Mục Tiêu Cuối Cùng
(The Last Dead Girl)
Tác giả: Harry Dolan
Dịch giả: Đỗ Phi
NXB Lao Động - 2018
36
Neil Pruett đã cho tôi mượn xe.
Thuyết phục hơi khó một chút. Chúng tôi
cùng đứng trên bãi cỏ phía trước nhà anh trai anh ta và tôi đã giải thích rằng
tôi nghĩ Frank Moretti đang có bí mật. Nếu có thể bám theo Moretti và tìm ra bí
mật đó là gì, có lẽ nó sẽ giúp tôi chứng minh được Moretti đã vu khống Gary. Nó
có thể đưa chúng tôi gần hơn tới mục tiêu mang Gary ra tù. Vấn đề là Moretti sẽ
nhận ra chiếc xe tải của tôi. Tôi cần một chiếc xe hòa lẫn được vào mạng lưới
giao thông.
Neil trông có chút hoang mang, nhưng vẫn
đưa chìa khóa cho tôi. Tôi cũng để lại chìa khóa xe tải cho anh ta vì nghĩ như
thế anh ta sẽ yên tâm hơn. Anh ta không quen thân với tôi. Có lẽ anh ta đang tự
hỏi liệu mình có bao giờ thấy tôi cùng cái xe nữa không.
Tôi lái xe tới đồn cảnh sát ở tòa án cũ ở
trung tâm lúc 5 giờ 10 phút. Đài phun nước vẫn đang còn hoạt động nơi quảng trường
dưới chân cầu thang tòa án. Tôi lái xe ra bãi đỗ ở phía sau. Không thấy chiếc
Chevy màu đen của Moretti đâu.
Tôi đi vòng quanh quanh dãy nhà và nghĩ xem
nên làm gì. Có lẽ Moretti đã rời đi vài phút trước. Nhưng có khi ông ta còn
không có mặt ở đây. Ông ta là một thanh tra. Ông ta không dành cả đời ngồi bàn
giấy rồi đến 5 giờ xách cặp đi về. Lúc này, ông ta có thể đang nói chuyện với một
nhân chứng hoặc ở hiện trường. Ông ta có thể ở bất cứ đâu.
Tôi bắt đầu nhận ra những hạn chế trong kế
hoạch của mình.
Tôi lại tới bãi đỗ lần nữa khi một cảnh sát
tuần tra rời đi. Anh ta lạnh tanh nhìn tôi khi đi qua. Tôi có thể tìm một chỗ
ngồi đợi hoặc tiếp tục lái xe lòng vòng. Có lẽ Moretti sẽ xuất hiện ở đây. Có lẽ
sẽ không một ai nhận ra tôi đang theo dõi đồn cảnh sát.
Tôi đi vòng quanh một lần nữa rồi hướng về
phía nam, đi theo con đường Moretti đi 2 ngày trước. Đường phố chật kín những
người đi làm xa trở về nhà. Tôi rời trung tâm thành phố và ra đường Turin. Tôi
nhìn thấy những dấu hiệu quen thuộc: Hiệp sĩ đoàn Columbus, bệnh viện thú y,
bãi cho thuê ca nô, nhà trẻ nơi viên cảnh sát bảo tôi dừng xe.
Tôi dùng lối đi hình vòng cung của nhà trẻ
để quay đầu xe. Tôi đi tiếp khoảng nửa dặm và chọn một chỗ đỗ xe ở viện thú y để
nhìn con đường. Đó xem ra là lựa chọn tốt nhất mà tôi có. Moretti đã đi qua lối
này một lần, cũng vào khoảng thời gian này. Có lẽ ông ta sẽ tới đây lần nữa.
Tôi bật đài và ngồi chờ trong xe. Kênh đài
đang được phát sóng lúc này là NPR, một lựa chọn hiển nhiên cho một giáo viên
như Neil Pruett. Cha tôi sẽ nói đây là một đài kênh kiệu. Tôi đang nghe chương
trình All Things Considered nói về
tình trạng bất ổn ở Indonesia. Sau đó là bản tin tường thuật về một hội nghị
thượng đỉnh kinh tế ở Anh, rồi một bài hồi tưởng về Frank Sinatra, người vừa mới
mất hồi đầu tuần. Tiếp đến là một mẩu tin về gấu ngủ đông ở Alaska. Chúng thức
dậy sớm vì mùa xuân năm nay ấm.
Phóng viên nói loài gấu có thể ngủ tới gần
nửa năm nhưng cơ bắp của chúng không teo lại như của con người.
Chuyện đó có vẻ bất khả thi. Có lẽ có một lời
giải thích khoa học nào đấy, nhưng tôi không nhớ. Tôi không nghe nữa khi nhìn
thấy Frank Moretti lái chiếc Chevy màu đen đi qua.
* *
*
Tôi không phải bám theo ông ta đi xa lắm,
có lẽ chỉ 4 dặm. Lúc đầu, ông ta đi trên đường Turin - qua công viên và nghĩa
trang nằm bên trái. Tôi giữ ông ta trong tầm nhìn, nhưng vẫn luôn đảm bảo có ít
nhất một chiếc xe chạy giữa hai chúng tôi.
Khi chúng tôi ra đến đường Stokes, ông ta rẽ
sang phía tây. Mặt nước xanh trải dài hai bên đường. Một hồ chứa nước. Rồi tới
những ngôi nhà, nhà thờ và một trạm cứu hỏa. Tiếp theo là bức tường đá thấp với
những cây thường xanh mọc phía sau. Moretti đi chậm lại và rẽ vào con đường nhỏ
xuyên qua một khoảng trống trên bức tường. Bên phải khoảng trống là một tấm biển
có để tên TRANG VIÊN SUMMERBROOK.
Tôi không đi theo ông ta. Tôi lái thêm nửa
dặm rồi quay lại. Khi trở về chỗ khoảng trống trên bức tường, tôi những tưởng sẽ
thấy Moretti đứng đợi mình nhưng không phải. Tôi rẽ vào và men theo con đường
nhỏ lên một con dốc thoải chạy qua đám cây thường xanh. Những cái cây nhường chỗ
cho những thảm cỏ rộng rãi. Có nhà nhưng chẳng cái nào giống trang viên. Chúng
đều dài và hẹp, có một tầng và trông rất nhạt nhẽo. Có ba tòa nhà được xếp
thành ba mặt của hình vuông với khoảnh sân ở giữa.
Tôi đỗ xe cách xa những tòa nhà đó và cách
xa xe Moretti nhất có thể. Tôi có thể được đi bộ một quãng với gió thổi sau
lưng và không khí thơm mùi thông. Ở một phía sân có bà lão đang ngồi trên xe
lăn với một tấm chăn đắp trên đùi. Phía bên kia là một chàng trai với dáng vóc
của một hậu vệ, đầu cạo trọc, đang đứng dựa vào tường uống Coca. Cậu ta mặc quần
bò và áo khoác xanh lá cây đã bạc màu có lẽ là từ một bộ đồng phục hộ lý.
Tôi gật đầu thân thiện với cậu ta và cất tiếng
hỏi:
- Đây có phải là viện dưỡng lão không?
Cậu ta giữ lon Coca dưới cằm và nhìn tôi.
- Người ta không gọi nó như thế, - cậu ta
nói. Họ gọi đây là trung tâm chăm sóc liên tục*.
*[Continuing care
facility: một nơi chăm sóc người cao tuổi dù họ có thể còn khỏe mạnh và sẽ được
hỗ trợ nhiều hơn khi cần]
- Có giống viện dưỡng lão không?
- Anh không phân biệt được hả?
Cậu ta nói bằng giọng nhẹ nhàng như thể
không muốn bà lão kia nghe thấy.
- Có lẽ tôi muốn ngó nghiêng một chút, -
tôi nói. - Chúng tôi đang cố gắng tìm một nơi cho bà ngoại của tôi.
Tôi chờ cậu ta vạch trần lời nói dối nhưng
cậu ta còn không chớp mắt.
- Anh có thể nói chuyện với một người. Cô ấy
quản lý nhận người.
- Tôi muốn tự mình xem trước, - tôi nói. -
Nếu được.
Cậu ta nhún vai.
- Tôi sẽ không ngăn anh, - cậu ta nói. -
Nhưng đừng đi quá xa.
Tôi không cần phải làm thế. Tôi rời sân và
đi về phía tây. Ở đó có những chiếc bàn ăn ngoài trời cùng một khu vườn. Bên
kia khu vườn là bãi cỏ hướng tới một dòng suối nhỏ uốn lượn - dòng suối [“Brook” có nghĩa
là dòng suối nhỏ] trong cái tên Trang viên Summerbrook. Một con đường
lát đá, đủ rộng cho hai cái xe lăn. Cuối đường là một cái bục gỗ nhìn ra dòng
suối. Một nơi để ngồi ngắm cảnh.
Có ba người đang ngồi trên bục gỗ. Một
trong số họ là Frank Moretti. Tiếp theo là một người phụ nữ người Mỹ gốc Phi,
cũng đang mặc chiếc áo màu lục nhạt giống cái cậu hậu vệ đầu trọc kia.
Người thứ ba là một người phụ nữ ngồi xe
lăn. Không phải một bà lão như tôi nghĩ. Cô ấy có làn da nhợt nhạt cùng mái tóc
màu nâu sẫm. Vì khoảng cách quá xa nên tôi không chắc cô ấy bao nhiêu tuổi
nhưng chắc là còn trẻ. Trạc tuổi Angela Reese.
Tôi quan sát họ từ đầu đường: Moretti tán gẫu
với người phụ nữ mặc đồ xanh rồi cúi xuống bên cạnh chiếc xe lăn để nói chuyện
với cô gái tóc nâu kia. Cô gái có một con gấu bông và Moretti cầm nó lên, khua
khua và lồng tiếng cho nó - cách bạn vẫn làm để nịnh một đứa trẻ.
Một lát sau, người phụ nữ mặc đồ xanh rời
đi và bắt đầu đi trên con đường. Cô ta hơi mập và đi khá chậm. Moretti tiếp tục
làm trò với con gấu và khi chán, ông ta đẩy chiếc xe lăn lại gần dòng suối. Ông
ta chỉ vào thứ gì đó trên mặt nước, chỉ vào mây trên trời, vào một con diều hâu
bay qua.
Khi người phụ nữ đi hết con đường, cô ta thở
hồng hộc. Cô ta đi ngang qua tôi mà không nói một lời rồi bước đến ngồi tại một
chiếc bàn ăn ngoài trời. Tôi để cô ta có một phút cho riêng mình rồi mới đi tới.
- Trời hôm nay đẹp nhỉ, - tôi nói.
Cô ta ngước nhìn lên, để nhìn thời tiết hơn
là nhìn tôi.
- Chắc sắp có bão.
- Thế à?
- Tôi nghe bảo thế.
Tôi tiến gần hơn một bước.
- Tôi ngồi xuống được không?
Cô ta lại ngước lên và lần này là để nhìn
tôi. Vẻ mặt cô ta cho tôi biết cô ta sẽ không phản đối dù không vui vẻ. Tôi ngồi
xuống.
- Có lẽ tôi sẽ đưa bà ngoại tới đây, - tôi
nói.
- Đây là một nơi tuyệt vời.
- Có vẻ tốt thật. Tôi đang đi xem xung
quanh.
- Tới văn phòng và họ sẽ đưa anh đi tham
quan.
- Có lẽ tôi sẽ làm vậy.
Chúng tôi dành chút thời gian yên tĩnh. Tôi
tưởng cô ta sẽ rời đi. Cô ta đã lấy lại sức sau khi đi bộ. Nhưng cô ta vẫn ở lại
và đang quan sát tôi với hai bàn tay đan lại để trên bàn. Cô ta có bàn tay rất
đẹp, móng tay được cắt tỉa cẩn thận và sơn màu. Đôi bàn tay đó đã được chăm
chút rất kỹ càng. Cả mái tóc cũng vậy: nó được tết lại gọn gàng. Khuôn mặt cô
ta cũng tròn trịa nhưng bên dưới là một khung xương chắc khỏe. Tôi có thể thấy
được trí thông minh hiện lên trong đôi mắt cô ta cùng với vẻ thận trọng và dè dặt.
- Chúng ta có bạn chung, - tôi nói. - Frank
Moretti.
- Thế à?
- Cô quen ông ấy lâu chưa?
- Ông ấy là khách quen ở đây.
- Tôi đã rất ngạc nhiên khi nhìn thấy ông ấy
hôm nay. Tôi không biết ông ấy đến đây. Cô gái ông ấy đến thăm còn trẻ nhỉ.
- Đúng rồi.
- Cô gái là con ông ấy sao? Tôi không biết
ông ấy có con gái.
Người phụ nữ mặc đồ xanh không đáp. Đôi mắt
cô ta kiên định và miệng mím lại không biểu cảm.
- Tôi định đi hỏi ông ấy, nhưng như thế có
lẽ sẽ rất ngượng ngập, - tôi nói. - Tôi không muốn để lại ấn tượng rằng mình
đang chõ mũi vào cuộc sống riêng tư của ông ấy.
- Sẽ
rất ngượng ngập, - cô nói, - nếu khiến ông ấy có ấn tượng đó.
- Đúng.
- Tất nhiên là anh có thể không tò mò mà.
- Đúng thế.
- Hãy để lại ấn tượng tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người.
Một nét cười vẽ lên quanh đôi mắt của cô
ta, nhưng rõ là cô ta không cười với tôi. Nhưng điều đó không quan trọng. Cô ta
không cần phải thích tôi. Tôi rút ví ra.
- Tôi cần biết về cô gái đó, - tôi nói. - Có
lẽ chúng ta có thể giúp đỡ nhau.
Rốt cuộc thì tôi cũng nhận được một nụ cười.
Một nụ cười yếu ớt.
- Tên anh là gì? - cô ta hỏi.
- Napoleon Washburn.
- Tên hay nhỉ.
- Một số người gọi tôi là Poe.
- Anh định trao đổi gì với tôi, Poe?
Tôi mở ví mình ra, đặt một tờ 20 đô và một
tờ 10 đô lên bàn.
Nụ cười kia biến mất. Mặt cô ta đanh lại.
- Không nhiều lắm nhỉ. Anh biết ông Moretti
là ai không?
- Tôi biết, - tôi nói và đặt thêm một tờ 20
nữa.
Cô ta vẫn không động đến số tiền đó.
- Anh đã bao giờ đánh bạc chưa, Poe?
- Rồi.
- Anh biết người đánh bạc hay làm gì không?
- Cô nói xem.
- Một khi đã nghiêm túc, họ sẽ đặt cược tất
cả. Anh có sẵn lòng đặt cược hết không?
Tôi rút nốt chỗ tiền trong ví ra và cho cô
ta thấy chẳng còn gì trong đó.
- Đặt cược hết, - tôi nói.
Cô ta mở đôi bàn tay xinh đẹp của mình ra
và xếp tiền thành một xấp để trước mặt, không đếm cũng chẳng cất đi.
- Anh muốn biết gì? - cô ta nói.
- Tên của cô gái đó là gì? Cô ấy bao nhiêu
tuổi?
- Cô gái đó tên là Erin. 21 tuổi. - Cô ta cầm
tờ trên cùng xấp tiền rồi xé nó làm đôi. - Hỏi câu khác đi.
Tôi nhìn cô ta ném những mảnh giấy vụn qua
vai. Chúng đáp xuống bãi cỏ. Nét mặt lạnh lùng của cô ta vẫn không hề thay đổi.
Chúng tôi đang chơi một trò khác, không như
tôi mong đợi. Nhưng tôi cần xem kết thúc.
- Đó có phải con gái ông ấy không? - tôi
nói.
- Tôi chưa bao giờ nhìn thấy giấy khai sinh
của cô ấy, - người phụ nữ mặc đồ xanh nói. - Tôi biết cô gái gọi ông ấy là cha.
Tôi cũng biết ông ấy hầu như ngày nào cũng đến. Tôi biết cô gái vẽ tranh cho
ông ấy. Những bức tranh bằng màu sáp, trông như tác phẩm của một đứa trẻ 3 tuổi
tài năng. Cô ấy giờ là như thế đấy.
Cô ta xé một tờ tiền khác và ném ra bãi cỏ.
- Hỏi tôi câu khác đi.
- Chuyện gì đã xảy ra với cô ấy vậy?
- Tai nạn xe hơi năm cô ấy 17 tuổi, xảy ra
trên đường cao tốc khi đã quá nửa đêm. Chiếc xe chở cô ấy lao qua dải phân cách
và đâm thẳng vào xe tải. Lúc đó, cô ấy đang ngồi trên ghế hành khách. Cô ấy đã
bị liệt từ thắt lưng trở xuống và chấn thương não. Hôn mê hai tuần liền.
Cô ta xé một tờ tiền khác.
- Hãy hỏi tôi ai là người đang lái xe lúc
đó.
- Ai đã lái xe?
- Một trong những giáo viên của cô ấy. Hãy
hỏi tôi lý do tại sao ông ta lại lượn lờ với một cô gái 17 tuổi khi đã quá nửa
đêm.
Giọng nói của cô ta vốn được kiểm soát cẩn
thận nhưng giờ tôi có thể nghe giận dữ trong đó.
- Tôi không cần phải hỏi điều ấy, - tôi
nói.
- Chắc vậy, - cô nói. - Ông ta đã chết ngay
tại chỗ, còn cô ấy thành ra như vậy. Thường thì cô ấy không nhớ được ông thầy
nhưng lại luôn ghi nhớ ông Moretti. Cô ấy thấy nhớ khi ông ấy không ở đây. Lần
nào ông ấy về, cô ấy cũng khóc.
- Mẹ cô ấy đâu?
Người phụ nữ mặc đồ xanh gom hết số tiền
còn lại.
- Bà ấy cũng từng đến đây trong năm đầu
tiên. Thế rồi bà ấy nhận ra con gái mình sẽ chẳng khá hơn. Cô ấy là một đứa trẻ
3 tuổi và sẽ mãi như thế. Chuyện đó quá khó khăn. Quá khó khăn với mẹ của Erin.
Bà ấy nằm trong bồn tắm rồi cắt tay tự tử.
Người phụ nữ xé xấp tiền một lần, hai lần rồi
ném những mảnh vụn qua vai, để chúng nằm rải rác trên bãi cỏ.
Cô ta nói:
- Nó đã trả lời câu hỏi của anh chưa, anh
Malone?
Không chút nhấn nhá vào tên tôi, cô ta chỉ
thốt ra nó một cách rất bình thường.
- Rồi, - tôi nói.
- Tốt. Bởi vì đó là tất cả những gì ông
Moretti muốn cho anh biết. Nếu muốn biết nhiều hơn thế, anh sẽ phải đi hỏi
chính ông ấy. Mà tôi biết ông ấy không muốn nói chuyện với anh. Anh không phải
bạn ông ấy.
- Đúng vậy.
Cô ta nhìn quanh khu vườn. Chẳng có hoa gì
nở ngoài huệ tây.
- Tôi tin rằng mình là bạn ông ấy, - cô ta
nói. - Ông ấy cũng đối với tôi như vậy.
Cô ta quay lại nhìn tôi và hạ giọng - cách
gây chú ý với tôi.
- Ông ấy là người đàn ông dịu dàng nhất tôi
từng gặp, nhưng tôi không muốn nghĩ đến chuyện có thể xảy ra nếu anh đến đây một
lần nữa và cố gắng tiếp cận với Erin hay nói chuyện với cô ấy.
- Không đâu, - tôi nói.
- Hoặc nếu anh làm bất cứ điều gì gây xáo
trộn cuộc sống của cô ấy ở đây, hay khiến cô ấy bị chú ý một cách không mong muốn.
- Tôi hiểu.
- Tốt. Giờ anh có thể đi được rồi.
Cô ta liếc nhìn qua vai tôi và gật đầu ra
hiệu cho một người nào đó. Tôi quay lại và thấy người đàn ông trọc đầu đang đi
về phía chúng tôi. Anh chàng hậu vệ.
- Đây là Karl, - người phụ nữ mặc đồ xanh
nói. - Karl, đây là David Malone. Chuyến thăm viếng của anh ấy đã kết thúc và
anh ấy đang chuẩn bị về.
Cô ta không đứng dậy. Một làn gió thoảng
qua, thổi những mẩu tiền vụn bay lên khỏi mặt cỏ, tới bục gỗ nằm bên cạnh dòng
suối, nơi Frank Moretti đang diễn lại màn trình diễn với chú gấu đồ chơi. Tôi
đi với Karl. Cậu ta cao hơn tôi khoảng 10 phân và nặng hơn tầm 13 cân. Cậu ta
không cầm cánh tay tôi dẫn đi, nhưng tôi biết cậu ta đang có mặt ở đó.
Cậu ta giữ im lặng cho đến khi chúng tôi ra
đến rìa bãi đậu xe. Lúc đó, cậu ta mới lên tiếng:
- Tôi nợ anh một lời xin lỗi.
- Cho chuyện gì?
- Nếu biết anh là ai, tôi có thể đã bảo anh
rời đi. Đỡ rắc rối thế này. Nhưng tôi tin câu chuyện về bà anh.
- Xin lỗi.
Cậu ta thong thả bước đi bên cạnh tôi:
- Bà tôi đã mất rồi. Cả bà nội và bà ngoại.
- Một trong hai người bà của tôi vẫn còn sống,
- tôi nói. - Bà mới ngoài 70. Chưa sẵn sàng cho một nơi thế này.
- Dùng bà ấy để nói dối thật chẳng ra sao.
Cậu ta nói phải.
- Ừ, - tôi nói.
Chúng tôi ra đến chỗ chiếc xe đi mượn của
tôi. Karl cứ nấn ná và xoa xoa lòng bàn tay cái đầu trọc lốc.
- Anh cần phải đi và không bao giờ được
quay trở lại đây, - cậu ta nói. - Tôi có cần nhắc anh không?
- Tôi được dặn rồi.
Tôi lấy chìa khóa trong túi quần ra rồi
quay lưng lại với cậu ta để mở khóa. Sai lầm. Karl đặt một tay lên vai tôi rồi
đẩy tôi vào xe. Sau đó, cậu ta nhanh tay đấm tôi một phát vào điểm dưới xương
sườn. Đấm vào bụng.
Tôi chưa bao giờ bị bò húc, nhưng chắc cũng
chỉ thế này thôi. Hai lá phổi của tôi trống rỗng và tôi khuỵu xuống. Tôi trượt
khỏi thân xe. Tay và đầu gối chống xuống đất. Tôi nghĩ mình sắp nôn ra nên đã
chờ nhưng chỉ có nước miếng chảy ra. Tôi không nôn.
Tôi ngẩng đầu lên và cử động đó khiến tôi
choáng váng. Tôi ngồi trên mặt đất, ngẩng lên nhìn Karl đang thả lỏng tay.
- Không tệ lắm nhỉ, - cậu ta nói. - Tôi đã
nhẹ tay rồi đấy.
Cậu ta nắm lấy cánh tay tôi, cố lôi tôi đứng
dậy. Tôi huých cậu ta. Cậu ta chùng gối, nhấc người lên, cố đẩy tôi vào xe. Thắt
lưng chạm vào gương xe làm tôi rên lên và suýt nữa lại gục nhưng cậu ta đỡ tôi.
- Anh không sao đâu, - cậu ta nói. - Hít thở
đi.
Tôi cố đẩy cậu ta ra và tự đứng thẳng. Quá
sớm. Tôi chắc đã ngã xuống nếu cậu ta không đỡ.
- Từ từ thôi, - cậu ta nói. - Anh sẽ ổn
thôi. Tôi phải đảm bảo anh có lắng nghe. Dặn là một chuyện, nghe là một chuyện.
Anh hiểu mà, đúng không?
Tôi gật đầu một cái để cậu ta biết rằng
mình đã hiểu. Một lát sau, cậu ta giúp tôi vào trong xe.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét