Bà lão lòa
Tác giả: Vũ Trọng Phụng
76 tuổi đầu, mỗi bữa thất thểu ăn một lưng
cơm, bà lão lòa ở nhờ một đứa cháu họ, thật đã lắm phen cực nhục. Cháu bà, một
bác đánh giậm, với vợ, một chị mò cua bắt ốc, khốn thay, dưới nách hai đứa con
mọn, cũng đã lắm phen nhăn nhó vì chẳng đủ ăn.
Hai mươi năm về trước, bà lão lòa này còn
là người có của trong làng. Con trai bà nó chơi, nó phá, nó bán ruộng cầm nhà rồi
nó bỏ bà nó đi, chẳng biết đi đâu, lòng mẹ đối với con, tuy có giận mà vẫn có
thương, bà khóc lóc một mình đến nỗi lòa cả mắt. Trong thời bà còn giàu có,
ngoài những việc cúng tiền tô tượng đúc chuông, bà còn năng giúp đỡ kẻ nghèo
khó; trong họ ngoài làng, nhiều người đã được nhờ bà mà đến khi bà gặp bước khốn
cùng thì chẳng ai thương cả. Cũng vì xưa kia đã nhiều phen ngửa tay nhận lấy đồng
tiền cứu giúp của bà, bác đánh giậm đành cắn răng, vuốt bụng, nhắm mắt nuôi cô
trong lúc hoạn nạn.
Nhưng vốn bị ma nghèo ám ảnh, mới nuôi cô
được độ ba năm, bác đánh giậm đã thấy nản lòng. Cái cảnh túng bấn nó thường đẩy
người ta vào chốn bùn nhơ, nó thường buộc người vào vòng tội lỗi, đối với bác
đánh giậm, ác hơn, nó làm bác quên bỏ cả lương tâm. Quên hẳn cái ơn ngày trước,
bác ta chỉ còn biết xót ruột khi bà lão lòa lò rò ngồi vào mâm, cướp cơm của vợ,
của con nhà bác.
Buổi chiều hôm ấy...
Trước túp lều tranh xiêu vẹo như chỉ còn chờ
một trận gió to là đổ ụp xuống, cái sân đầy những bã mía, lá khô, một mâm cơm
bát đàn đũa mộc trong để đĩa cá rô kho chuối với đĩa cà đen sịt đen sì, cầm
trên tay mấy bát cơm ngô vàng ói, bà lão lòa, bác gái và hai đứa bé chỉ còn chờ
bác trai rửa mặt rửa chân tay, ngồi vào là cùng cầm đũạ Đàn ruồi vù vù bay lung
tung như đánh trận, hết bâu đầy vào mấy nốt mụn chốc trên đầu thằng cu con lại
bay xuống đặt mình vào đĩa cá.
Bác trai, người mảnh khảnh, đen như củ
súng, trán răn, má hóp, mắt kèm nhèm, mặc cái áo vải vá đã đến năm mười miếng mụn,
đóng khố, vừa ngồi xổm xuống đất cầm lấy bát cơm, vợ đã vội hỏi:
- Bố nó hôm nay kiếm được bao nhiêu tất cả...?
Ấy tôi chỉ được có bốn sóc cua hai xu với một mẹt tôm riu năm xu là bảy đấy thôi.
Gạo ăn bữa mai hết rồi...
- Hôm nay được thêm mẻ lươn thì, ác quá, gặp
phải đứa nào cũng trả rẻ, lang thang khắp chỗ, mãi đến chiều chẳng thấy ma nào
hỏi lại phải bán tống bán tháo đi... cả ếch cả cá cũng chỉ được ngót hai hào.
Vợ nhìn chồng thở dài rồi lại nhìn đến niêu
cơm. Thằng cu lớn xới một bát nhường cho em, còn mình thì cầm cái đũa cả, gặm
những hột còn dính lại. Bà lão lòa, ăn hết một lưng, tay lẩy bẩy chìa bát ra
toan xin ít nữa, chưa kịp nói, bác gái đã quát:
- Hết rồi...! Còn đâu nữa mà chìa mãi bát
ra... Đến tôi đây quần quật suốt ngày, đã ốm cả xác mà cũng chỉ được có ba lưng
thôi đây... Bà không phải làm gì, ngồi nhà ăn ít cũng được.
Bà lão giật mình, đớ người ra một lúc rồi đứng
lên, đi vào trong nhà, ngồi xuống bậu cửa, lấy cái tăm gài trên mái tóc xuống xỉa
răng.
Mặt trời sắp lặn, còn xiên qua lũy tre
xanh, tầu lá chuối mà rọi ánh sáng đỏ đó vào gian nhà. Dưới những đám mây thiên
hình vạn trạng mầu cá vàng chăng dọc chăng ngang phủ kín một bầu trời, một đàn
sếu xếp hàng chữ nhân bay từ Bắc về Nam, vươn cổ kêu oang oác. Trên mấy ngọn
tre gió thổi ngả nghiêng, dăm ba con chèo bẻo tung tăng chuyền cành này sang
càng khác, còn đua nhau hót như muốn cất giọng chào mặt trời truớc khi vào tổ.
Bà lão lòa ngồi trầm ngâm chống tay lên
trán, nhân hôm ấy chiều trời êm ả, gió thổi hây hây, chim kêu xào xạc mà một mảnh
đời dĩ vãng như một luồng chớp nhoáng, trong trí bà lại thấy hiện ra:
Ngoài cổng, một ông lão ăn mày lụ khụ đến
ăn xin. Con vện con vàng đang nằm trong sân bỗng nhảy xổ ra cắn xa xả. Tiếng một
bà ngồi trên sập gụ bên trong quát thằng nhỏ ra mắng chó, giắt ông lão ăn mày
vào thết một lưng cơm.
Bác nhiêu B, vừa bị nạn hỏa, rủi đâu, vợ lại
hậu sản mà chết. Trong gian nhà lụp xụp, thằng cu lớn, cái đĩ con ngồi mã la mã
lệnh với thằng cu mới đẻ, cuộn tròn trong cái tã nâu, nằm ngay cùng giường cái
xác mẹ nó. Tiếng ba đứa trẻ khóc như ri. Cả đêm hôm trước, bố chúng nó ôm đầu
mà khóc, sáng hôm sau mới bảnh mắt đã thấy đội nón ra đi, mặt trời lên đến đỉnh
đầu rồi mà chưa thấy về, bụng chúng nó đói cào như muối xát. Bỗng thấy ai nói
văng vẳng như tiếng bác nhiêu. Thằng cu lớn quệt nước mắt, lủi thủi bước ra...
Quái thay! Một bà khách lạ nào miệng bỏm bẻm nhai trầu, váy sồi, áo lụa, xệ nệ
trên đôi dép da cong, bước vào nhà ôm lấy thằng cu con mà kêu: tội nghiệp! Rồi
thấy bà khách cởi hầu bao, lấy ra một cuộn giấy bạc, bác nhiêu đưa hai tay nhận
lấy, dòng dòng nước mắt tạ ân.
Giữa chợ gần chỗ hàng gà, hàng cá, mùi hôi
tanh xông lên nhức đầu, một đám đông xúm quanh một người đàn bà ăn mặc rách rưới,
tay ôm đứa bé chừng bốn năm tháng.
- Thưa bà, cháu chỉ lấy có năm đồng thôi đấy
ạ.
- Thôi, chả của đâu mà trả đến năm đồng.
Trông gầy thế kia, biết rồi có sống được không? Ba đồng đấy, bằng lòng đi!...
Người nọ xô người kia, chen nhau len vàọ Có
người đứng ngoài, không hiểu chuyện, tưởng họ mặc cả gà, khi kiễng chân, nghển
cổ nhìn vào mới rõ. Giọng nói phều phào một bà cụ già lụ khụ:
- Rõ tội nghiệp chưa! Tôi mà có năm đồng
thì tôi trả ngay...!
Bỗng có một bà ăn mặc lụa là, người trông
phúc hậu, len lỏi vào cất tiếng dõng dạc hỏi:
- Này nhà bác kia! Làm gì mà đến nỗi phải
bán con đi thế?
- Thưa bà, nhà con phải bệnh, liệt giường
liệt chiếu đã hơn nửa tháng nay, không có tiền thuốc thang gì thì chết mất. Con
phải bán cháu đi để cứu lấy nhà con, mất đứa này còn mong đẻ đứa khác chứ để chồng
chết thì rồi tất chết cả mạ con cháu.
Nước mắt chảy xuống dòng dòng, nỗi thương
đưa lên nghẹn cổ, người đàn bà không nói được nữa, gục đầu xuống mặt con mà khóc
nức nở.
- Này...! Cứ ẵm cháu về, đừng có bán nó đi
mà phải tội đấy! Năm đồng đây tôi xin giúp. Hãy cầm về mà liệu thuốc men cho
bác trai.
Người kia ngạc nhiên ngơ ngác nhìn lên, mãi
chưa dám tin là thật, bàng hoàng như đang lúc chiêm bao, giơ tay ra nhận tiền,
rồi không biết nói thế nào với vị ân nhân của mình, phục ngay xuống đất mà rưng
rức khóc. Đám người tản mát, có kẻ thì thào: người đâu mà phúc đức tệ!
Ấy đó, đổi lại bao nhiêu điều thiện xưa kia
ông trời cay nghiệt nay đều trả bà bằng hai con mắt lòa với một cảnh ăn gửi nằm
nhờ cực kỳ khổ sở. Cho rằng kiếp xưa tiền oan nghiệp chướng chi đây, nghĩ
thương mình, thương đứa con bất hiếu, thương vợ chồng con cái bác đánh giậm, bà
lão lòa thổn thức, trên hai gò má răn reo lại thấy mấy giọt nước mắt chảy ròng
ròng. Bà lão gục đầu xuống gối tỉ tê khóc không ra tiếng, chỉ thấy sụt sùi hậm
hực, khiến thằng cu con lò rò bò đến với bà, không hiểu ra sao bỗng cũng khóc
thét lên. Bác gái chạy vào bực mình xỉa xói:
- Này bà! Bà đừng làm sốt ruột...! Bà ăn
xong bà đã chẳng làm được việc gì thì cứ ngồi yên một chỗ hay ẵm cháu giúp tôi,
bà đừng có sụt sùi khóc lóc, đây không ai chết mà bà phải khóc...
Giọng nói day dứt mà lanh lảnh như từng
nhát búa bổ vào thanh sắt vang động bên tai, bà lão hoảng hốt, trong hai con mắt
lòa trợn trạo cầm nước mắt cho khỏi chảy ra, trông rõ đôi tròng trắng đảo đi đảo
lại...
- Trời làm đói kém thế này, vợ chồng chúng
tôi không thể nuôi bà được nữa đâu, bà phải liệu mà giúp đỡ chúng tôi mới được.
Rồi từ mai trở đi, để thằng cháu nó giắt bà ra đầu đê, bà ngả nón dưới bóng cây
gạo mà ngồi, thấy tiếng người chợ búa qua lại thì bà chìa rá ra xin, nếu có được
mỗi ngày một vài xu cũng là đỡ được cái mồm bà rồi đấy...
* *
*
Đã hơn nửa tháng nay, sáng nào cũng thấy thằng
cu lớn dắt bà ra ngồi đầu đê rồi chiều đến lại ra dắt về. Trong bọn những người
chợ búa qua lại con đường cái quan, tạt vào đường đê, thấy một bà lão lụ khụ, hổn
hển thở, ngẩng đầu chìa nón kêu van, cũng đôi khi có người vứt cho một vài đồng
kẽm. Chẳng may, nếu hôm nào về tay không thì vợ bác đánh giậm - cháu bà - lại
nghiến răng xỉa xói thậm tệ:
- Hôm nay chẳng ai thí cho bà đồng nào...!
Bà có biết thế là bà lại ăn mất phần cơm của thằng cu lớn đấy không? Từ mai, bà
liệu mà kêu to lên mới được... Hay tại bà ngồi dưới bóng cây mát mà ngủ thiếp
đi...? Bà liệu đấy...!
Bát cơm ngô điểm quả cà thiu, bà lão lòa
trước khi và vào mồm đã chan đầy như canh bằng nước mắt.
Một ngày kia, trời tháng Ba nắng gay gắt,
bà lão lòa dưới gốc cây gạo, ngồi từ sáng đến quá trưa, bụng đã đói mềm mà chẳng
thấy nguời khách đi đường nào vứt cho lấy một đồng trinh. Trên cành cây, thỉnh
thoảng lộp độp rơi xuống đường đê một vài bông hoa gạo, mỗi khi quạ cái tha mồi
về tổ cho con lại đập cánh sập sè vươn cổ kêu: quà! quà...! như gợi một mối
thương cho người ngồi dưới gốc.
Xa xa, trong cánh đồng bát ngát một màu
xanh, mấy người làm ruộng nhễ nhại mồ hôi, cặm cụi làm việc, chẳng ai buồn nói
với ai. Một đàn chim vành khuyên trong bụi rậm kia đang chuyền cành này sang
cành khác cũng không con nào kêu hót, kiếm ăn một cách rất lặng lẽ.
Phong cảnh dường như mệt mỏi. Những tiếng
vang tiếng động đều bị sức nóng mặt trời át mất hẳn đi. Trên con đường cái
quan, thỉnh thoảng thấy tiếng một cái xe hơi như một mũi tên bay, vo vo chạy
qua rồi biến mất vào trong đám bụi mù xa tít... bốn bề im lặng như tờ.
Hai cánh tay khẳng khiu ôm lấy bụng mà nhăn
nhó, cố quật lại với cái đói nó cào xé ruột gan, bà lão lòa thở hổn ha hổn hển.
Chợt có tiếng người dẫm lạo xạo trên đống
lá khô, đi về phía mình bà lão vội chìa ngay nón:
- Lạy ông đi qua, lạy bà đi lại!... Cứu cho
thân tôi lấy một miếng cơm...
- Tôi đây...! Phải ai đâu mà lạy với lục...?
Bà được đồng nào chưa thì đưa đây cho tôi...
- Đã được đồng nào đâu...? Chẳng thấy ai đi
qua đây cả... Mẹ nó có dắt tôi về thì dắt, tôi đói lắm rồi...!
- Bà đói à? Bà đói thì dễ tôi no à? Bà hãy
ngồi đấy xem sao, buổi chợ chiều nay, rồi họ về qua đây nhiều... chốc nữa, tôi
sẽ bảo thằng cu nó ra nó dắt...!
Rồi bác ta thoăn thoắt bước đi, cái váy cũn
cỡn để lộ hai ống chân trùng trục, đen thủi đen thui, giỏ cua đeo sau lưng cũng
theo nhịp từng bước mà lắc đi lắc lại... Về đến nhà, sung sướng thay đã thấy
bác trai ngồi phì phèo thổi lửa làm cơm dưới bếp. Nghĩ thầm hẳn bố nó hôm nay
được mẻ phát tài, bác rửa chân tay xong, vào hú hí với con.
Bỗng trên trời mây kéo đen nghịt tối sầm hẳn
lại, rồi nổi một cơn giông. Bác đánh giậm chạy vội ra sân vơ quần áo đem vào
nhà, giục thằng cu lớn mau mau chạy ra đê dắt bà về kẻo mưa to gió lớn. Nghe
câu ấy, bác gái ngồi ôm con một góc giường cau mày ngẫm nghĩ: thật vậy! Ba bốn
năm nay, bác đã nhịn như nhịn cơm sống ấy rồi, quá lắm thì không chịu được. Mặc
kệ bà ấy! Để bà ấy chết quách đi cho rảnh mắt...!
Rồi hiện ra lần lượt trong trí bác những
ngày trở trời trái gió, những ngày lửa hạ chang chang, ruộng khô đồng nứt, kiếm
chẳng ra tiền, hai đứa bé bò nheo bò nhóc, niêu cơm ngô chia khắp cả nhà, bụng
mẹ đã chẳng được no, còn lấy đâu ra sữa nuôi con... Mà bà lão lòa kia thì, ngày
kiếm được một vài xu cũng như ngày không kiếm được đồng nào, chẳng nhịn được
bao giờ, cứ đến bữa là ngồi vào mâm, chìa bát ra cho thằng cu sới. Không,
không! Không thể thế được...! Bà lão ấy chỉ là một bà cô... mà lại là cô họ một
người chồng, có lẽ nào báo hại mãi nhau...?
- Kìa! Thằng cu! Tao bảo thế nào...? Không
bỏ bếp đấy mà ra dắt bà về à? Ông lại đét cho bây giờ.
Bỗng bác gái đặt phịch con xuống giường, quặn
mình nhăn nhó:
- Ối trời đất ôi...! Ối trời đất ôi...!
- Chết chửa... làm sao thế? Sao thế hở mẹ
nó?
- Sao mà bụng tôi cứ thấy đau xoắn lại thế
này! Ối trời đất ôi, đau thế này thì đến chết mất thôi...
- Chết chửa! Kìa thằng cu... ẵm em dỗ đi...
dỗ đi cho nó nín đi rồi dậy đấm cho u mày một chốc... để tao đi nướng hòn gạch
mà chườm bụng vậy... Rõ khổ chưa?
Bên ngoài mấy hạt mưa bắt đầu ném vào mái
tranh lộp độp rồi trời đổ cơn xuống rào rào. Dần dần mưa càng to, gió càng mạnh,
mỗi lần một luồng gió thổi trên không nghe ào ào là một lần nước đổ như trút xuống
sân. Trời tối mịt. Thấy mẹ đã ngủ được yên, thằng cu bước xuống đất, phong
phanh trong tấm áo vải, ra tựa cửa đứng nhìn.
Tiếng sấm động ù ù, mỗi khi chớp nhoáng chớp
nhoàng nó lại nom rõ thấy giữa những vũng bong bóng phập phồng, những dây nước
ròng ròng từ mái tranh rỏ xuống. Rồi thỉnh thoảng lại đánh "đoành" một
cái, những tiếng sét vang trời đánh nhịp, hòa theo với tiếng mưa rả rích, tiếng
sấm hục hặc, nổi sôi...
Chợt nghĩ đến bà nó ở ngoài đầu đê không biết
ra sao, quay lại nhìn bố nó vẫn lúi húi dọn cơm, nét mặt thản nhiên như không,
thằng cu phụng phịu nét mặt, hỏi gắt:
- Kìa thầy! Thế bà ở ngoài đầu đê?
Nó chưa nói hết câu, bố nó đã như bị một luồng
điện giật, ngây người ra, mắt tròn xoe, mãi mới nói được:
- Chết chửa! Biết làm thế nào bây giờ? U
mày đau bụng, kêu rối rít lên, làm tao cũng quên bẵng đi mất...
- Thế thì, chắc bà chết rét mất rồi... Còn
gì nữa...
Nghĩ đến cái chết của bà lão lòa ở ngoài đầu
đê - tình cháu đối với cô - bác đánh giậm rùng mình, rợn tóc gáy. Nhưng bác tự
dối lương tâm, bác đáp lại con:
- Ôi già... Chả việc gì phải sợ... Dễ bà lại
không biết lần mò đến một cái quán nào đấy mà ẩn hay sao...?
Rồi bác gọi vợ con dậy ăn cơm. Bữa ấy bác
gái tuy kêu đau bụng mà cũng cố ăn được đến bốn năm lưng, mặc dầu hai đứa bé
không thấy bà nó đâu, thường nhắc đi nhắc lại.
Trời vẫn mưa, lúc to lúc nhỏ, rả rích suốt
đêm.
Sáng hôm sau, ánh sáng mặt trời xé những
đám mây bay tan tác, chiếu xuống, trông lại càng tươi càng đẹp. Trên mặt đường
đê, nước đóng từng vũng, những người đàn bà gồng gánh ra chợ phải xắn váy vén
quần, lội bì bõm, hễ ai hơi trượt chân muốn ngã là cả bọn lại khúc khích cười.
Những đám cỏ bấy lâu phơi nắng xám cả màu, sau một trận mưa rào đã trông thấy
ngay cái vẻ tươi tốt. Trên mấy cây bàng, một đàn chim sâu, con ngửa cổ uống nước,
con đập cánh rũ lông, kêu hót vang tai. Vệ đường loáng thoáng thấy cành cây rơi
rải rác...
Phong cảnh trông có vẻ khoan khoái. Cái
khoan khoái của phong cảnh sau trận mưa rào cũng như cái khoan khoái của người
sau khi tắm gội.
Bác đánh giậm hôm ấy dậy rất sớm, đóng khố,
cài rổ, vác vợt ra đi...
Mon men ở dưới chân đê, lội lõm bõm qua mấy
vũng bùn lầy xa xa, phía dưới cây gạo - chỗ bà lão lòa vẫn ngồi, bác thấy giữa
ruộng, trong một đám mạ xanh tươi tốt, một đàn quạ, con bay con liệng, kêu sào
sạc rồi đậu xúm xít vào một chỗ. Bụng tưởng hẳn là một tổ rắn chi đây, bác ta
vác ngay một vọt tre lên mặt rồi phăm phăm chạy lại. Đàn quạ vùng bay lên rồi tản
mác đi... Chao ôi! Bước vừa đến nơi thì bỗng bác ta rú lên một tiếng, trợn mắt
rít răng mà ngã phục xuống cạnh một cái xác, cái xác một người đã bị quạ mổ nát
nhừ, xác bà lão lòa bị gió thổi xuống ruộng đêm hôm trước.
1931
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét