Thứ Hai, 3 tháng 8, 2020

Mục Tiêu Cuối Cùng - 2

Mục Tiêu Cuối Cùng
(The Last Dead Girl)

Tác giả: Harry Dolan
Dịch giả: Đỗ Phi
NXB Lao Động - 2018

2

Một tuần trước đó

Jana Fletcher lại nằm mơ thấy mình đang bị nhốt trong một nơi tăm tối dưới lòng đất. Trong giấc mơ đó, có tiếng của những sinh vật nhỏ bé nhốn nháo chạy lẫn với mùi ẩm thấp. Và có một cánh cửa mà cô chẳng bao giờ có thể với tới được. Một cánh cửa đơn giản với nắm đấm làm bằng kim loại màu đen đã hơi lỗi thời. Một cánh cửa bạn sẽ không muốn quay lưng lại bởi vì bạn không thể tin tưởng nó và cũng bởi nó không thuộc về thế giới dưới lòng đất này. Nếu bạn quay lưng lại, nó có thể sẽ mở ra.
Cô bừng tỉnh trong đêm và ngồi dậy, lắng nghe tiếng thở của chính mình cùng tiếng đệm lò xo kêu cọt kẹt theo từng chuyển động. David trở mình bên cạnh và cô cảm nhận được bàn tay anh đang đặt trên eo mình.
- Có chuyện gì vậy em? - giọng ngái ngủ cất lên.
- Không có gì đâu, - cô nói.
Ánh trăng chiếu rọi qua cửa sổ. Cô đợi David chìm lại vào giấc ngủ rồi xuống giường và tìm chiếc áo sơ mi cài cúc của anh. Cô mặc nó vào rồi đi chân trần vào nhà tắm. Giấc mơ kia đã tan biến khỏi tâm trí. Nó từng khiến tim cô đập dồn dập và không khí thét gào trong phổi. Đôi khi, cô cần tới cả tiếng đồng hồ để thoát ra khỏi nó. Nhưng lúc này, từng chi tiết mờ dần như một màn sương.
Cô thắp ngọn nến trên bồn rửa mặt và nhìn ngắm gương mặt mình trong gương. Làn da không trắng cũng không đen mà có màu cà phê kem, như mẹ cô từng nói. Một làn da sáng và khỏe mạnh. Nó khiến vết bầm tím trên má cô trông rõ hơn. Jana thử đánh giá vết bầm dưới ánh nến: một quầng thâm hình lưỡi liềm hiện lên quanh mắt trái. Tím thẫm, màu của mận chín.
Chuyện này rất khó giải thích vì nó trông như vết bị đánh vào mặt.
Cô để ngọn nến tiếp tục cháy và bước vào bếp, vừa đi vừa cài cúc áo sơ mi của David. Rồi cô xoay khóa mở cửa sau và lẻn ra ngoài, để cánh cửa khẽ khàng đóng lại phía sau.
Cô đứng trên nền hiên gạch và ngửa mặt lên ngắm nhìn bầu trời đêm - trăng lưỡi liềm cao vời vợi, lấp ló sau những áng mây mỏng manh. Không khí thật mát mẻ, chắc khoảng 16 độ. Cô thích cảm giác luồng không khí mát mẻ ấy ve vuốt làn da bên dưới áo sơ mi. Trời lúc này không mưa, nhưng mấy ngày nay đã mưa rất nhiều. Và cô biết mưa sẽ còn rơi nhiều hơn nữa.
Những áng mây lững lờ trôi qua vầng trăng treo lơ lửng. Một trong số chúng có hình lưỡi liềm. Giống vết bầm trên mặt cô.
Cô đã dành 3 ngày để xử lý vết bầm và tìm cách giải thích cho sự xuất hiện của nó. Bởi vì con người ta rất hay hỏi. Họ sẽ ngập ngừng và cảm thấy có lỗi nhưng vẫn sẽ hỏi. Một người phụ nữ trong lớp học Luật Hiến pháp từng hỏi cô chuyện gì đã xảy ra và Jana bảo mình bị ngã. Chạy bộ trong công viên, tuột dây giày và ngã sấp mặt. Câu chuyện không được hợp lý cho lắm nhưng người phụ nữ đó vẫn tin cô. Bởi một điều khác nữa là người ta muốn tin. Họ muốn nhận được một lời giải thích dễ chịu và khiến họ yên lòng.
Còn cả những người khác nữa. Chẳng hạn một gã thu ngân ở cửa hàng cô mua cà phê. Với anh ta, cô lại bịa ra câu chuyện về đứa con của một người bạn. Một đứa bé. Trẻ con hay chơi với những khối hình bằng gỗ kêu lạch cạch. Chúng ăn vạ rồi ném đồ linh tinh. Câu chuyện đã nói lên tất cả.
Cô phải né đi chứ, gã đó nói. Jana bật cười. Lần tới, cô sẽ làm vậy.
Rồi đến viên quản lý ở nhà hàng nơi cô đang làm bồi bàn: một người phụ nữ ân cần như một người mẹ dù chị ta không lớn hơn cô là mấy. Chị ta tỏ vẻ quan tâm nhiều hơn những người khác một chút khi hỏi và Jana cũng trả lời một cách thận trọng hơn. Cô bịa ra chuyện đội bóng mềm [Softball: một nhánh của bóng chày nhưng có bóng to hơn và sân nhỏ hơn], không chơi nghiêm túc, chỉ một trận mỗi tuần. Jana chơi ở vị trí chốt gôn 2 [Second base: vị trí chơi ở khu vực sân trong, ở giữa căn cứ (base) 1 và 3]. Ai đó đã phát bóng lên, cú nảy bóng bất ngờ đến nỗi cô không kịp giơ găng ra bắt. Và một quả bóng mềm thì không được mềm lắm, nhất là khi bị nó đập vào mặt.
Jana nghĩ đó là một lời nói dối hợp lý. Phần cô thích nhất chính là cú nảy bóng bất ngờ. Cô chơi cho đội bóng mềm hồi học Trung học. Huấn luyện viên luôn căn dặn cô phải coi chừng và tỉnh táo bởi vì đôi khi bóng sẽ nảy lên bất ngờ.
Viên quản lý nhà hàng lắng nghe câu chuyện với vẻ mặt nghiêm trang. Có chút hoài nghi.
- Cô muốn kết thúc mọi chuyện thế này sao? - chị ta hỏi khi Jana kết thúc câu chuyện.
- Tôi không chắc ý chị là gì.
Viên quản lý trông có vẻ buồn rầu.
- Ý tôi là cô có thể tin tôi, cưng ạ. Cô có thể nói với tôi chuyện gì đã xảy ra. Không cần phải bịa chuyện.
Jana suýt mủi lòng vì sự tử tế trong giọng nói của chị ta. Nhưng cuối cùng cô lại nói:
- Đó không phải là chuyện bịa, mà chính là những gì đã xảy ra. - Cô mỉm cười, - Tôi không có câu chuyện nào cả.
Viên quản lý thở dài rồi gợi ý Jana nên nghỉ ngơi vài ngày và quay lại vào cuối tuần, sau khi vết bầm đã xẹp bớt. Sau đó, cô có thể trang điểm để che nó đi cho khách hàng khỏi giật mình. Những vết bầm tím không có lợi cho việc kinh doanh. Sẽ không khó khăn gì để che được nó đi, viên quản lý có thể chỉ cách cho Jana vì chị ta biết một vài bí quyết.
Và giờ đây, dưới ánh trăng, cô nhớ lại cuộc trò chuyện giữa họ. Cô vẫn chưa quay lại nhà hàng kể từ hôm ấy và cũng không chắc liệu mình có quay lại làm việc nữa hay không. Nhưng cô không hối hận về những lời nói dối của mình. Không phải chuyện cú đánh bất ngờ hay rằng cô không có câu chuyện nào cả.
Bởi vì đó cũng chính là một lời nói dối. Cô có những câu chuyện của riêng mình.
Chẳng hạn như David. Cô đã gặp anh 3 đêm trước. Dưới mưa. Cô đã đưa anh về căn hộ của mình, một nửa của căn nhà song lập [Duplex: nhà có 2 cửa chính, 2 căn nhà đồng dạng và liên kết với nhau] trong một con ngõ cụt. Và cô đã ngủ với anh ngay đêm đầu tiên đó, điều cô chưa bao giờ làm, nhưng anh là một người đàn ông cao to và cô thích hình dáng chiếc cằm cùng giọng nói có chút khàn khàn của anh như thể vừa mới bình phục lại sau một cơn cảm lạnh.
Anh còn có một đôi tay mạnh mẽ nhưng cũng đủ thông minh để trao cho cô quyền kiểm soát. Anh để cô cởi bỏ quần áo cho anh trong lần đầu tiên rồi đặt lưng xuống, gót chân buông hờ hững dưới chân giường. Cô dùng cả tay và miệng mình để khám phá thân hình săn chắc của anh. Cơ thể anh rất nhanh chóng đã có phản ứng và giữ nguyên như vậy, nhưng anh không hề thúc giục cô. Và cuối cùng, cô cũng đặt nụ hôn lên ngực anh, vòng tay ôm lấy anh, rồi ngồi lên người anh, đưa anh vào bên trong cơ thể mình. Anh vẫn tiếp tục chờ đợi và để cô dẫn dắt, rồi cô chìm đắm bản thân mình vào anh, hoàn toàn trọn vẹn, trước khi cảm thấy đôi tay mạnh mẽ của anh đặt trên hông mình. Sau đó, chỉ còn lại tiếng cọt kẹt của chiếc đệm lò xo cùng giọng nói của anh khi anh gọi tên cô và khi đã đạt đến đỉnh khoái lạc, cô bắt đầu rên rỉ, điều vốn cũng chưa từng xảy ra trước đó.
David. Cô không biết nhiều về anh, ngoại trừ việc anh lớn hơn cô 1 tuổi - 26 - và anh lớn lên ở đây, ở mảnh đất Rome, New York này. Anh đã học Đại học ở một nơi khác và có bằng kỹ sư. Cô nghĩ anh xuất thân trong một gia đình giàu có nhưng không dám chắc. Có nét gì đó trong cách anh nói chuyện và hành xử - sự tự tin. Khi đưa cô đi chơi, anh trả tiền không chút do dự. Tuy nhiên, công việc của anh lại là kiểm tra hiện trạng nhà cho những người muốn mua. Đó không phải một công việc có thể gọi là quyền cao chức trọng. Anh lái xe bán tải và nó cũng không phải đồ mới, nhưng lại rất thoải mái. Những thông tin đối lập. Và cô cũng chưa từng tới nhà anh.
Cô không biết anh nghĩ gì về mình khi sống trong căn hộ rẻ tiền của cô. Có lẽ, anh nghĩ rằng cô cũng xuất thân từ một gia đình giàu có nhưng lại chọn đến sống ở một khu tồi tàn nhằm cố gắng chứng minh mình có thể tự lập.
Cô đoán một phần nguyên nhân là vì anh yêu thích cơ thể và làn da của cô. Da anh màu trắng nhợt, vậy nên việc ngủ với một cô nàng da đen sẽ mang lại một cảm giác hoàn toàn mới lạ. Điều đó thật buồn cười bởi vì cô không bao giờ nghĩ mình là một cô nàng da đen. Cô có một người cha da đen mà cô chưa từng gặp và một người mẹ da trắng đã nuôi nấng cô ở Geneva, New York, một thị trấn nhỏ nằm bên bờ hồ Seneca.
Và David chính là một chuyện tốt lành. Jana không biết anh sẽ ở đây bao lâu nhưng kể từ hôm họ gặp nhau, đêm nào anh cũng tới. Và nếu mọi chuyện vẫn tiếp diễn như thế này, cô sẽ phải làm gì đây với chiếc đệm lò xo của mình, bởi vì bà chủ nhà đang sống ngay trong nửa bên kia của căn nhà song lập - một bà lão đáng kính - và giờ đây, bất cứ khi nào chạm mặt bà ấy, Jana đều phải nhận một ánh mắt không mấy đồng tình.
Nhưng cô sẽ không lo lắng về bà chủ nhà của mình.
Jana bước từ hiên xuống bãi cỏ hơi dốc trải dài đến tận bìa rừng phía xa xa. Mặt đất ẩm ướt lún xuổng bên dưới đôi chân trần của cô. Làn gió nhẹ thoảng qua, mát lạnh trên da thịt. Jana không mặc gì ngoài chiếc áo sơ mi của David và nó rất mỏng. Không khác gì khỏa thân.
Một ý nghĩ thật táo bạo. Những ngón tay từ từ lần mở cúc áo sơ mi, từng cái một. Cô tách hai vạt áo ra, kéo trễ khỏi vai và thử thách chính bản thân mình. Một Jana bạo gan liều lĩnh. Cô sởn gai ốc ở bụng và ngực, cảm thấy bầu ngực cứng lại trong không khí.
David đang ở trong. Rất gần. Cô có thể đánh thức anh dậy, kéo anh ra ngoài này và đẩy anh nằm xuống bãi cỏ. Cô nhắm mắt lại để cảnh tượng tiếp diễn trong tâm trí.
Bỗng có thứ gì đó di chuyển và cô choàng mở mắt. Cô kéo áo sơ mi lên tận cổ và vòng tay ôm lây chính mình. Cô có cảm giác bị theo dõi, một cảm giác chân thực, như cảm giác của làn gió trên da cô. Cô nghĩ tới bà chủ nhà, người cũng có một khoảng hiên gạch ngay gần đó, phía bên kia đống củi và bụi hoa mai Mỹ [Forsythia], nhưng khi cô đi kiểm tra thì không có ai ở đây cả. Cô nhìn qua phía bên kia bãi cỏ, cố căng mắt nhìn xem liệu có bóng hình nào lấp ló trong rừng cây hay không. Nhưng tất cả những gì cô có thể thấy được chỉ là bóng tối len lỏi giữa những hàng cây.
Mình chỉ đang tự dọa bản thân thôi, cô nghĩ. Chẳng có gì cả. Chỉ là quá nhiều ánh trăng và đêm đen mà thôi. Liều lĩnh quá. Kiềm chế nào, Jana.
Không có gì hết cả.

* * *

Tôi trở mình nằm nghiêng và với tay tìm kiếm Jana, nhưng chẳng thấy gì ngoài tấm ga trải giường nhàu nhĩ. Tôi ngồi dậy và đứng khỏa thân trong không gian lờ mờ của căn phòng, tìm kiếm chiếc quần boxer rồi mặc vào. Không thấy cái áo sơ mi đâu cả.
Tôi cứ thế đi chân trần trên mặt sàn gỗ cứng khắp căn hộ mà không lo bị hụt chân vấp phải bất cứ thứ gì, bởi đây chính là căn hộ sơ sài nhất tôi từng thấy. Không bày bừa lộn xộn, cũng chẳng có quần áo vứt vương vãi trên sàn nhà. Thật ra, Jana Fletcher có ít quần áo hơn những người phụ nữ mà tôi biết: Toàn bộ quần áo của cô có thể dễ dàng xếp vừa vặn trong một chiếc tủ nhỏ và một ngăn kéo. Cô có đúng 4 đôi giày: một đôi giày đế mềm, một đôi leo núi, một đôi giày da loafer và một đôi cao gót.
Đồ đạc trong nhà cũng ít ỏi: tủ ngăn kéo, giường, tủ đầu giường, một chiếc bàn đặt trong phòng khách nhưng không có sofa hay TV. Cũng chẳng có máy tính. Những khi cần nghiên cứu hay viết bài, cô sẽ đến phòng máy tính ở trường Đại học.
Chiếc bàn của Jana đặt đối diện một bức tường trống trơn. Gần đó là một lò sưởi đốt củi nhỏ với mặt lò là một cái kệ. Trên mặt kệ có một tấm gỗ dài, kích thước 2x4 [Đơn vị foot: 1 foot = 30,48 cm] được đục 4 lỗ nông, mỗi lỗ đủ rộng để đựng một ngọn nến trà. [Tealight candle: một loại nến được bọc trong cốc kim loại mỏng hoặc cốc nhựa để có thể hóa lỏng hoàn toàn trong khi cháy].
Những ngọn nến lúc này đều đang cháy.
Ngoài ra, thứ duy nhất đặt trên mặt lò sưởi là một chiếc bát làm từ đất sét đựng một đồng xu duy nhất: đồng 25 xu. Nhưng đồng xu trông rất lạ. Không hoàn hảo. Một phần của đồng xu đã bị mài mòn đến nỗi góc phần tư bên trái phía trên - ngay vùng quanh trán của George Washington - đã biến thành đầu nhọn.
Cũng không có những món đồ trang trí rẻ tiền. Không có đồ lưu niệm hay bình hoa. Jana chỉ có vài cuốn sách giáo khoa cùng một bộ sưu tập tiểu thuyết nho nhỏ nhưng rất phong phú, từ Alexandre Dumas cho tới Stephen King. Cô có hai chậu cây trồng trong nhà. Giờ tôi có thể nhìn thấy chúng khi bước qua cổng vòm vào nhà bếp. Một cây xương rồng và một cây hoa tử linh lan được trồng trong hai cái chậu giống hệt nhau, đặt ngay chính giữa bàn bếp và được ánh đèn le lói phía trên bếp lò dịu dàng bao bọc lấy.
Cửa sau căn hộ đang để mở. Tôi nhìn qua ô cửa kính khép kín và thấy Jana đang đứng ngoài bãi cỏ. Cô khoác trên người chiếc áo sơ mi của tôi, dài đến tận đầu gối. Tôi tiến tới gần cửa hơn nhưng không bước ra ngoài, nhìn cô giũ bỏ chiếc áo, phô bày tấm lưng và đôi vai trần. Mái tóc sẫm màu buông xõa trên hõm vai. Cơ thể cô trông như một bức tượng với những mảng màu đen và xám dưới ánh trăng bàng bạc. Và mặc dù chỉ mới quen cô được 3 ngày, tôi nghĩ có lẽ mình đã yêu cô.

* * *

Tôi đang chạy xe trên một con đường tăm tối bên ngoài địa phận Rome vào cái đêm chúng tôi gặp nhau.
Khi nhắc đến phía bắc tiểu bang New York, người ta thường nghĩ ngay đến đồng ruộng và núi đồi nhấp nhô trập trùng. Những con đường uốn lượn như rắn và những thị trấn nhỏ không bao giờ thay đổi. Giới hạn tốc độ giờ đã giảm xuống 30 dặm. Có một trạm xăng, một tiệm tạp hóa và một nhà kho bày bán đồ cổ. Còn có một bà cụ ngồi trên ghế bập bênh trước hiên nhà cùng một sạp rau củ ven đường trước khi giới hạn tốc độ tăng lên 55 và không còn gì để nhìn ngoài đồng ruộng và cây cối.
Rome không phải một trong những thị trấn nhỏ bé ấy, mà là một thành phố. Ở đó, có cả những khu tốt đẹp lẫn những chỗ chẳng ra sao. Nó có những doanh nghiệp đang lên và những doanh nghiệp đang chết dần chết mòn. Nó có bề dày lịch sử bắt đầu từ thời Cách mạng Mỹ. Đó chính là nơi kênh đào Erie được động thổ năm 1817 và là cái nôi của căn cứ Không Quân trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Rome cũng ảm đạm, trải dài và rực rỡ ánh đèn vào ban đêm như bất kỳ một thành phố nào khác. Vào cái đêm gặp Jana, tôi lại muốn chạy trốn khỏi nó. Tôi rời nhà và lái xe về phía bắc mà không có điểm đến cụ thể nào trong tâm trí. Tôi đi theo tuyến đường 46 và ra khỏi thành phố. Một lúc sau, tôi chọn vài ngã rẽ ngẫu hứng và thế là thẳng tiến về phía tây trên đường Quaker Hill.
Nhà cửa giờ đã nhường chỗ cho những rừng cây. Không còn ánh đèn thành phố, đêm tối trở nên thanh khiết hơn. Cảnh tượng xung quanh bắt đầu trông có chút vô thực, như đôi lúc ta lái xe trong bóng tối. Mưa cũng bắt đầu lất phất rơi. Không phải là một cơn mưa dữ dội mà chỉ vừa đủ làm ướt con đường phía trước mặt, tạo nên những mảng đen lấp lánh trong ánh đèn pha chiếu rọi từ xe tải của tôi. Như thể tôi đang lái xe trên mặt đá obsidian  vậy. [Đá obsidian hay còn gọi là đá thủy tinh núi lửa, đá vỏ chai: Một dạng thủy tinh núi lửa tự nhiên được tạo ra ở dạng đá mácma phun trào]
Dọc theo hai bên đường là những cây sồi và khi ánh sáng quét qua chúng, đám lá cây bỗng trở nên lấp lánh như những viên đá quý. Tôi nhớ là như vậy. Và tôi cũng nhớ được cái ý nghĩ rằng mình đang đi xuyên qua một khu rừng bạt ngàn ngọc lục bảo.
Rồi bỗng từ đâu, một con hươu xuất hiện.
Nó nhảy vọt ra từ rừng cây nằm phía nam con đường và không hề cố gắng băng qua trước mặt tôi. Nó còn chẳng tiến vào làn đường tôi đang đi. Tôi có thể nhìn rõ nó nhờ ánh đèn pha chiếu xa của xe tải. Rồi khi tôi bắt kịp con hươu và nó đang ở ngay bên cạnh, đang chạy cùng tôi giống như một chú chó to lớn thân thiện. Nó ở kế bên tôi, lờ mờ trong đêm tối và tôi thề rằng chỉ cần hạ cửa sổ xe xuống, tôi sẽ có thể vươn tay ra chạm vào nó.
Cơn mưa khiến tôi phải cho xe chạy chậm, nhưng không quá chậm: khoảng 45 hoặc 50 dặm một giờ. Tôi từng đọc được ở đâu đó rằng loài nai có thể chạy 40 dặm một giờ, nhưng mỗi giây trôi qua, con hươu vẫn cứ theo kịp tôi.
Tôi chưa từng nghĩ tới chuyện tăng tốc hay đi chậm lại.
Khi chúng tôi ra đến đoạn đường cong thì mọi chuyện thay đổi. Có lẽ con hươu đã bắt đầu thấy kiệt sức hoặc nó đã quyết định để cho tôi thắng cuộc. Dù là thế nào, nó cũng không còn hào hứng như trước. Nó vẫn nhảy theo sau, nhưng giờ tôi chỉ có thể nhìn thấy nó qua gương chiếu hậu, một cái bóng cứ nhỏ dần rồi biến mất trong màn đêm.
Tôi thở ra một hơi. Mưa rơi thành từng dòng mỏng manh trên tấm kính chắn gió rồi bị cần gạt nước xóa sạch đi. Đi thêm nửa dặm nữa, tôi nhìn thấy những ánh đèn pha đang tiến về phía mình. Tôi chuyển từ đèn pha chiếu xa sang chiếu gần và một chiếc xe vội vã lướt qua bên làn đường chạy về hướng đông. Nó trông chẳng có gì đặc biệt, chỉ là một chiếc ô tô nhỏ cà tàng, nhưng tay tài xế vẫn thúc nó mạnh mẽ lao tới. Tôi nhìn theo những chiếc đèn sau xe khuất dần trong gương chiếu hậu.
Tôi tự hỏi liệu con hươu có còn ở trên đường hay không. Có lẽ là không. Hoặc giả nếu nó vẫn đang chạy trên đường, chắc hẳn tay tài xế sẽ kịp nhìn thấy nó. Không có lý do gì để nghĩ sẽ có chuyện khủng khiếp xảy ra, mà tôi cũng đâu làm được gì. Vì vậy, tôi không cần phải đạp phanh hay bắt đầu tìm chỗ quay đầu xe.
Tôi bắt gặp một con đường nhánh nhỏ dẫn tới cánh đồng của vài người nông dân, rẽ vào lối đó rồi trở ra, đánh tay lái vòng lại và thẳng tiến về phía đông. Mưa vẫn mặc sức rơi. Quang cảnh hướng này chẳng có gì khác biệt, những chiếc lá vẫn trông như những viên ngọc lục bảo sắc cạnh.
Đúng lúc đang nghĩ mình đã đi đủ xa và cũng sẽ chẳng tìm thấy gì, tôi mới vòng vào một khúc cua và nhìn thấy ánh đèn phía xa xa: Màu đỏ của đèn hậu cùng ánh sáng nhấp nháy lờ đờ từ chiếc đèn báo hiệu khẩn cấp.
Chiếc ô tô nhỏ đang nằm đó, bên lề đường và không hề nhúc nhích. Con hươu cũng ở đó. Cả Jana Fletcher cũng vậy.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét