Thứ Bảy, 8 tháng 8, 2020

Mục Tiêu Cuối Cùng - 11

Mục Tiêu Cuối Cùng
(The Last Dead Girl)

Tác giả: Harry Dolan
Dịch giả: Đỗ Phi
NXB Lao Động - 2018

11

- Roger không thích anh, - Roger Tolliver nói.
Tôi đứng dậy và cố gắng hiểu được câu nói đó. Hoặc Tolliver có thói quen nói về mình ở ngôi thứ ba hoặc...
- Tên con chó là Roger, - Tolliver nói rồi giật giật sợi dây xích và tiếng sủa ngay lập tức được thay thế bằng tiếng gầm gừ ư ử. - Vợ tôi đã đặt tên cho nó. Cô ấy nghĩ đó là một trò đùa hài hước. Anh có thể hình dung cuộc hôn nhân của tôi thế nào rồi đấy. Anh sẽ cất con dao đi chứ?
Điều cuối cùng tôi biết là con dao bỏ túi được đặt lên sàn nhà, nhưng giờ nó lại đang nằm trong tay tôi.
- Ông sẽ giữ chặt con chó chứ? - tôi hỏi.
- Nó có khi sẽ không cắn anh đâu, ngay cả nếu tôi thả nó ra, - Tolliver nói. - Nhưng nó chắc sẽ quật ngã anh. Tôi nghĩ nó sẽ đè anh xuống. Nó sẽ giữ anh bằng răng, nhưng sẽ không cắn. Anh thấy được sự khác biệt rồi chứ?
Tôi gật đầu, mặc dù không hiểu rõ sự khác biệt đó lắm. Tôi biết mình không muốn xem ví dụ trực quan. Con chó cất tiếng sủa và nhe răng ra. Tôi không chắc nó có nhận ra mình sẽ không cắn tôi không.
- Tôi sẽ giữ chặt nó, - Tolliver nói. - Tôi cũng chưa gọi điện báo cảnh sát, vì tôi không biết phải nói gì với họ. Rằng một kẻ nào đó đã đột nhập vào nhà tôi chỉ để tấn công máy hút bụi của tôi ư - ai mà tin chuyện đấy chứ?
Ông ta lơ đễnh đưa tay vỗ nhẹ lên mình con chó.
- Làm sao anh vào đây được?
Tôi liếc nhìn ra cửa sổ phòng ngủ vẫn đang để hé vài phân, giống như khi tôi phát hiện ra nó.
- Tôi dùng thang.
- Thật là tài tình, - Tolliver nói. - Và nếu chiếc xe tải đang đỗ trên lối vào là của anh, thì anh chắc là David Malone. Vậy có nghĩa anh đến đây vì Jana. Nhưng nếu anh muốn nói chuyện về Jana, tôi sẽ sẵn sàng tiếp chuyện anh. Tôi sẽ mời anh vào nhà bằng cửa chính.
Tôi gấp con dao lại và bỏ vào túi quần. Rồi giơ chiếc cúc áo của Jana lên để ông ta có thể nhìn thấy nó.
- Tôi đến đây vì thứ này, - tôi nói.
Ông ta thu sợi dây xích lại cho đến khi nắm được vào vòng cổ của con chó rồi đưa tay kia ra cầm lấy chiếc cúc áo. Đôi mắt hiện lên vẻ bối rối, sau đó là hiểu ra.
- Ôi, trời ạ, - ông ta nói và đưa nó lại cho tôi. - Nào. Chúng ta sẽ nói chuyện.

* * *

Chúng tôi nói chuyện bên ngoài. Tolliver để con chó chạy đùa trong sân sau: một khoảnh đất có kích thước khoảng 4,5x18 mét, được bao quanh bởi hàng rào mắt cáo. Ông ta dẫn con chó đi qua cổng vào bên trong rồi tháo xích thả nó ra. Tôi vẫn đứng phía bên kia hàng rào.
- Tôi đã thử cho nó ra ngoài này khi phải đi cả ngày, - Tolliver bảo tôi. - Nhưng nếu không có ai ở cùng, nó sẽ trở nên điên dại.
Trông nó lúc này cũng khá điên dại rồi, dù Tolliver đang ở cùng với nó. Con chó lao từ đầu này sang đầu kia hàng rào, thỉnh thoảng dừng lại để chồm lên đặt chân trên vai Tolliver. Mỗi khi nó làm như vậy, Tolliver lại xô nó xuống và xua nó đi.
- Nếu để nó một mình ở ngoài này quá lâu, nó sẽ bắt đầu đào bới bên dưới hàng rào, - Tolliver nói và từ tình trạng của mảnh đất, tôi có thể thấy được đúng là như vậy. - Bởi thế tốt nhất là nên nhốt nó vào cũi ở trong nhà. Việc đó sẽ giữ nó bình tĩnh.
Con chó chạy hết tốc lực sang đầu phía bên kia, quay đầu rồi chạy trở lại. Nó nhớ ra rằng nó không thích tôi và hướng về phía tôi qua hàng rào mà sủa. Tolliver mang một giỏ đựng đồ chơi từ trong nhà ra: những khúc xương bằng da và bóng tennis. Ông ta lấy một quả bóng rồi quăng nó về phía đầu bên kia và con chó liền chạy đuổi theo.
- Thật là khủng khiếp, - Roger Tolliver nói, - những gì đã xảy ra với Jana ấy.
- Cô ấy đã tới đây, một tuần rưỡi trước, - tôi nói. - Vào ngày 20. Đúng không?
- Đúng vậy.
- Cô ấy rời khỏi đây mà thiếu mất vài chiếc cúc áo, - tôi nói, - cùng với một vết bầm.
- Tôi biết. Đó là lỗi của Roger.
Con chó quay trở lại với quả bóng ngoạm trong miệng. Tolliver cạy quả bóng ra và quăng nó thật xa.
- Tối hôm đó là lần đầu tiên Jana tới căn nhà này, - ông ta nói. - Tôi đã nhốt con chó trong cũi, giống như đôi lúc tôi vẫn làm khi nhà có khách. Jana nhìn thấy con chó bị nhốt lại và cô ấy không thích điều đó, ngay cả khi tôi đã giải thích lý do. Tôi thả nó ra và nó ngay lập tức lao về phía cô ấy. Nó rất nghịch ngợm, như anh thấy đấy.
Như thể có hiệu lệnh, con chó chạy lại cùng quả bóng. Tolliver cố tóm lấy quả bóng và người chủ cùng con chó bắt đầu chơi kéo co.
- Nó rất nghịch ngợm, - Tolliver nhắc lại lần nữa, - nhưng nó đùa rất thô bạo. Và sẽ còn tệ hơn nếu có ai xung quanh đây thật sự muốn chơi cùng với nó. Ai đó thích chó, như Jana.
Chú chó Roger đã thắng cuộc giằng co và nằm xuống gặm quả bóng.
- Anh nhìn thấy cách nó chạy rồi đấy, - Tolliver nói. - Trong nhà, nó cũng thế. Nó sẽ chạy từ phòng này tới phòng kia và rồi quay lại. Tối Chủ nhật đó, Jana đã khiến nó thật sự hào hứng. Mỗi lần như thế, nó sẽ lao tới. Cô ấy đang quỳ gối nhặt một trong những món đồ chơi của nó thì nó lao vào cô ấy. Đỉnh đầu nó va đập vào má cô ấy.
Tolliver đứng đối diện với tôi qua hàng rào mắt cáo và tôi cố nghĩ xem liệu mình có nên tin ông ta không.
- Thế còn những chiếc cúc áo thì sao? - tôi hỏi. - Con chó cũng gây ra chuyện đó ư?
Ông ta gật đầu.
- Như tôi đã nói, Roger đùa rất thô bạo. Tôi không đếm nổi đã có bao nhiêu cúc áo bị nó giật đứt, tay áo bị rách và ống quần bị gặm. Tôi thấy rất ngượng nhưng Jana chỉ chườm đá lên mặt rồi cười xòa.
Ông ta nhún vai như thể sự cố kia khiến ông ta cảm thấy xấu hổ. Tôi nhìn vào trong mắt ông ta, cố gắng quyết định một lần nữa xem liệu ông ta có đang nói dối không. Ông ta có đôi mắt tinh tường và sáng ngời cùng gương mặt dễ ưa, mái tóc nâu đã bắt đầu thưa dần trên đỉnh nhưng phía hai bên đầu vẫn còn dày và xoăn. Ông ta thấp hơn tôi vài phân, chắc khoảng 40 tuổi, phần bụng hơi nặng nề nhưng trông vẫn gọn gàng. Quần áo giản dị: áo sơ mi vải chéo, không cà vạt, quần kaki và giày cao cổ.
Trông ông ta không giống một gã đàn ông thích thô bạo gạ gẫm sinh viên, giật đứt cúc áo rồi đánh họ, nhưng vẻ bề ngoài chẳng nói lên điều gì. Thêm vào đó, ông ta còn là giảng viên Luật, đồng nghĩa với việc ông ta là một luật sư và đã được đào tạo để ăn nói đầy sức thuyết phục. Công việc của ông ta là phải tỏ ra đáng tin.
Vì vậy, vẫn còn quá sớm để quyết định xem ông ta có đang nói thật hay không. Bất luận thế nào, tôi vẫn còn nhiều câu hỏi.
- Ông nói tối hôm đó là lần đầu tiên Jana đến nhà ông?
- Đúng vậy.
- Cô ấy đến đây làm gì vậy?
Tolliver quay mặt đi khỏi tôi và nhìn xuống con chó dưới chân.
- Ừm, - ông ta nói, - đó là một câu chuyện dài.

***

- Anh đã từng nghe nói đến Dự án Vô tội*  chưa? - Roger Tolliver hỏi tôi.

*[Innocence Project: được thành lập năm 1992 bởi Barry Scheck và Peter Neufeld, là một tổ chức phi lợi nhuận hợp pháp cam kết giải tội cho những người bị oan sai thông qua việc áp dụng công nghệ xét nghiệm ADN và cải cách hệ thống tư pháp hình sự nhằm ngăn chặn sự bất công trong tương lai]

- Nghe quen quen, - tôi nói.
Chúng tôi đang ngồi trên những chiếc ghế nhựa trắng ngoài hiên nhà ông ta. Chú chó Roger vẫn lăng quăng chạy từ đầu này tới đầu kia, quan sát tôi và cố gắng quyết định xem mình cảm thấy thế nào khi bị bỏ quên.
- Đó là một tổ chức giúp đỡ những người bị oan và cố gắng lật ngược bản án của họ, - Tolliver nói. - Dĩ nhiên đó là những gì giới luật sư vẫn làm bấy lâu nay. Và anh không cần phải là thành viên của một tổ chức chính thức nào đó để làm được việc ấy.
Ông ta ngừng lời và ngại ngùng đưa mắt nhìn đi chỗ khác:
- Ừm, vài năm nay, tôi đã điều hành một nhóm Dự án Vô tội quy mô nhỏ của chính mình ở trường Đại học.
Có một chậu hoa lớn đặt trên sàn hiên ngay cạnh chân ông ta. Chẳng có gì mọc lên ngoài cỏ 4 lá. Tôi quan sát ông ta chống một bên giày lên mép chậu.
- Chúng tôi đã đạt được vài thành tựu, - ông ta nói. - Có một vụ án từ cuối những năm 70 ở Syracuse: một chuỗi các vụ tấn công tình dục sinh viên Đại học do một gã trai trẻ người Mỹ gốc Tây Ban Nha gây ra. Một thanh niên 20 tuổi tên là Hector Delgado đã bị kết tội sau khi vài cô gái chọn ra bức ảnh của anh ta trong dãy những tấm ảnh được cho xem. Khi đó cũng phát hiện được mẫu ADN - tinh dịch và nước bọt từ kẻ gây án - nhưng không bao giờ được xét nghiệm. Công nghệ thời ấy vẫn chưa đủ tinh vi. Hai năm trước, chúng tôi đã thắng vụ kháng cáo sau khi mẫu ADN cuối cùng cũng được mang đi xét nghiệm và kết quả cho thấy nó không trùng khớp với Hector Delgado. Anh ta đã được phóng thích sau 16 năm thụ án.

Tờ Syracuse Herald đã cho đăng câu chuyện ấy và nó đã được Liên đoàn Báo chí chọn đăng trên ấn phẩm của mình. Tạp chí Newsweek cũng đã thực hiện một bản tin đặc biệt. Họ đã cử nhiếp ảnh gia đến chụp hình tôi. Cho tới giờ, đồng nghiệp ở trường Đại học vẫn còn trêu chọc tôi về chuyện đó. Nhưng vụ truyền thông ấy đã giúp thu hút sinh viên tới trường Luật - những sinh viên muốn tạo nên sự khác biệt.
- Giống như Jana, - tôi nói.
- Đúng vậy, - Tolliver đáp. - Tôi thường không làm việc với sinh viên năm nhất, nhưng Jana rất hăng hái. Cô ấy tham gia dự án kể từ khi học kỳ mới bắt đầu vào tháng Giêng. Tôi vẫn hay nhờ sinh viên lo liệu những công việc thường ngày như: nghiên cứu cơ bản các vụ án, hồi đáp những câu hỏi của phạm nhân và gia đình họ - những người đang tìm kiếm sự giúp đỡ.
Ông ta siết chặt hai tay trên bụng và đan chéo những ngón tay lại.
- Sự thật là, - ông ta nói, - lúc nào chúng tôi cũng nhận được yêu cầu qua điện thoại, thư từ hay thư điện tử, vượt xa khả năng đảm nhận của mình. Số lượng bản án hình sự có thể lật ngược trên đất nước này lại vô cùng ít ỏi và từng đơn kháng cáo đều cần tới một trách nhiệm rất lớn về cả thời gian lẫn nhân lực, vì vậy, anh cần phải lựa chọn thật cẩn thận. Một số sinh viên không hiểu được như thế.
Jana là một trong số đó. Cô ấy cảm thấy bị thu hút bởi một vụ án cụ thể trong khu vực - Gary Dean Pruett. Anh ta đã bị buộc tội giết vợ. Chứng cứ rất mong manh nhưng Pruett lại là một bị cáo chẳng ra sao. Anh ta là giáo viên Trung học và đã từng có quan hệ bất chính với một học sinh cũ, điều đó đã đủ để bồi thẩm đoàn không có thiện cảm với anh ta. Người vợ Cathy phát hiện ra vụ ngoại tình và anh ta thừa nhận họ đã từng cãi nhau về chuyện đó. Nhưng theo lời anh ta nói, cô ta đã biến mất vào một buổi chiều thứ Bảy - lái xe rời khỏi nhà và không bao giờ quay trở lại.
Cathy Pruett cũng là một giáo viên và khi cảnh sát bắt đầu tìm kiếm, họ phát hiện xe cô ta đang đỗ trên một con đường gần trường mình dạy. Ba tuần sau đó, họ tìm thấy xác cô ta bị bỏ lại trên một cánh đồng ngoài ngoại ô thành phố. Cô ta đã bị đâm và rồi bóp cổ. Ngay từ đầu, những nghi vấn của cảnh sát đều đổ dồn lên Gary Pruett và khi lục soát xe anh ta, họ đã phát hiện ra những sợi tóc của người vợ trong cốp xe. Nhưng đó là vật chứng duy nhất họ tìm được kết nối anh ta với cái chết của vợ. Và chỉ có như thế thì còn lâu mới kết luận được. Luật sư của Pruett đã tranh luận rằng sợi tóc rơi ra từ chiếc chăn được tìm thấy trong cốp xe, chiếc chăn Pruett và vợ thường dùng khi họ đi dã ngoại.
- Nếu đó là tất cả chứng cứ mà họ có, làm sao họ buộc tội được anh ta chứ? - tôi hỏi.
Một nụ cười bất chợt khiến khóe mắt Tolliver nhăn lại.
- Đó không phải tất cả những gì mà họ có, - ông ta nói. - Họ còn có Napoleon.
- Napoleon?
- Napoleon Washburn, tin hay không tùy anh. Biệt danh là Poe. - Tolliver nhìn xa xăm về phía tây, nơi mặt trời đang dần dần lặn xuống sau những ngọn cây. - Poe Washburn chỉ là một tên lừa đảo vặt vãnh, - ông ta nói. - Chôm chỉa đồ ở cửa hàng, trộm vặt. Lão ta còn nổi tiếng trộm xe đạp. Hôm đó, lão ta bị bắt vì một thứ nghiêm trọng hơn: Lão trộm xe ô tô. Và lão ta phải đối mặt với một bản án thực sự. Lão ta bị tạm giam trong nhà tù của hạt - trong lúc Gary Pruett cũng đang chờ xử. Hai người bị nhốt giam trong hai buồng cạnh nhau. Washburn khẳng định rằng một hôm, họ có nói chuyện và Pruett đã thú nhận việc giết vợ mình.
- Ông có nghĩ Washburn nói thật không?
- Rất khó nói. Nhưng bài học rút ra là nếu có bị tình nghi phạm tội, anh tốt nhất nên nói chuyện với luật sư của mình chứ không phải với một kẻ nào khác. Không phải bạn thân, cảnh sát hay một gã nào đó anh gặp gỡ trong tù. Đó là một quy tắc hiển nhiên nhưng mọi người thường lờ nó đi.
Ông ta chìa tay ra, kêu gọi sự đồng tình của tôi. Tôi gật đầu, nhưng không nhắc đến chuyện mình đã nói chuyện với một tay thanh tra nhiều giờ liền đêm trước.
- Vậy là Washburn đã khai trước tòa về lời thú tội không bằng chứng đó, - Tolliver nói. - Và bồi thẩm đoàn đã biểu quyết tuyên bố có tội. Giờ thì Gary Dean Pruett đang phải thụ án chung thân.
- Ông có nghĩ anh ta vô tội không? - tôi hỏi.
- Tôi không biết. Nhưng anh ta khẳng định là thế.
- Và anh ta đã tìm đến xin sự giúp đỡ của ông - anh ta đã liên hệ với nhóm Dự án Vô tội của ông?
Nụ cười đã trở lại trên đôi mắt Tolliver. Ông ta lắc đầu.
- Đó mới là phần kỳ lạ, - ông ta nói. - Chính lão trộm xe đạp đã gọi điện cho chúng tôi.
- Washburn ư?
Tolliver gật đầu.
- Jana chính là người nhận cuộc gọi đó - vào khoảng giữa tháng Hai. Rõ ràng, Poe Washburn đã bị lương tâm cắn rứt. Lão ta bảo cô ấy là chẳng có lời thú tội trong tù nào cả - lão ta đã bịa ra chuyện đó. Cô ấy đã nghiên cứu đôi chút về vụ của Pruett và thấy nó thiếu thuyết phục như thế nào, rồi cô ấy mang hồ sơ vụ kiện tới cho tôi. Tôi đã bảo cô ấy chúng tôi phải từ chối vụ đó.
- Tại sao?
Tolliver đưa một tay lên vuốt tóc.
- Bởi vì có những thực tế nhất định mà anh phải chấp nhận. Anh không thể cứu vớt tất cả mọi người được. Anh phải biết cân đo nặng nhẹ. Trong hầu hết những vụ kiện kiểu này, một bản án chỉ có thể lật ngược nhờ vào bằng chứng ADN. Phản đối ADN rất khó. Nếu nó không khớp, anh đã bắt nhầm người. Nhưng không hề có mẫu ADN của kẻ thủ ác trong vụ kiện của Pruett. Vợ Pruett cũng không bị xâm hại.
Vậy chỉ còn có lời thú tội kia. Giả sử Washburn bịa ra chuyện đó. Anh phải thuyết phục được thẩm phán rằng trước đó, lão ta đã nói dối, nhưng lúc này lại đang nói thật. Sau đó, anh sẽ phải chứng minh rằng nếu không có lời thú tội kia, bồi thẩm đoàn đã không buộc tội Gary Pruett. Đó là một việc không chắc chắn. Nhưng ngay cả khi anh có thể chứng minh được, Pruett vẫn chưa được thả tự do. Giỏi lắm thì anh chỉ giúp anh ta được xử lại thôi.
Hơn nữa, còn có yếu tố thời gian. Tính đến nay, vợ Pruett bị sát hại chưa đầy 2 năm trước. Pruett bị kết án vào mùa xuân năm ngoái. Nếu không gây ra chuyện đó thì anh ta đã phải chịu đựng nỗi bất công khủng khiếp. Nhưng cũng có những người khác cũng đang phải chịu đựng bất công như vậy nhiều thập kỷ nay rồi. Thời gian không nên là vấn đề, nhưng thực sự lại có. Nếu anh không thể giúp tất cả, hãy cố gắng giúp những người phải chờ đợi lâu nhất.
Tolliver nhấc chân khỏi chậu hoa và rướn người về phía tôi.
- Tôi đã tranh luận tất cả những điều này với Jana, vào tháng Hai, - ông ta nói. - Cô ấy không hài lòng. Tôi không trách cô ấy. Tôi cũng chẳng vui vẻ gì.
- Nhưng cô ấy không chịu từ bỏ, - tôi nói.
- Không. Đó là lý do tại sao cô ấy đến đây, vào Chủ nhật tuần trước nữa. Để cố gắng thuyết phục tôi lần nữa. - Ông ta cau mày. - Và cô ấy đã phải nhận một bên mắt bầm tím, bởi vì Roger muốn chơi đùa.
- Nhưng ông không đổi ý?
- Đúng và không đúng, - ông ta nói và nhìn xuống sàn. - Tôi không hứa hẹn điều gì cả, nhưng tôi đã bảo mình sẽ nói chuyện với Poe Washburn. Tôi nghĩ ít nhất mình có thể thế.
- Vậy ông đã nói chuyện với lão ta?
- Qua điện thoại, đúng vậy. Nhưng chuyện không được suôn sẻ cho lắm. Khi tôi hỏi liệu lão ta đã sẵn lòng tuyên thệ trước tòa chưa - nói rằng lão ta đã bịa ra lời thú tội của Pruett - lão ta đã trả lời vòng vo. “Tôi muốn làm điều đúng đắn”, lão ta bảo tôi, “nhưng thật khó để biết được điều gì là đúng đắn. Và tôi cần biết chắc chắn rằng anh sẽ bảo vệ tôi”.
- Ý lão ta là gì? - tôi hỏi. - Có phải lão ta sợ chuyện gì đó sẽ xảy đến với mình nếu nói ra sự thật không?
Tolliver ngẩng lên nhìn tôi.
- Đó là một lời ngụ ý: sẽ có người không thích nếu lão ta thay đổi câu chuyện đã kể. Nhưng còn là vì tiền nữa. Lão ta nói đến việc tạo dựng một khởi đầu mới. “Tôi phải rời khỏi thành phố này”, lão ta nói, “và nó chẳng hề rẻ chút nào”. Cuối cùng, tôi đã thẳng thừng chất vấn lão ta: Có thật Pruett đã thú tội với lão ta không? “Tôi sẽ nói những gì anh muốn tôi nói”, lão ta bảo tôi. “Miễn là anh sẵn lòng lo liệu cho tôi”.
Tolliver nhún vai.
- Chuyện chỉ có thế. Tôi biết lão ta không quan tâm đến chuyện giúp đỡ Gary Pruett. Lão ta gọi cho chúng tôi vì hy vọng mình có thể kiếm chác được gì đó từ chuyện này và lão ta cũng sẽ không giúp ích được gì khi ra làm nhân chứng.
Tôi nhìn Tolliver với tay xuống chậu hoa và ngắt một nhánh cỏ bốn lá.
- Jana đã nói gì khi ông kể cho cô ấy chuyện đó? - tôi hỏi ông ta.
- Tôi không kể với cô ấy, - ông ta nói. - Tôi gặp cô ấy ngày hôm kia và định kể với cô ấy. Nhưng tôi biết cô ấy sẽ thất vọng. Và cô ấy đã thay đổi, dường như vui vẻ hơn trước đây. Khi tôi hỏi cô ấy chuyện gì đã xảy ra, cô ấy nói mình đã gặp một người. Tôi hỏi, “Anh ta tên là gì?” và cô ấy trả lời là “David”. Vậy nên khi tôi thấy tên anh trên cái xe tải, tôi biết ngay anh là ai. - Ông ta di di nhánh cỏ bốn lá giữa những ngón tay rồi búng nó đi. - Và giờ chúng ta đang ngồi đây, nhưng Jana thì đã không còn nữa. Cảnh sát có manh mối gì không?
Tôi cân nhắc xem mình nên trả lời thế nào. Manh mối duy nhất tôi có thể cung cấp cho Frank Moretti chính là que kem trong rừng.
- Thật sự tôi không biết, - tôi nói.
Tolliver đứng dậy khỏi ghế. Bên ngoài sân, chú chó Roger đang bắt đầu trở nên bồn chồn không yên. Nó đang cào cào lớp đất bên dưới hàng rào.
- Anh nên cẩn thận, - Tolliver bảo tôi. - Những gã bạn trai luôn luôn là đối tượng tình nghi.
Tôi suýt nói giảng viên Đại học cũng thế thôi.
Ông ta rút ví ra và lấy đưa tôi một tấm danh thiếp.
- Anh sẽ muốn tránh xa đám cảnh sát, - ông ta nói. - Cứ gọi cho tôi nếu anh cần gì đó.
Tôi đứng dậy và nhận lấy tấm danh thiếp, cảm thấy thắc mắc về Roger Tolliver. Bởi vì ông ta đã nói đúng: Tôi chính là đối tượng tình nghi. Nhưng dường như ông ta lại không chút nghi ngờ tôi. Có lẽ đó là quy tắc hành xử của giới luật sư biện hộ: Tất cả mọi người đều được coi là vô tội. Có lẽ, ông ta tin vào đánh giá của Jana và cho rằng cô ấy sẽ không dính líu tới một kẻ sẽ giết mình. Hoặc có lẽ ông ta biết tôi vô tội bởi vì biết chính xác chuyện gì đã xảy ra với Jana, bởi vì ông ta chính là kẻ đã bóp cổ cô ấy.
Chẳng thể nói chắc được khi chúng tôi đang đứng trên sàn hiên ngoài trời dưới ánh sáng hoàng hôn như thế này.
- Ông nghĩ ai đã sát hại cô ấy? - tôi hỏi ông ta.
Câu hỏi dường như khiến ông ta ngạc nhiên.
- Tôi không tài nào đoán nổi, - ông ta nói. - Có lẽ chỉ là một vụ phạm tội ngẫu nhiên. Khu vực mà cô ấy sinh sống...
Giọng ông ta nhỏ dần như thể chẳng cần nói thêm điều gì nữa.
- Vậy còn Poe Washburn? - tôi hỏi.
Ông ta nhướn mày.
- Washburn không có tiền án bạo lực. Tôi không biết động cơ của lão ta sẽ là gì.
Tôi hỏi tiếp:
- Vậy còn những kẻ mà Washburn e sợ?
- Tại sao họ lại giết Jana chứ?
- Họ muốn Washburn câm miệng. Còn Jana thì lại muốn lão ta nói ra.
Ý kiến ấy dường như khiến ông ta bận tâm. Tôi có thể thấy được điều đó trong điệu bộ và ánh mắt ông ta. Tôi cho rằng có lẽ đó chỉ là diễn, nhưng nếu đúng là vậy thì ông ta đã làm rất tốt.
- Tôi cho rằng Washburn chỉ đang bịa ra những kẻ kia mà thôi, - Tolliver nói. - Lão ta muốn biện minh cho việc xin tiền tôi. Tôi không tin đó thực sự là một mối đe dọa. - Ông ta lại nhăn trán. - Anh có nghĩ là tôi đã lầm không?
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét