Thứ Sáu, 7 tháng 8, 2020

Mục Tiêu Cuối Cùng - 9

Mục Tiêu Cuối Cùng
(The Last Dead Girl)

Tác giả: Harry Dolan
Dịch giả: Đỗ Phi
NXB Lao Động - 2018

9

Trong căn phòng với những bức tường ốp gạch trắng xóa - sau khi Jana qua đời, sau khi tôi phát hiện ra thi thể của cô - tôi nhìn Thanh tra Frank Moretti dùng những đầu ngón tay bóp sống mũi to bự của mình và nghe ông ta hít một hơi thật sâu.
- Một que kem ư? - ông ta nói.
- Trong khu rừng phía sau căn hộ của Jana, - tôi nói. - Tôi có thể chỉ chỗ cho ông.
Ông áp lòng bàn tay lên mặt bàn giữa chúng tôi.
- Đừng cầm đèn chạy trước ô tô. Tôi cần biết mọi thứ về cô ta, bất cứ điều gì anh có thể kể với tôi. Hãy bắt đầu từ cái ngày hai người gặp nhau và chúng ta sẽ đi tiếp từ đó.
Và chúng tôi đã làm vậy. Tôi kể cho ông ta mọi thứ mình có thể nhớ được về Đêm con hươu cái và cả đêm dưới ánh trăng khi Jana nghĩ mình đang bị theo dõi. Tôi cũng kể cho ông ta về Simon Lanik, gã cháu trai của bà chủ nhà. Chúng tôi nói chuyện về tất cả những lần tôi gặp gỡ Jana, những nơi chúng tôi cùng nhau tới. Có lúc, Moretti ghi chép lại. Thỉnh thoảng, một đồng nghiệp nào đó của ông ta sẽ gõ cửa, gọi ông ta ra ngoài hành lang. Tôi nghe được lõm bõm cuộc hội thoại - vì Moretti đã đóng cửa khi ông ta rời khỏi và nó chỉ được mở ra lúc ông ta trở lại.
Chúng tôi cũng nói về Sophie Emerson. Đáng lẽ, tôi sẽ không lôi cô ấy vào chuyện này nhưng Moretti đã biết cô ấy - rằng chúng tôi đã đính hôn. Ông ta nhìn thấy vết cắt trên thái dương của tôi và muốn biết nguyên do. Khi tôi kể ra, ông ta phá lên cười. “Anh bị như thế là còn nhẹ đấy”, ông ta nói.
Sophie cảm thấy hối hận vì tát tôi ngay khi sau đó - ít nhất, cô ấy cũng đã nói lời xin lỗi. Tôi không biết liệu cô ấy có thật sự cảm thấy như vậy hay liệu cô ấy có nên thế không. Cô ấy đã đề nghị khâu vết cắt lại cho tôi hoặc chở tôi đến bệnh viện để ai đó có thể làm việc ấy. Nhưng cuối cùng, tôi đã quyết định tự mình lo liệu lấy bằng cách dùng cồn lau qua nó trong phòng tắm căn hộ của chúng tôi, rồi dùng gạc và băng keo dán lại.
Thời điểm đó, Jana chỉ còn vài tiếng đồng hồ để sống và chẳng có gì tôi làm có ích cho cô trong những giờ khắc ấy.
Tôi lẻn khỏi căn hộ mà không nói gì thêm với Sophie. Cũng dễ - dù cô ấy cũng sẽ chẳng buồn ngăn tôi. Tôi ăn trưa tại một quán ăn rẻ tiền ở khu trung tâm. Sau đó, tôi lái xe ra một khu phân lô có hồ nhân tạo và sân gôn 9 lỗ, kiểm tra hiện trạng nhà cửa cho một nhân viên bán bảo hiểm cùng cô vợ đang mang thai. 4 phòng ngủ, 3 phòng tắm, tầng hầm hoàn chỉnh - tất cả đều ở trong tình trạng tốt, ngoại trừ mái nhà cần phải được lợp lại.
Tôi nhận séc thanh toán từ anh nhân viên bán bảo hiểm và mang đến ngân hàng. Sau đó, tôi dừng lại mua một cốc cà phê. Lúc ấy đã gần 5 giờ chiều mà tôi thì có hẹn ăn tối với Jana lúc 7 giờ 30 tại The Falcon, nhà hàng có chiếc ca nô treo trên trần.
Kế hoạch là như thế. Nhưng lẽ ra tôi không nên theo sát nó quá. Lẽ ra, tôi nên đến tìm cô và làm cái việc mà mình đã trì hoãn: nói cho cô biết về Sophie.
Thay vào đó, tôi lại lái xe đi lòng vòng, cân nhắc về chuyện ấy và trù tính kế hoạch. Bạn có thể nói rằng vết cắt trên thái dương đã khiến tôi phải e dè trước việc nói chuyện với phụ nữ. Hoặc bạn cũng có thể cho rằng tôi là một gã nhát gan và chính sự hèn nhát của tôi đã lấy đi mạng sống của Jana.
Thật khó để nhớ hết được những nơi tôi đã đi mặc dù Frank Moretti muốn tôi phải nhớ. Trong căn phòng ốp gạch trắng, ông ta chất vấn tôi về mọi chi tiết. Tôi chỉ biết rằng mình đã đi tới đường Quaker Hill. Chẳng có gì đánh dấu vị trí nơi Jana đã gặp con hươu, ngoại trừ vài mảnh vụn từ tấm kính chắn gió trên chiếc Plymouth của cô.
Vào lúc 7 giờ 30, tôi đang ngồi trong buồng ăn quen thuộc của chúng tôi bên dưới chiếc ca nô. Tôi gỡ miếng gạc trên thái dương ra vì nghĩ rằng dù vết cắt có trông tệ đến thế nào thì vẫn không gây sự chú ý bằng một mảnh băng trắng hình vuông dán vào đầu. Và tôi ngồi chờ đợi.
Khi tới 7 giờ 45 mà Jana vẫn chưa xuất hiện, tôi liền gọi di động tới căn hộ của cô. Nhưng không thấy trả lời. Tôi để lại một tin nhắn trên hộp thoại. Đến 8 giờ, tôi gọi lại lần nữa. Vẫn không ai bắt máy.
8 giờ 10, tôi uống nốt cốc đồ uống mình đã gọi rồi để tiền lại trên mặt bàn cho nhân viên phục vụ. Tôi lái xe tới căn hộ của Jana thật nhanh nhưng không nhanh quá. Một mặt là vì có kẻ nào đó đã gây ra vết bầm kia và có lẽ còn do thám cô từ trong rừng. Nhưng mặt khác, tôi không muốn phản ứng thái quá. Có lẽ có chuyện đột xuất hoặc xe cô gặp trục trặc gì đó.
Khoảng 8 rưỡi, tôi rẽ vào con đường trước nhà Jana và nhìn thấy chiếc Plymouth cà tàng trên lối vào - nó đã được thay một tấm kính chắn gió mới toanh sau khi con hươu làm vỡ cái cũ. Dường như tất cả đèn trong căn hộ đều tắt, nhưng ngoài ra thì không có chuyện gì bất thường. Ngay cả cửa trước nhà thoáng nhìn qua lúc đầu cũng thấy rất bình thường. Nhưng khi tôi tra chìa khóa vào ổ và cánh cửa xoay mở vào trong, tôi bỗng nhận ra một phần rầm cửa đã bị ai đó đập vỡ.
Và tôi cũng đã sai lầm trong chuyện đèn đóm. Một ánh sáng vẫn le lói cháy bên trong căn hộ. Đó là ngọn nến trà nằm đơn độc trên sàn phòng khách, cách bàn chân trái của Jana chưa đẩy nửa mét.

* * *

Tôi bật công tắc và chiếc đèn treo trên đầu sáng lên ngay lập tức và nếu trong đầu tôi còn bất cứ hoài nghi nào về chuyện Jana đã chết thì nó đều đã tan biến.
Cô đang nằm ngửa trên sàn nhà, mắt mở trừng trừng và gương mặt hơi nghiêng sang phía bên vai phải. Tôi nhớ mình đã tưởng rằng vết bầm hình lưỡi liềm trên má cô đã biến mất.
(Nó đang mờ đi. Chỉ vài ngày nữa thôi anh sẽ không còn nhìn thấy nó nữa)
Nhưng giờ cô ấy lại có thêm những vết bầm khác: những vết bầm xấu xí trên cổ mà một kẻ nào đó đã để lại khi ấn những ngón tay cái lên họng cô. Áo bị xé rách toang. Quần bò và quần lót bị kéo xuống dưới đầu gối. Và đôi chân để trần.
Tấm gỗ 2x4 vốn được đặt trên mặt lò sưởi giờ nằm ngay trên sàn nhà bên cạnh cô ấy. Nó dài khoảng 1,2 mét - dài hơn một cây gậy bóng chày - và có lẽ Jana đã dùng nó làm gậy. Tôi muốn nghĩ rằng cô thực sự đã làm vậy và rằng ít nhất cô cũng đã phang cho tên sát nhân kia một cú ra trò.
Nếu thế thì có thể giải thích được chuyện đã xảy ra với những ngọn nến trà. Chúng đáng lẽ ra vẫn đang cháy trên mặt lò sưởi và nằm trong những lỗ nông được đục trên tấm gỗ 2x4. Nhưng giờ chúng lại nằm rải rác trên mặt sàn gỗ cứng, ba ngọn nến đã tắt, chỉ còn một vẫn đang le lói.
Tôi vẫn có thể hình dung lại cảnh tượng đó, nhưng thứ duy nhất lúc này tôi không nhớ lại được là biểu cảm trên gương mặt Jana và đó chính là một sự may mắn. Tôi chỉ có thể nhớ được rằng có điều gì đó không đúng. Giống như khi bạn thoáng trông thấy một người quen trên đường nhưng họ không biết bạn đang quan sát họ và họ đang khổ sở, tức giận hay phiền muộn chán nản, còn bạn thì nhìn thấy họ trong một khoảnh khắc không phòng bị. Trông họ có vẻ gì đó không đúng, không giống chính bản thân họ.
Điều đó không chính xác lắm, nhưng cũng gần đúng. Gần nhất tôi có thể diễn tả.

* * *

- Vậy anh không hề kiểm tra mạch của cô ta, - Frank Moretti nói.
- Không.
- Những người khác sẽ làm như vậy.
- Tôi không cần làm thế, - tôi nói. - Cô ấy đã đi rồi.
- Và anh không đắp gì cho cô ta.
- Đắp cho cô ấy ư?
- Một tấm khăn trải giường hay một cái chăn.
- Tôi nên làm thế sao?
- Tốt nhất là không. Làm thế sẽ phá hoại công tác pháp y.
- Vậy tại sao...
- Bởi vì đó là chuyện mọi người vẫn thường làm, - Moretti nói. - Cô ta nằm đó trên sàn nhà, trần trụi và yếu đuối. Người quan tâm tới Jana sẽ muốn che cô ta lại.
- Có nghĩa là tôi đã không quan tâm cô ấy sao?
- Tôi không nói vậy.

* * *

Nếu nó có ý nghĩa gì thì tôi cũng đã nắm tay Jana. Tôi lấy di động gọi 911 rồi quỳ xuống bên cạnh cô chờ đợi và khi tôi cầm tay cô, nó không ấm áp nhưng cũng chẳng lạnh lẽo. Nó có cảm giác trống rỗng như một đôi găng tay, song dẫu vậy, tôi vẫn nắm lấy nó. Tôi không chắc mình đã làm thế bao lâu - một quãng thời gian đủ để viên cảnh sát đầu tiên xuất hiện.
Anh ta còn trẻ và là một cảnh sát tuần tra đang làm nhiệm vụ phân làn đường giao thông. Khi tôi ra gặp anh ta ở cửa, anh ta ngay lập tức để ý thấy cái xác và vội vàng bước qua tôi. Tôi đứng dưới lối vào bếp, quan sát tấm lưng của anh ta lúc anh ta cúi xuống nhìn Jana. Tôi nghĩ đây hẳn là vụ án mạng đầu tiên của anh ta. Và khi anh ta cuối cùng cũng xoay người lại, mặt anh ta trông rất nhợt nhạt. Tôi bước giật lùi trong về phía bếp và chỉ tay về phía bồn rửa bát vì nghĩ có khi anh ta cần tới nó.
Nhưng rốt cuộc anh ta không cần đến nó. Anh ta cúi xuống trên thành bồn, há hốc miệng hít thở không khí, nhưng chỉ thế thôi. Khi đã đứng thẳng người, anh ta đưa tay áo lên quệt ngang miệng, dù với tôi, trông nó có vẻ còn khô ráo.
- Anh sẽ ổn thôi, - tôi bảo anh ta.
Thật là một câu nói sai lầm, bởi vì nó nhắc anh ta nhớ ra rằng tôi đã có mặt ở đây từ nãy tới giờ. Anh ta đã sơ suất. Ai mà biết được tôi có thể làm gì trong khi anh ta đứng quay lưng lại? Tôi có thể đánh vào đầu anh ta, giật lấy súng và cướp xe phóng đi dạo. Rồi anh ta quyết định phải cứng rắn lên.
- Đặt hai tay lên đầu.
- Ồ, thôi nào.
- Làm đi.
Anh ta mở khóa bao súng rồi chạm tay vào báng súng và tôi đưa hai tay đặt lên đầu. Khi anh ta bảo tôi xoay người lại, tôi làm theo. Tôi đứng úp mặt vào bức tường bên cạnh cổng vòm. Tôi có thể nghe thấy tiếng ô tô đang tấp vào lối đi trước cửa nhà, nhiều cảnh sát nữa đang tới. Tôi cảm thấy tay anh ta đặt sau gáy mình, nghe anh ta nói tôi có quyền giữ im lặng. Anh ta thô bạo đẩy tôi về phía trước và nếu không quay đầu đi, tôi nghĩ anh ta có lẽ đã làm tôi vỡ mũi. Và thế là một bên mặt tôi đập vào tường và cú va chạm làm rách vết cắt trên thái dương tôi.

* * *

Trong căn phòng có tường ốp gạch trắng, những ngón tay của tôi cứ liên tục lần trở lại vết cắt. Nó có địa thế của riêng mình: một vết lằn mỏng và dài. Moretti đã đưa tôi một miếng băng cá nhân để dán lên nhưng nó không đủ lớn và tôi vẫn có thể cảm thấy được hai đầu vết cắt.
Moretti thấy tôi xuýt xoa và gấp cuốn sổ tay lại rồi nói:
- Được rồi. Chúng ta nghỉ một lát. 10 phút. Sau đó, chúng ta sẽ bắt đầu lại từ đầu.
- Không, - tôi nói.
- Không ư?
- Tôi đi đây.
Ý tưởng đó làm ông ta thấy thích thú:
- Anh sẽ không đi đâu cả.
- Tôi đã kể cho ông nghe mọi điều mà tôi biết.
- Tôi vẫn còn những câu hỏi.
Đã gần 3 giờ sáng và tôi cũng có những câu hỏi của riêng mình. Nhưng không phải những câu có thể trả lời được trong căn phòng này. Tôi rất mệt mỏi và cần được biết mình đang đứng ở đâu. Cách duy nhất để xác định là nhằm vào vấn đề.
- Chuyện này kéo dài đủ lâu rồi, - tôi nói. - Ông có thể để tôi đi hoặc buộc tôi tội gì đó. Mà tôi thì không nghĩ ông sẽ buộc tội tôi.
- Tại sao lại không chứ? - Moretti hỏi.
- Bởi vì lúc này, ông đã có thể xác định được thời điểm Jana tử vong. - Tôi chỉ đang đoán mò, nhưng điều đó rất có khả năng. Đấy có thể là chủ đề của một trong những cuộc hội thoại ngoài hành lang của ông ta. - Và chuyện nó có xảy ra lúc tôi đợi cô ấy ở quán The Falcon hay không, ông cũng có thể xác nhận. Có lẽ ông đã làm xong chuyện ấy rồi.
Tôi đang hy vọng chuyện đó là sự thật, nhưng phản ứng của Moretti - một cái lắc đầu nhè nhẹ - đã cho thấy rõ rằng tôi không may mắn đến vậy.
- Dự đoán chắc chắn nhất của bác sĩ pháp y là Jana Fletcher đã tử vong trong khoảng từ 6 đến 7 giờ, - ông ta nói, - điều đó có nghĩa là nó xảy ra trong khi anh đang lái xe lòng vòng và nghĩ ngợi. Theo như câu chuyện của anh.
- Đó không phải một câu chuyện.
- Sẽ là như vậy cho đến khi tôi xác minh được.
Tôi nhún vai:
- Ông vẫn sẽ không định buộc tội tôi. Vẫn còn quá sớm. Ông muốn thật chắc chắn. Và không muốn về sau bị chứng minh rằng mình đã sai - khi ông phát hiện ra kẻ gây ra chuyện này lại là một người khác. Như thế sẽ thật là đáng hổ thẹn...
- Tôi có thể sống được với nỗi hổ thẹn.
- Nhưng nó sẽ gây bất lợi cho ông và cho toàn bộ sở cảnh sát. Ông đang quên mất tôi là ai rồi đấy. Tên gia đình tôi nằm trên những tòa nhà trong thành phố này. Nếu ông đoán sai, tôi có thể khiến ông gặp rắc rối đấy.
Moretti cau mày:
- Anh đang đe dọa tôi sao?
- Không. Tôi đã nói xong chuyện với ông rồi. Nếu ông định giữ tôi ở lại đây, tôi sẽ cần gọi luật sư.
Tôi ngồi xuống và khoanh hai tay trước ngực, trong khi ông ta lườm tôi. Đèn huỳnh quang vẫn đang kêu lách tách phía trên đầu - một bản nhạc nền hoàn hảo cho cuộc đấu trí giữa chúng tôi. Chúng tôi có lẽ sẽ còn tiếp tục như vậy một lúc lâu nữa nếu không có người nào đó gõ cửa, rồi Moretti từ từ đúng dậy, cầm lấy cuốn sổ tay trước khi bước ra ngoài.
Ông ta ở ngoài đó chừng 20 phút. Sau 10 phút đầu tiên, tôi đứng dậy và thử kiểm tra cửa (nhưng nó đã bị khóa), vươn vai rồi đi tới đi lui quanh chiếc bàn. Tuy không thể nghe thấy bất cứ thanh âm nào từ phía ngoài hành lang nhưng tôi nghĩ Moretti đang nói chuyện với ai đấy ngoài đó - có lẽ là về việc liệu tôi có thể thực sự gây phiền toái cho họ hay không nếu họ từ chối thả tôi đi. Tôi hy vọng họ đang nói đến chuyện ấy và cũng hy vọng cái viễn cảnh kia sẽ khiến họ lo lắng. Nhưng tôi lại không nghĩ nó sẽ có tác dụng nếu họ mở cuộc điều tra về những mối quan hệ của gia đình tôi. Bởi vì thật ra, tất cả những gì tôi đã nói với Moretti đều chỉ là lừa gạt.
Moretti chính là người đầu tiên khơi ra chuyện về Austin Malone, người đã được đề tên trên một vài tòa nhà ở Đại học Bellamy. Austin đúng thật là cụ tôi, và lúc sinh thời, cụ vốn rất giàu có. Cụ đã thừa kế công việc kinh doanh từ cha mình: một xưởng sản xuất dây đồng cho đường dây điện thoại và ống đồng cho hệ thống ống nước. Nhưng xưởng sản suất là một nơi bụi bặm và cụ Austin Malone không hề có hứng thú dành thời gian ở những nơi bụi bặm như thế. Cụ đã bán xưởng sản xuất cho công ty Revere Copper sau khi cha cụ qua đời năm 1928 và dùng số tiền đó để mua nhiều uy tín và thanh danh nhất có thể.
Số tiền đó đã mua được khá nhiều. Cụ Austin Malone tránh không đầu tư vào thị trường chứng khoán và đã xoay xở vượt qua được thời kỳ Đại suy thoái cũng như Thế chiến thứ hai. Nhưng rồi cụ qua đời năm 1949 và bỏ lại 5 đứa con trai cùng 3 đứa con gái - một gia sản kếch xù được chia ra 8 phần, thành 8 gia tài khá khiêm tốn.
Chuyển cảnh đến hai thế hệ sau đó, không còn lại gì nhiều ngoài một cái tên được khắc chạm trên mặt ngoài bằng đá của một vài tòa nhà nào đấy cùng cuộc sống trung lưu thoải mái. Cha tôi là một nhà thầu xây dựng, ông đã cho tôi đi học Đại học chuyên ngành kỹ sư. Tôi có những người họ hàng có sự nghiệp vững chắc và thậm chí còn có một cậu em họ làm luật sư. Nhưng là bên luật thuế chứ không phải luật hình sự. Không phải lĩnh vực có thể giúp được tôi.
Vậy nên lời đe dọa của tôi đối với Frank Moretti chỉ là một lời nói suông: Tôi không thể gây ra bất cứ phiền toái nào cho ông ta. Và nếu ông ta muốn gây rắc rối cho tôi thì sẽ chẳng có ai trong gia tộc Malone có thể gọi một cú điện thoại và khiến nó biến mất.
Tôi không biết lời dối gạt của mình có tác dụng không, hay liệu Moretti có phải là một cảnh sát liêm minh không muốn bắt ai đó vì tội giết người khi chưa biết chắc, nhưng có điều đã thay đổi trong 20 phút ông ta vắng mặt. Khi quay trở vào phòng, ánh nhìn giận dữ đã không còn mà lại trông rất mệt mỏi. Ông ta đang cầm chiếc túi ni lông đựng ví, điện thoại và những vật sở hữu khác của tôi. Ông ta vứt chúng lên mặt bàn, giữ cửa cho tôi rồi nói:
- Anh có thể đi được rồi.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét