Thứ Tư, 5 tháng 8, 2020

Mục Tiêu Cuối Cùng - 5

Mục Tiêu Cuối Cùng
(The Last Dead Girl)

Tác giả: Harry Dolan
Dịch giả: Đỗ Phi
NXB Lao Động - 2018

5

Sáng hôm sau, tôi đã mắc phải một sai lầm thậm tệ.
Khi tôi tỉnh giấc thì Jana đã đến lớp. Cô để lại chìa khóa cùng một mẩu giấy nhắn bảo tôi khóa cửa trước khi đi. Tôi đi tắm và mặc lại quần áo đêm hôm trước, kể cả chiếc sơ mi mà cô đã khoác lên người. Tôi tự rót cho mình một ly nước cam lấy từ trong tủ lạnh của cô, rồi cầm nó ra đứng ngoài khoảnh sân sau.
Mặt trời buổi sáng đã hong khô bãi cỏ, nhưng trời sẽ còn mưa nữa. Khi dạo bước trên bãi cỏ, tôi nghe thấy tiếng một chiếc cào đang bập vào mặt đất. Bà chủ nhà của Jana đang làm việc ngay sân bên cạnh, đào xới luống hoa đã trồng từ năm ngoái, để chuẩn bị trồng loại cây mới.
Bà ấy gầy gò, còng còng và đã luống tuổi. Bà ấy trùm tóc lại bằng một chiếc khăn và mặc một cái váy tả tơi có lẽ từng được khoác trên người một nông dân từ thời Trung cổ. Tôi đã gặp bà ấy nhưng bà ấy chưa từng nói với tôi một lời nào và giờ cũng vậy, ngay cả khi tôi chúc bà ấy một buổi sáng tốt lành. Thay vào đó, bà ấy chỉ ném cho tôi một cái nhìn khó hiểu.
Tôi quay đi, nhìn về phía khu rừng và nhớ lại đêm hôm trước - cảm giác của Jana rằng cô đang bị kẻ nào đó theo dõi. Cô gạt nó đi, nhưng trong giây lát, trông cô thực sự sợ hãi. Tôi có lịch kiểm tra hiện trạng nhà vào chiều nay, nhưng lúc này thì tôi rảnh rỗi và có thời giờ để vào rừng đi dạo.
Tôi chỉ việc băng qua bãi cỏ. Tôi không chắc tại sao mình không làm thế, ngoại trừ tôi đang cảm thấy sự không đồng tình của bà chủ nhà. Ở đây, tôi là người lạ và không được chào đón. Tôi chỉ biết, bà ấy sở hữu khu rừng kia. Tôi chẳng có việc gì mà phải đi dạo trong đó cả.
Tôi uống nốt nước cam, cất ly vào trong nhà và lại ra ngoài, nhưng lần này, tôi ra bằng cửa chính, rồi khóa lại. Chiếc xe tải của tôi vẫn đang đỗ bên dưới gốc cây sồi. Tôi bước một vòng qua nó, rồi đi bộ về phía đông trên con đường nhỏ trước cửa nhà Jana cho đến khi ra tới một con đường lớn hơn gọi là Clinton. Cách 3 nhà về hướng nam trên đường Clinton là một sân chơi đổ nát: một sân bóng rổ nhưng không có lưới và một sân bóng chày không điểm mốc. Một tấm biển dựng bên đường có ghi CÔNG VIÊN CYPRESS.
Vài đứa trẻ đang chơi đùa trên một khung xích đu han gỉ. Những bà mẹ đang ngồi nói chuyện gần đó. Tôi băng qua sân bóng về phía bìa rừng và đi men theo cho tới khi thấy một lối mòn. Nó uốn lượn vô định qua thảm lá ướt mà mùa thu bỏ lại. Thỉnh thoảng, tôi nhìn thấy một cái vỏ kẹo hay vỏ lon đã bị giẫm bẹp - những thứ rác rưởi mà đám thiếu niên bất cẩn vứt lại.
Mặt đất bắt đầu dốc lên cao và con đường mòn cũng bằng phẳng hơn, chạy thẳng về hướng tây và hướng bắc. Nó dẫn tới một hẻm núi dốc đứng đột ngột, cao khoảng 6 mét. Con đường duy nhất để đi qua là cây cầu đi bộ nhỏ hẹp có lẽ đã từng có tay vịn nhưng giờ không còn nữa. Tôi chầm chậm băng qua cầu, lắng nghe từng tiếng lốp bốp và cót két phát ra từ những tấm ván gỗ.
Sau khi qua cầu, tôi ra khỏi đường mòn, tiến về bìa rừng phía bắc và phát hiện ra một vị trí nhìn thẳng ra bãi cỏ phía sau căn hộ của Jana cũng như một dáng người đang cúi lom khom cặm cụi bên chiếc cào - đó là bà chủ nhà đang làm việc trong khu vườn. Tôi đứng nấp sau lùm cây để bà ấy không nhìn thấy. Cách bìa rừng chưa đến 4 mét, tôi phát hiện ra một thân cây đổ bong tróc vỏ, một vị trí hoàn hảo cho ai đó ngồi lên và quan sát Jana dưới ánh trăng.
Tôi hẳn sẽ nghi ngờ nếu thấy một mảng bùn mới cùng những dấu chân rõ ràng. Nhưng mặt đất ở đây cũng được bao phủ bởi thảm lá ướt, vẫn chưa khô giống những chỗ khác. Nếu có vết chân thì cũng sẽ không thấy được. Tuy nhiên có một dấu vết rõ rệt cho thấy có ai đó đã từng ở đây: Một que kem bị gãy nằm chỏng chơ trên mặt đất bên cạnh thân cây đổ. Không tài nào biết được nó đã nằm đó bao lâu và ai đã bỏ nó lại. Có lẽ là một người canh gác vào ban đêm, hoặc một trong những đứa trẻ vị thành niên vô tâm đã vứt lại lon soda và vỏ kẹo kia.
Tôi quay trở lại con đường mình đã đi, băng qua cây cầu và lần theo lối mòn về công viên Cypress. Bọn trẻ đã bỏ rơi mấy chiếc xích đu và thay nhau chơi cầu trượt trong khi những bà mẹ canh chừng chúng. Tôi rời khỏi khu rừng và bước qua sân bóng. Chẳng ai để ý. Trên đường Clinton, một con sóc chuột đang bò men theo hàng rào bỗng sững lại khi trông thấy tôi rồi nhìn tôi đi qua. Lúc trở lại căn nhà song lập của Jana, tôi trông thấy một gã đàn ông mặc áo khoác dạ dài đang ngồi hút thuốc lá trên bậc cửa căn hộ của bà chủ nhà. Anh ta nhìn chằm chằm khi tôi bước lại gần lối vào, rồi khi tôi tiến đến gần cánh cửa nhà Jana, anh ta lấy chân di tắt điếu thuốc và đứng dậy.
- Này, kámoš [Tiếng Séc, có nghĩa là “anh bạn”]. Anh và tôi, chúng ta cần nói chuyện.
Tôi khựng lại khi đang xoay chiếc chìa khóa của Jana trong ổ.
- Tôi biết anh sao?
- Tôi không biết anh và anh cũng không biết tôi. Đó là chuyện chúng ta cần thảo luận.
Anh ta mặc sơ mi bằng lụa bên trong áo khoác và một thứ mà tất cả mọi người đều gọi là quần da.
- Anh không phải người thuê nhà, - anh ta nói và huơ huơ ngón tay về phía tôi. Như thể tôi đã làm chuyện gì đó sai trái.
- Đúng vậy, - tôi nói, - nhưng tôi có quen biết người phụ nữ hiện đang sống ở đây.
- Anh không nên giữ chìa khóa.
- Cô ấy cho tôi mượn chìa khóa dự phòng.
- Nên giờ anh nghĩ mình đang sống ở đây hả?
- Không, tôi chỉ ghé thăm thôi.
- Anh không sống ở đây. Cô ấy chỉ trả tiền thuê nhà cho một người mà thôi. Nếu là hai người thì phải trả thêm.
- Tôi chỉ ghé thăm thôi.
- Tôi không đồng ý. Cô ta vẫn còn nợ tiền nhà.
Anh ta có những vết sẹo do mụn trứng cá để lại cùng mái tóc chải ngược bóng loáng và nói giọng địa phương nhưng lúc có lúc không. Theo tôi nghĩ thì có lẽ là vùng Đông Âu, Séc hoặc Ba Lan.
- Anh có chìa khóa, - anh ta nói. - Có lẽ anh sẽ trả nốt số tiền cô ta còn thiếu.
- Anh là ai? - tôi hỏi.
Anh ta mỉm cười và hàm răng chắc chắn là người Đông Âu:
- Tôi là chủ nhà, kámoš.
Tôi lắc đầu:
- Chủ nhà là một bà lão tốt bụng và sống ngay bên cạnh.
- Đó là bà tôi. Bà ấy đứng tên nhà, còn tôi thu tiền thuê.
Anh ta thọc tay vào túi áo rồi đưa tôi một tấm danh thiếp nhếch nhác ghi: LANIK RENTALS, SIMON LANIK, ĐẠI LÝ CHO THUÊ NHÀ.
- Đó là tôi, - anh ta nói. - Anh trả hay không đây?
- Tại sao tôi phải tin anh? Bất cứ ai cũng có thể tự in ra một tấm danh thiếp.
- Ồ, anh có thể tin tôi mà, kámoš. - Anh ta nhìn lên bậc cửa nhà bên. Bà lão hiện giờ đang đứng bên cánh cửa đang hé mở. - Ê, bà ơi, - anh ta nói với bà ấy. - Anh ta đúng là một gã khôn lỏi.
Bà ấy gật đầu và phát bàn tay nhăn nheo trong không khí, như thể cảm thấy chán ghét cả hai chúng tôi.
Simon Lanik quay lại nhìn tôi:
- Anh có chìa khóa. Tốt thôi. Anh sẽ không ở lại đây lâu, cả cô gái kia cũng vậy. Trừ khi có người trả tiền.
- Jana còn nợ anh bao nhiêu? - tôi hỏi.
Anh ta chần chừ một chút, như thể đang thêm thắt gì đấy.
- 150, - anh ta nói.
- Tôi không mang ngần ấy tiền.
- Vậy anh có bao nhiêu, kámoš?
Tôi lấy ví ra.
- Bốn tờ 20, - tôi đáp. - 80 đô.
- Khởi đầu như thế là được rồi, - anh ta nói rồi với tay ra lấy tiền.
Tôi giữ lại và hất đầu về phía bà lão kia.
- Tôi sẽ đưa cho bà ấy, - tôi nói, - còn anh sẽ viết hóa đơn cho tôi.
Anh ta bật cười:
- Anh muốn gì cũng được, đồ khôn lỏi.

* * *

Sau khi tôi lấy được hóa đơn, Simon Lanik liền rời đi. Tôi bước vào nhà, tự đổ cho mình một bát ngũ cốc và nghĩ xem liệu Lanik có phải đã gây ra vết bầm trên gương mặt Jana hay không. Nhưng rồi tôi nghĩ rằng anh ta không phù hợp. Tôi nghĩ anh ta có thể tát một người phụ nữ nếu cô ấy không trả tiền đúng hạn, nhưng anh ta đã viết hóa đơn bằng tay trái, nguệch ngoạc nét bút chì trên mặt sau tấm danh thiếp. Vết bầm của Jana lại nằm phía bên trái khuôn mặt, nên tôi nghĩ chắc cô đã bị đánh bởi một người thuận tay phải.
Tôi mang bát ngũ cốc vào phòng khách và ngồi xuống chiếc bàn. Cô có một quyển sổ ghi địa chỉ bìa hình bươm bướm. Tên và số điện thoại được ghi lại trên giấy vì cô không có di động. Kẻ đã đánh cô chắc là một gã đàn ông, bởi chỉ có đàn ông mới đi đánh phụ nữ. Có thể là một ai đó quen với cô, vậy nên tên của hắn có lẽ cũng được ghi trong sổ. Tôi lật từng trang và thấy có khoảng 30 đầu mục. Không cái tên nào trong số đó gây ấn tượng với tôi, ngoại trừ: Roger Tolliver. Jana đã từng nhắc đến ông ta. Ông ta là một trong những giảng viên ở trường Luật, một ngôi sao mới nổi của khoa.
Tôi lấy tập giấy vàng, dùng bút chép cả tên lẫn số điện thoại của ông ta vào. Tôi không biết mình sẽ làm gì với nó. Gọi cho ông ta và hỏi có phải ông ta đã đánh vào mặt cô không ư? Hay hỏi đêm qua ông ta có lẩn khuất trong rừng cùng với một cây kem không?
Tôi có thể nghĩ ra sau. Còn giờ, tôi chép thêm vài cái tên nữa - tên của những người đàn ông có thể tìm thấy được trong danh bạ. Rồi tôi nhớ lại đêm mình gặp gỡ Jana. Tôi gọi nó là Đêm con hươu cái. Cô đã mang theo một tập tài liệu vào đêm hôm đó, một tập bìa cứng màu xanh lá kẹp giấy tờ dày cộp.
Tôi tò mò muốn biết trong đó có gì, tôi đã nói vậy.
Anh thật tọc mạch.
Kể từ hôm đó, tôi không nhìn thấy tập tài liệu ấy nữa. Nhưng chiếc bàn có một ngăn kéo đựng hồ sơ. Tôi mở nó ra và thấy cả đống bìa kẹp hồ sơ được nhồi nhét bên trong. Không có cái nào được dán nhãn, ngoại trừ một cái, đủ dày để có thể là cái mà tôi đang tìm kiếm. Tôi định lấy nó ra và đó là khi tôi mắc phải một sai lầm thậm tệ.
Tôi đã dừng tay.
Bởi vì Jana Fletcher đã tin tưởng để tôi ở trong nhà cô một mình. Cô đã đưa tôi chìa khóa và cũng nói rõ cô không muốn kể cho tôi nghe chuyện gì đã xảy ra với gương mặt mình hay nội dung của tập tài liệu.
Vậy nên tôi đóng ngăn kéo lại.
Nhưng giữ những cái tên đã chép. Tôi xé tờ giấy ra, gấp lại và nhét vào túi quần. Nhưng tôi không làm gì với nó - cho đến sau khi cô qua đời.

* * *

Hôm đó là sáng thứ Năm, ngày 24 tháng 4. Trong những ngày sau đó, tôi đã biết được vài thông tin quan trọng về Jana Fletcher. Tôi biết được rằng cô chào đời vào đúng ngày Xuân phân, cung Bạch Dương, dù cô vẫn không tin vào thuật chiêm tinh. Tôi cũng biết rằng lúc còn nhỏ, cô từng bị gãy tay khi đang chơi xích đu buộc dây thừng và có lần giẫm phải một con rắn chuông, nhưng được cứu nhờ đôi bốt da cao đến tận đầu gối.
Tôi biết được rằng cô chơi tennis, nhưng không giỏi lắm, cô đã học múa ba lê và từng đóng vai Rosalind trong vở Xin tùy ý* ở trường Trung học.
*[Nguyên văn: As You Like It. Một vở hài kịch về cuộc sống nông thôn của William Shakespeare được viết trong khoảng thời gian 1599-1600. Rosalind là nhân vật chính]
Tôi biết được rằng cô có một giọng hát rất hay, rằng Sheryl Crow và Dar Williams là hai nhạc sĩ mà cô yêu thích.
Tôi biết được rằng cô rất yêu chó - những chú chó thuần chủng xinh đẹp, chó lai trong những trại thú lẫn những chú chó nhỏ xíu dễ kích động với đôi mắt đen tròn và nhiều lông. Cô không nuôi chó nhưng mỗi khi gặp chúng ở trên đường, cô không thể không dừng lại vuốt ve.
Tôi biết được rằng cô thích màu chàm, chủ yếu là vì cô thích từ này. Nhà hàng yêu thích của cô có tên là The Falcon trên đường Madison ngay gần trường Đại học và cô thích ngồi tại một chỗ nhất định ở phía sau, nơi có một chiếc ca nô được buộc dây vào trần nhà.
Tôi biết được rằng cô thường thắp nến bất cứ khi nào về tới nhà và cô có thể nấu ăn mà không cần chỉ dẫn hay để ý tới từng chi tiết nhỏ nhặt nhất - chẳng hạn như chuyện tôi đã lướt qua sổ địa chỉ của cô và chép vài cái tên lên một trang trong tập giấy vàng.
Tôi phát hiện ra điều ấy vài ngày sau đó. Vào buổi tối Chủ nhật, bên ngoài trời mưa lạnh nhưng Jana và tôi ngồi trong phòng khách với bên lò sưởi đang cháy. Lúc đầu thì còn đứng mặc đủ quần áo, sau thì đã khỏa thân nằm trên sàn. Đến một lúc, chúng tôi tỉnh táo đủ để đặt chăn và gối xuống để không phải nằm trên sàn gỗ.
- Em biết anh làm gì rồi nhé, - cô nói.
Cô nằm ngay bên cạnh tôi, đầu gối lên tay tôi, lòng bàn tay đặt lên trái tim tôi, còn chân phải thì cuốn quanh chân tôi. Tôi thắc mắc ý cô là gì và nghĩ chắc hẳn cô đang nói đến Simon Lanik cùng vụ tiền thuê nhà.
Tôi nói:
- Không có gì. Chỉ là 80 đô thôi mà.
- Không phải chuyện đó, - cô nói và chống khuỷu tay nằm nghiêng. - Dù em cũng biết cả chuyện đó nữa. Thật ngọt ngào, nhưng anh không cần làm vậy đâu. Em có thể tự giải quyết được gia đình Lanik. Và em sẽ trả lại anh sau.
Tôi không quan tâm cô có trả lại hay không, nhưng tôi không nói ra mà bảo:
- Được rồi. Vậy anh còn làm điều gì khác nữa?
Jana lăn xa khỏi tôi và đứng dậy, lấy tập giấy vàng trên bàn và mang lại phía tôi. Cô ngồi trên eo tôi và cầm tập giấy để tôi có thể nhìn thấy.
Tôi đã xé tờ giấy mình viết lên khỏi tập giấy, nhưng nét bút đã để lại những vết hằn trên trang dưới. Cô đã dùng một chiếc bút chì cùn tô nhẹ lên tờ giấy làm những dòng chữ in hằn bên dưới hiện ra.
Thật là thông minh. Tôi buộc phải mỉm cười.
- Em học trò đó ở đâu vậy? - tôi hỏi cô.  - Những cậu con trai nhà Hardy à? [Nguyên văn: The Hardy Boys, những nhân vật hư cấu trong series tiểu thuyết trinh thám phiêu lưu cùng tên dành cho trẻ em và thanh thiếu niên, của nhà văn kiêm nhà sản xuất Edward Stratemeyer]
- Nancy Drew, - cô nói. [Nhân vật hư cấu trong series tiểu thuyết trinh thám bí ẩn cùng tên, cùng tác giả với The Hardy Boys]
- Anh có thể giải thích.
- Không cần. Anh vẫn chưa gọi cho ai trong số những người đó, đúng không? Anh chưa thử lần ra họ đấy chứ?
- Chưa. Anh rất muốn nhưng đã nghĩ lại.
Jana quăng tập giấy đi.
- Em cảm thấy rất vui. Về cả hai chuyện đó. Vui vì anh muốn nhưng lại không đầu hàng cám dỗ ấy. - Rồi cô đặt tay lên vai tôi. - Em chỉ muốn nói rõ mọi chuyện thôi.
Tôi vươn tay chạm vào vết bầm trên má cô.
- Nếu định nói rõ ràng mọi chuyện, chúng ta nên nói về đêm hôm đó. - Đêm con hươu cái. - Có một chuyện...
Nhưng cô lắc đầu:
- Quên đi. Đó chỉ là chuyện ngớ ngẩn mà thôi. Nó kết thúc rồi. - Cô quay đầu để tôi có thể nhìn được một bên mặt cô. - Nhìn này, - cô nói. - Nó đang mờ dần đi. Chỉ vài ngày nữa thôi anh sẽ không còn nhìn thấy nó nữa.
- Đó không phải những gì anh định nói. Còn chuyện khác nữa. Em chưa bao giờ hỏi tại sao anh lái xe ra ngoài đêm hôm ấy...
Cô đặt ngón tay lên môi tôi để ngăn tôi nói tiếp.
- Điều đó có quan trọng không? - cô nói.
Tôi gật đầu.
- Bây giờ, em không muốn nói tới chuyện nghiêm túc hay quan trọng, - cô nói. - Nhưng em sẽ thỏa thuận với anh. - Cô trở mình và vòng chân quanh hông tôi. - Một lúc nữa, nếu anh vẫn còn điều cần nói, thì hãy kể cho em.
Cô nhấc ngón tay ra khỏi môi tôi nhưng tôi không nói gì cả. Khi cô đưa hai tay lên đỉnh đầu và uốn cong lưng, tôi vẫn không nói gì. Cô nhấc người lên rồi hạ xuống và chỉ một lúc sau, tôi đã quên bẵng mất rằng mình có chuyện cần kể.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét