Thứ Ba, 18 tháng 8, 2020

Mục Tiêu Cuối Cùng - 33

Mục Tiêu Cuối Cùng
(The Last Dead Girl)

Tác giả: Harry Dolan
Dịch giả: Đỗ Phi
NXB Lao Động - 2018

33

- Anh để lại cho lão ta một lời nhắn, - Roger Tolliver nói, - trên gối.
- Tôi muốn chắc chắn lão ta sẽ tìm thấy nó, - tôi nói.
Chúng tôi đang ngồi trên hiên nhà của Tolliver khi chỉ còn chưa đầy một tiếng nữa là hoàng hôn. Tôi tóm gọn những gì mình đã làm cho ông ta nghe: mối liên hệ của tôi với Moretti và những người tôi đã nói chuyện. Những người mà có lẽ tôi không nên làm phiền: Megan, Neil Pruett, Gary Pruett tại Dannemora, luật sư của Pruett, Angela Reese và Wendy Daw. Tôi để dành Poe Washburn đến cuối.
- Lời nhắn viết gì? - Tolliver hỏi.
- Chỉ là tôi cần phải nói chuyện với lão ta về Frank Moretti và Gary Pruett. Ngắn gọn thôi. Tôi đã viết nó lên mặt sau tấm danh thiếp.
Tolliver uống một ngụm bia rồi đưa chai qua mời tôi, nhưng tôi từ chối. Ký ức về Becherovka khiến tôi cảnh giác với bất cứ thứ gì có cồn. Có vẻ bia chẳng giúp ích được gì cho Tolliver. Dường như ông ta đang không thoải mái. Lo lắng.
- Anh đã chọc giận Moretti, - ông ta nói, - và bây giờ xem ra anh đang tìm rắc rối từ Poe Washburn. Anh thực sự nghĩ rằng lão ta sẽ gọi cho mình?
- Có thể. Hoặc có thể lão ta sẽ đến gặp tôi. Tôi đã viết cả địa chỉ của mình lên tấm danh thiếp.
Tolliver cau mày.
- Tại sao?
- Đó là một phần lời nhắn tôi gửi cho lão ta. Chúng tôi là hai con người có văn hóa. Tôi sẽ không săn đuổi lão ta. Tôi yêu cầu lão ta đến gặp mình. Tôi cho thấy mình tôn trọng lão ta.
Tolliver trông có vẻ hoài nghi. Ông ta nghiêng người về phía trước khi vẫn ngồi trên ghế và đặt lon bia xuống nền hiên. Sợi dây xích chó để dưới chân. Chú chó Roger đang chạy vòng quanh sân có hàng rào khi tôi đến. Nó vẫn còn ở trong đó, nhưng đã bình tĩnh lại và đang nằm gặm một khúc xương bằng da.
Tôi nhìn Tolliver nhặt sợi dây xích lên - một sợi xích dài có kẹp ở một đầu và vòng cổ bằng da ở đầu kia. Ông ta luồn ngón tay qua vòng cổ và xích quanh tay vài vòng. Phần còn lại của sợi xích kéo lê qua mặt sàn gỗ. Cơn đau đầu của tôi gần như đã biến mất, nhưng những tiếng leng keng và lạch cạch của sợi xích đang nhăm nhe mang nó quay trở lại.
- Dừng lại đi, - tôi nói.
Ông ta quắc mắt nhìn tôi, rồi bắt đầu tháo sợi xích ra.
- Ông bị làm sao vậy? - tôi hỏi ông ta.
- Chẳng sao cả, - ông ta nói và thả sợi xích xuống.
- Ông đang bồn chồn. Trông không được ổn lắm.
Đúng thế. Trán ông ta lấm tấm mồ hôi. Quần áo thì trông như vừa ngủ dậy. Tôi tự hỏi ông ta có uống gì nữa ngoài bia không.
- Tôi ổn, - ông ta nói.
- Không đâu.
- Được rồi, tôi đang lo lắng, - Tolliver nói - Nếu anh đúng về Moretti, ông ta có thể rất nguy hiểm. Tôi không chắc chắn anh đã suy nghĩ kỹ.
- Tôi đã nghĩ kỹ rồi.
- Anh nghĩ rằng ông ta đã vu khống Gary Pruett, - Tolliver nói. - Có lẽ Jana cũng nghi ngờ như vậy. Nếu Moretti biết điều đó, ông ta sẽ có động cơ giết cô ấy.
- Có thể. Nhưng tôi thấy khó mà hiểu được nó.
- Và nếu Moretti lo sợ Poe Washburn có khả năng sẽ nói ra sự thật về Pruett, vậy thì có thể ông ta đã châm lửa đốt nhà Washburn.
- Tôi không biết đó có phải phong cách của ông ta hay không, - tôi nói. - Ông ta có thể tìm được những cách khác để xử lý Poe. Ông ta có thể đe dọa đấm vào bụng lão ta.
Tolliver ngồi chống hai tay để lên đùi. Ông ta bóc một mảng da khô trên lòng bàn tay trái.
- Anh nên tránh xa Frank Moretti, - ông ta nói. - Anh sẽ không bám theo ông ta lần nữa chứ?
Tôi nhìn đồng hồ.
- Giờ cũng đã muộn rồi.
- Anh không nghiêm túc với chuyện này.
- Không phải. Đó là lý do tôi đang nghĩ đến chuyện bám theo ông ta lần nữa. Ông ta đã cảnh cáo tôi không được làm như thế, Roger ạ. Nhưng rồi ông ta gọi và bảo ông kiểm soát tôi. Tôi nghĩ ông ta sợ tôi sẽ biết được điều gì đó mà ông ta không muốn cho tôi biết.
- Cứ để mặc ông ta đi, - Tolliver nói.
- Tôi không biết mình có thể làm vậy không. Tôi nghĩ ông sẽ đồng cảm với tôi hơn và hy vọng ông có thể cho tôi mượn xe.
- Tại sao?
- Bởi vì tôi đang lái một chiếc xe tải có tên tôi trên đó. Tôi cần một cái gì đó ít gây chú ý hơn.
Tolliver chợt đứng dậy và lắc đầu.
- Tuyệt đối không. Nếu anh quyết tâm chơi với lửa, tôi không thể ngăn cản anh. Nhưng tôi sẽ không giúp đỡ anh. Phải có người cư xử như người lớn ở đây. Đáng lẽ tôi nên làm vậy từ lâu rồi.
Ông ta đi tới mép hiên và nhìn ra ngoài sân. Bên trong hàng rào mắt cáo, chú chó Roger cũng đã đứng dậy.
- Ý ông là gì? - tôi hỏi.
Tolliver quay lưng lại phía tôi.
- Ý tôi là nếu lúc trước tôi làm điều đúng đắn, chúng ta sẽ không lâm vào hoàn cảnh này. Đáng lẽ Jana không bao giờ nên làm việc với tôi. Cô ấy chỉ là sinh viên Luật năm nhất. Nhưng vì cô ấy rất nhiệt tình, nên tôi đã chấp nhận một ngoại lệ. Nếu tôi không làm vậy, cô ấy sẽ không bao giờ nhận được cuộc gọi từ Poe Washburn, không bao giờ biết đến vụ án của Pruett. Nhưng cô ấy đã biết rồi bị cuốn vào nó. Đáng lẽ tôi nên bắt cô ấy từ bỏ. Có lẽ giờ cô ấy vẫn còn sống.
- Chỉ vì thế ư? - tôi nói. - Ông không phải chịu trách nhiệm về những gì đã xảy ra với cô ấy.
Tolliver quay lại ngồi đối diện tôi.
- Tôi có trách nhiệm hơn anh, - ông ta nói. - Nhưng hãy nhìn những gì anh đang làm mà xem. Anh đang cố sửa chữa những gì đã xảy ra, ngay cả khi anh biết không thể sửa chữa được. Và anh sẽ còn tiếp tục đeo đuổi cho đến khi khiến chính mình bị giết. Tôi muốn ngăn điều đó xảy ra.
Ông ta cúi đầu xuống và luồn tay vào mái tóc xoăn. Khi lên tiếng lần nữa, giọng ông ta mang đầy vẻ cầu khẩn:
- Nghe này, tôi biết anh đang cảm thấy gì. Jana thật quý giá. Cô ấy không đáng phải nhận lấy những gì đã xảy đến. Ngay cả bây giờ, anh cũng nghĩ phải có gì đó anh làm được cho cô ấy. Nhưng đã quá muộn. Cô ấy đã đi rồi.
Ông ta không nhìn vào mắt tôi. Ông ta cầm chai bia lên nhưng không uống. Tôi nghĩ có lẽ ông ta đang khóc.
- Ông có cần chút thời gian riêng tư không, Roger? - tôi nói.
- Không.
- Ông có muốn nghỉ ngơi và đi rửa mặt không?
- Không, tôi ổn. - Giọng nói ông ta lạc đi. Chắc chắn là ông ta đang khóc.
- Vậy còn cần thêm bao lâu nữa? - tôi nói.
- Gì cơ?
- Tôi chỉ muốn biết đã đến lúc chưa.
- Đến lúc?
- Đến lúc ông nói với tôi.
Ông ta lấy tay áo lau mặt, rồi ngước lên nhìn tôi và hắng giọng.
- Anh không muốn nghe đâu, - ông ta nói.
- Vậy thì ông sai rồi, Roger. Tôi chẳng muốn nghe thêm một điều gì từ ông. Nhưng ông cần phải gợi ý cho tôi. Nó nghiêm trọng đến mức nào? Ông không hề giết cô ấy.
Câu nói đó đã chọc tức ông ta:
- Anh biết là không phải mà.
- Được rồi. Vậy thì tệ đến mức nào? Ông đã gạ gẫm cô ấy?
Ông ta chậm rãi ngả người xuống ghế và giữ cái chai trong lòng.
- Anh biết chuyện đó bao lâu rồi? - ông ta hỏi.
- Tôi không hề biết chuyện đó cho tới vừa nãy, khi ông nói với tôi cô ấy rất quý giá. Nhưng tôi đã nghi ngờ từ lâu rồi, ngay từ khi ông cố đổ lỗi cho con chó về vết bầm tím của cô ấy.
Ông ta liếc nhìn con chó đang chạy. Tôi cũng thế. Chú chó Roger đang đào đất dưới hàng rào.
- Nó đúng là chơi đùa rất thô bạo, - Tolliver nói.
- Tôi biết.
- Hôm ấy, Jana đã cùng chơi với nó. Hôm Chủ nhật, một tuần trước khi cô ấy qua đời.
Là 10 ngày. Tôi biết rõ điều đó cũng như những thứ khác. Tôi lờ đi.
- Cô ấy chơi trò ném bóng với nó trong nhà, - Tolliver nói. - Nó xô ngã cô ấy. Nhưng nó không gây ra vết bầm đó. Cũng không làm đau cô ấy. Cô ấy chỉ bật cười rồi đứng dậy. Cô ấy tới đây để thảo luận về Gary Pruett và Napoleon Washburn, nhưng chúng tôi còn nói những chuyện khác nữa. Về các con tôi. Tôi có một đứa con gái 7 tuổi và một con trai 9 tuổi. Chúng sống cùng với mẹ ở St. Louis. Tôi chỉ được gặp chúng vào mùa hè hoặc trong những ngày nghỉ lễ. Jana muốn nghe tất cả về chúng. Tôi thích nói chuyện với cô ấy. Tôi quên mất chúng tôi là ai, quên mất cô ấy là sinh viên của mình.
Ông ta đang nhìn xuống đùi mình, kể chuyện cho cái chai.
- Thời gian trôi qua và Jana đứng dậy ra về, - ông ta nói. - Nhưng cô ấy nán lại và chúng tôi tiếp tục nói chuyện khi đứng trong phòng khách, con chó thì nằm im lặng trên sàn nhà. Jana - anh biết cô ấy xinh đẹp đến nhường nào rồi đấy. Tôi đã hôn cô ấy. Tôi đã đặt tay lên người cô ấy, kéo cô lại gần, cảm giác thật trôi chảy, nhưng có lẽ là vô cùng lúng túng. Nó khiến cô ấy sợ hãi. Tôi không ngờ lại thành ra như thế. Cô ấy không chỉ đẩy tôi ra mà còn bỏ chạy. Tôi nghĩ mình đã nắm lấy áo cô ấy, làm đứt mấy chiếc cúc. Rồi đột nhiên con chó đứng lên sủa và Jana đang chạy ra phía cửa. Tôi chạy theo. Tôi muốn xin lỗi. Trên cửa có chốt và nó đã bị khóa. Nhưng cô ấy không nhận ra. Cô ấy vất vả xoay nắm cửa nhưng nó không mở ra. Cô ấy trở nên hoảng loạn.
Tôi bước đến phía sau cô ấy, cố gắng nói với cô ấy tôi xin lỗi, nhưng thế chỉ khiến mọi chuyện tệ hơn. Cô ấy đang kéo cánh cửa khi tôi với tay xoay chốt cho cô ấy ra ngoài và cánh cửa bật tung ra, cánh của nó đập vào má cô ấy. - Tolliver dừng lại để hít thở. - Cô ấy đã khá hơn ngay khi ra đến bên ngoài, nhưng cô không ở lại. Đáng lẽ, tôi có thể mang cho cô ấy thứ gì đó. Một túi đá chẳng hạn. Nhưng cô ấy vội vã ra xe và nhanh chóng rời đi. Tôi đã nghĩ đến chuyện đi theo cô ấy, nhưng như thế có vẻ không đúng. Chuyện cô ấy sợ tôi như vậy cảm giác thật kinh khủng.
Ông ta ngẩng đầu lên và dán chặt mắt vào tôi:
- Tôi đã tua đi tua lại cảnh tượng đó hết lần này đến lần khác, - ông ta nói. - Tôi không biết nữa, có lẽ thật vị kỷ, nhưng dường như có điều gì khác nữa đã xảy ra đêm hôm đó. Như thể không phải vì tôi, hay hành động vụng về của tôi. Trong giây phút đó, cô ấy đã ở một nơi nào khác. Và đó chẳng phải một nơi tốt đẹp - không phải nơi mà tôi muốn nghĩ tới.

* * *

Chuyển cảnh
Ngày 27, tháng 7, năm 1996

Jana Fletcher có những giấc mơ tàn nhẫn.
Cô mơ thấy cuộc sống của mình trước khi gặp anh em nhà Daw. Mơ được thức dậy trong căn nhà của mẹ, an toàn trên chiếc giường của chính mình. Đôi khi trong những giấc mơ ấy, bà ngoại vẫn còn sống, nhưng có lúc lại không. Đôi khi, cô biết đó chính là ngày mình sẽ chuyển đến New York. Nhưng lần nào cũng vậy, mỗi khi mở mắt ra, cô đều nhìn thấy ánh sáng mặt trời tràn vào qua cửa sổ phòng ngủ của mình.
Còn có cả những giấc mơ khác nữa, nhưng chúng cũng tuân theo cùng một khuôn mẫu đó.
Vào ngày 27 tháng 7, Jana mơ thấy mình trở lại trường Đại học và đang đóng vai Beatrice trong vở Có gì đâu mà rộn. Có một cậu chàng đến thử vai Benedick nhưng lại không có tài. Cậu ta không được nhận vai. Cậu ta đã ở lại dựng cảnh sân khấu, làm công tác chuẩn bị đạo cụ và ánh sáng. Và vào đêm diễn cuối cùng, cậu ta đã lấy hết can đảm mời cô đi uống nước. Trong giấc mơ ấy, cô đã thức dậy ngày hôm sau trên chiếc giường của chàng trai ấy với bàn tay cậu ta đặt trên hông mình. Rèm cửa trong phòng ký túc xá của cậu ta đều đã được kéo xuống nhưng cô vẫn có thể nhìn thấy ánh bình minh chiếu xuyên qua. Cô xuống giường, bước đến cửa sổ và mở rèm cửa...
Cô tỉnh giấc trong bóng tối đen kịt. Lúc nào cũng mơ màng một lúc trước khi nhớ ra mình đang ở đâu - trước khi nhớ ra rằng cái phần mà đáng lẽ ra chỉ nên là ác mộng lại có thật. Cô trở mình nằm ngửa và nghe thấy tiếng lách cách quen thuộc của sợi dây xích. Toàn thân cô đau nhức. Cô cảm thấy tấm đệm mỏng bên dưới thân mình. Tấm chăn đắp lên người làm da cô ngứa ngáy. Cô ngồi dậy và quăng nó đi. Giờ thì tìm quần áo. Đồ lót kéo xuống dưới cổ chân, váy đẩy lên tận eo. Áo cánh và áo ngực đang nằm trong tầm với - cô quờ quạng tìm chúng.
Không có chút ký ức về người đã ở cùng với cô. Nhưng rõ ràng là có người. Nếu phải đoán thì đấy là Eli. Cô có cảm giác Eli sẽ đến lấy những gì mình muốn rồi rời đi. Luke có khả năng sẽ ở lại và chỉnh trang cho cô. Nghĩ kỹ thì chuyện đó có khi còn tệ hơn.
Một câu hỏi dành cho lúc khác: Trong số chúng, ai là kẻ hiếp dâm tồi tệ hơn. Bây giờ, Jana muốn được đi tắm. Được thật sự đi tắm trong bồn nước nóng. Cô sẽ không có được nhưng cô có thể nghĩ về nó. Nghĩ về tiếng nước chảy. Cảm giác lềnh bềnh khi chỉ mỗi khuôn mặt nổi lên trên. Những ô gạch trắng lấp lánh. Nến thắp sáng lung linh trên cạnh bồn tắm. Cửa sổ mở toang đón không khí mùa hè, một bình hoa đặt trên bệ cửa sổ.
Cô cho mình một phút để đầu hàng trước những hình ảnh đó, rồi mò mẫm xung quanh cho đến khi chạm vào một chai nhựa nằm ngang trên mặt sàn. Cô mở nắp, đổ nước ra tay rồi lau mặt và cổ. Sau đó, cô vặn nắp chai lại và đặt nó sang một bên. Mặc lại quần áo. Mò tới bức tường phía sau của nhà tù, lần dọc theo đường gờ giữa bức tường và sàn nhà cho đến khi thấy đồng 25 xu của mẹ cô.
Ngón tay cái của cô lần theo cạnh tròn và tìm thấy đầu nhọn mình đang mài. Chà đồng xu vào mắt sợi dây xích là một nhiệm vụ máy móc và chậm chạp. Cố gắng biến một góc đồng xu thành một cái tuốc-nơ-vít. Jana dựa lưng vào tường, thu sợi dây xích lại và bắt đầu vào việc.
Không có âm thanh nào khác ngoài tiếng ken két của kim loại cọ lên kim loại, nhưng cô có giọng nói của chính mình trong đầu làm bạn. Đôi khi, cô đọc những dòng thoại trong các vở kịch. Vai Miranda trong Giông tố: Kỳ diệu thay! Chốn đây có biết bao nhiêu sinh vật đẹp đẽ! Nhân loại mới xinh xắn làm sao! Một thế giới mới mẻ và can đảm, có những con người như thế!
Hay vở Cyrano de Bergerac. Cô đóng vai Roxane, nhưng Cyrano lại có những lời thoại hay hơn: Hát, cười, ước mơ, đi con đường của chính ta và được ở một mình, tự do, cùng một con mắt nhìn được vạn vật... Ngao du trên những con đường dưới ánh mặt trời, dưới những vì sao lấp lánh...
Những lần khác - như lúc này chẳng hạn - trong đầu cô lại vang lên một bản nhạc nào đó. Lần này là một ca khúc của Sheryl Crow: All I Wanna Do. Sôi nổi và dai dẳng. Lúc đầu, Jana đã cố kháng cự lại, nhưng rồi cô đành đầu hàng.
Rốt cuộc, tay cô cũng mỏi rã rời vì nắm chặt đồng xu. Cô nghỉ ngơi một chút và tiếng ken két cũng dừng lại. Nhưng không hề. Cô nghĩ mình đã nghe thấy một tiếng động khác phát ra từ phía bên kia căn phòng.
Tiếng ken két. Tiếng cào sột soạt.
Bản nhạc của Sheryl Crow phai dần trong tâm trí. Jana đặt đồng xu xuống, từ từ đứng dậy.
Lắng nghe.
Giờ cô không nghe thấy gì cả.
Chẳng biết cô đã đứng đó bao lâu trong bóng tối, lưng dựa vào tường và một cơn ớn lạnh lan dọc theo gáy. Không thể có ai ở trong phòng với cô. Luke Daw luôn mang theo đèn. Anh ta sẽ không đứng im trong bóng tối. Cô sẽ có thể nghe thấy tiếng thở của anh ta.
Tiếng cào. Cô lại nghe thấy nó một lần nữa.
Một con vật, cô nghĩ. Có lẽ là một con chuột. Nhà tù của cô được xây dựng kiên cố với những tấm ván gỗ đặt gần nhau, nhưng hẳn phải có khe hở. Không khí vẫn lọt qua. Nếu không, cô đã chết ngạt từ lâu rồi. Cô chưa bao giờ cảm thấy có kẽ hở đủ lớn để một con chuột chui qua, nhưng cô chưa khám phá hết được mọi ngóc ngách trong căn phòng. Sợi dây xích đã ngăn cản cô làm việc đó. Có những chỗ cô không thể với tới được.
Jana bước xa khỏi bức tường, dừng lại một lần nữa và lắng nghe. Tiếng cào. Chắc chắn. Thứ âm thanh mà móng vuốt tạo ra. Hoặc là móng tay.
- Luke? - cô nói.
- Không buồn cười đâu, - cô nói. Giọng nói phát ra cao hơn mong muốn, đến nỗi cô có thể nghe thấy sự run rẩy.
- Eli? - cô nói.
Cô tiến thêm một bước nữa, hai tay giơ ra trước, tóm vào không gian trống trơn. Thêm một bước nữa và tay cô khua trong không khí, càng lúc càng sợ hãi mình sẽ chạm vào một vật thể cứng rắn.
Cô đã đi hết sợi dây xích.
- Luke! - cô hét lên.
Thanh âm ấy bị căn phòng nuốt trọn. Cô đứng bất động với hai tay giơ ra phía trước.
Cô chỉ có một mình. Phải là thế.
Tiếng cào. Ngay trước mặt.
Jana cúi xuống và luồn những ngón tay bên dưới sợi xích quấn quanh mắt cá chân. Cô cố kéo tuột nó xuống bên trên gót chân, nhưng không tài nào làm được. Cô biết. Cô ngồi xuống, dùng cả hai tay nắm quanh sợi dây xích và kéo mạnh để giật nó ra khỏi chốt. Cô bước lại chỗ bức tường, chống hai chân lên bên cạnh sợi xích và kéo hết sức mình, hết lần này đến lần khác, cho tới khi cô đẫm mồ hôi, không thể nắm sợi xích được nữa.
Cô ngã ngửa và thở hổn hển trong bóng tối.
Nhiều phút trôi qua. Cô dùng khoảng thời gian đó kiểm soát hơi thở và thuyết phục bản thân tiếng cào kia hẳn là do một con chuột gây ra. Cô không sợ chuột. Cô tìm thấy chai nước và nhấp một ngụm. Đứng dậy đi về phía cánh cửa cho đến khi sợi xích ngăn cô lại. Cô quỳ xuống và nằm sấp. Nếu duỗi một cánh tay ra, cô có thể chạm được đầu ngón tay vào bên dưới cánh cửa.
Tiếng cào. Cô nghe thấy rất rõ ràng. Cô chuyển chai nước từ tay này sang tay kia rồi dùng nó gõ một phát vào cánh cửa. Cô nghe thấy tiếng một con chuột chạy mất.
Jana buông cái chai ra và cảm thấy nhẹ nhõm. Cô thở dài rồi nằm áp má lên sàn. Cái chai lăn đi. Cô nhắm mắt và cho phép bản thân cảm nhận không khí lấp đầy hai lá phổi rổi lại trút ra hết. Cái chai ngừng lăn. Một lát sau, cô mở mắt ra nhưng không phải vì con chuột đã quay trở lại và tiếng cào lại bắt đầu, mà vì cô nhận ra có gì đó khang khác trong không khí phía bên này căn phòng.
Có lẽ là một sự khác biệt nho nhỏ trong mùi của nó - dù sự khác biệt nhỏ đó có thể rất khó phát hiện. Loại gỗ dùng để dựng nên nhà tù của cô có mùi riêng và bên dưới nó có nhiều thứ mùi khác: mùi đất, ẩm mốc và ban sơ. Còn những mùi khác nữa - thứ mùi không thể tránh khỏi khi nhà vệ sinh chỉ là một chiếc xô nhựa, có đậy nắp và được thay bằng xô sạch. Vì vậy, có lẽ không phải sự khác biệt về mùi phân biệt bên này với bên kia căn phòng, nhưng đúng là có gì đó. Một cảm giác trong không khí. Một sự nặng nề. Một sự hiện diện.
Con chuột cào vào cánh cửa và Jana đang bò trên mặt sàn. Cô nâng tay phải lên và vươn ra hết mức có thể, khám phá không gian bên phải cánh cửa. Cô vươn xa hết mức sợi dây xích cho phép, đầu ngón tay kéo căng, nhưng vẫn không thể chạm tới góc phòng.
Sau đó, cô bò ngược trở lại và lần này thì giơ tay trái ra. Những ngón tay xòe rộng, với cao tìm kiếm trong không khí, rồi hạ dần xuống. Khẩn trương. Cô vươn ra xa hơn, sợi dây xích cọ vào mặt sàn. Cô lần mò trong bóng tối.
Rồi đột ngột thu tay lại và tránh đi chỗ khác với một tiếng hét nghẹn lại trong cổ họng. Cô va phải bức tường, mất thăng bằng và ngã sang một bên, co rúm lại, run rẩy, đầu gối co lên, kẹp lấy hai bàn tay. Toàn thân cô run rẩy, run rẩy và cuối cùng, tiếng thét thất thanh thoát ra. Bởi cô biết mình vừa chạm vào khuôn mặt ai đó.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét