xuất cho công ty Revere Copper sau khi cha
cụ qua đời năm 1928 và dùng số tiền đó để mua nhiều uy tín và thanh danh nhất có
thể.
Số tiền đó đã mua được khá nhiều. Cụ Austin
Malone tránh không đầu tư vào thị trường chứng khoán và đã xoay xở vượt qua được
thời kỳ Đại suy thoái cũng như Thế chiến thứ hai. Nhưng rồi cụ qua đời năm 1949
và bỏ lại 5 đứa con trai cùng 3 đứa con gái - một gia sản kếch xù được chia ra
8 phần, thành 8 gia tài khá khiêm tốn.
Chuyển cảnh đến hai thế hệ sau đó, không
còn lại gì nhiều ngoài một cái tên được khắc chạm trên mặt ngoài bằng đá của một
vài tòa nhà nào đấy cùng cuộc sống trung lưu thoải mái. Cha tôi là một nhà thầu
xây dựng, ông đã cho tôi đi học Đại học chuyên ngành kỹ sư. Tôi có những người
họ hàng có sự nghiệp vững chắc và thậm chí còn có một cậu em họ làm luật sư.
Nhưng là bên luật thuế chứ không phải luật hình sự. Không phải lĩnh vực có thể
giúp được tôi.
Vậy nên lời đe dọa của tôi đối với Frank
Moretti chỉ là một lời nói suông: Tôi không thể gây ra bất cứ phiền toái nào
cho ông ta. Và nếu ông ta muốn gây rắc rối cho tôi thì sẽ chẳng có ai trong gia
tộc Malone có thể gọi một cú điện thoại và khiến nó biến mất.
Tôi không biết lời dối gạt của mình có tác
dụng không, hay liệu Moretti có phải là một cảnh sát liêm minh không muốn bắt
ai đó vì tội giết người khi chưa biết chắc, nhưng có điều đã thay đổi trong 20
phút ông ta vắng mặt. Khi quay trở vào phòng, ánh nhìn giận dữ đã không còn mà
lại trông rất mệt mỏi. Ông ta đang cầm chiếc túi ni lông đựng ví, điện thoại và
những vật sở hữu khác của tôi. Ông ta vứt chúng lên mặt bàn, giữ cửa cho tôi rồi
nói:
- Anh có thể đi được rồi.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét