Thứ Hai, 24 tháng 8, 2020

Mục Tiêu Cuối Cùng - 46

Mục Tiêu Cuối Cùng
(The Last Dead Girl)

Tác giả: Harry Dolan
Dịch giả: Đỗ Phi
NXB Lao Động - 2018

46

Nhiều tuần đã trôi qua trước khi họ tìm thấy thi thể của Neil Pruett.
Cơn bão đã qua đi trước rạng sáng thứ Bảy và đến tối Chủ nhật thì toàn thành phố đã có điện, vẫn còn rất nhiều thứ phải dọn dẹp. Mái nhà cần sửa chữa. Tôi làm bản thân bận rộn.
Khi Megan Pruett không tới trường vào thứ Hai và cũng không gọi điện báo nghỉ, một số đồng nghiệp đã cảm thấy lo lắng. Hai người đã lái xe tới nhà cô ta vào thứ Ba nhưng không có ai. Họ cố gọi điện cho chồng cô ta song cũng không thấy trả lời. Cuối cùng, họ lái xe tới ngôi nhà trên phố Bloomfield và thấy xe cô ta đậu đằng trước. Họ bước lên hiên nhà, đi qua cánh cửa bị hỏng vào bên trong và nhìn thấy chữ K trên tường. Họ gọi cảnh sát.
Cảnh sát đã tìm thấy thi thể của Megan trong cốp xe cô ta. Chết vì bị cung tên bắn.
Đó là khi họ bắt đầu tìm kiếm chồng cô ta.
Cuộc săn tìm Neil Pruett mở đầu bằng một bản tin được thông báo rộng rãi trên toàn tiểu bang và nhanh chóng lan ra khắp cả vùng đông bắc. Có báo án ở tận Harrisburg, Pennsylvania, Bangor và Maine. Một người phụ nữ đã thề rằng cô ta từng trông thấy hắn đang vượt biên sang Canada ở thác Niagara.
Mọi người thường nhìn thấy những gì họ muốn và có đầy những người đàn ông tầm 40, mặt mũi phổ thông và tóc vàng.
Cảnh sát đã được nghỉ ngơi vào tháng Bảy khi một viên cảnh sát nghỉ hưu cùng vợ đỗ lại bên đường Humaston để tìm mâm xôi dại. Viên cảnh sát có theo dõi vụ án và đã nhận ra chiếc xe của Pruett khi phát hiện nó đang đỗ phía sau toa xe moóc của Luke Daw.
Ba ngày sau đó, cảnh sát Rome đã tìm thấy Pruett nhờ sự giúp sức của một chú chó chuyên tìm kiếm tử thi mượn từ cảnh sát trưởng của hạt. Họ phát hiện ra hắn trong căn phòng dưới lòng đất của Luke. Ngay chỗ tôi đã đặt hắn.

* * *

Đêm có bão. Warren mặc chiếc áo đẫm máu, đứng bên cạnh Neil Pruett với khẩu Makarov. Sophie chạy về phía tôi. Tôi lội qua vũng nước, ôm lấy cô ấy và hỏi cô ấy có bị thương không, nói rằng tôi xin lỗi.
Tôi dùng dao bỏ túi cắt băng dính trói cổ tay cô ấy.
Tôi quay lại và thấy Warren bắn một phát nữa vào bụng Pruett. Tiếng sấm vang rền át đi tiếng hét của Pruett. Warren chĩa súng vào đầu Pruett và bóp cò lần nữa.
Nhưng chẳng có gì xảy ra.
Warren không bối rối. Anh ta bước sang bên phải Pruett và giẫm mạnh gót giày lên tay hắn. Anh ta cũng làm thế ở bên trái. Anh ta rút đèn pin ra khỏi túi quần sau và dùng nó đập vỡ mũi Pruett. Không có tiếng sấm vang lên che đậy những tiếng hét.
Chúng tôi đi tới chỗ anh ta. Tôi lấy khẩu súng đi - thật nhẹ nhàng - và bật chốt an toàn. Anh ta đưa chân đá vào bên cổ Pruett.
- Đủ rồi, - tôi nói.
Warren co chân lại định bồi thêm một cú đá nữa, nhưng hành động đó lại khiến anh ta loạng choạng. Tôi đỡ và giúp anh ta ngồi xuống đất.
- Tôi ổn, - anh ta nói.
Tôi mở áo anh ta ra. Viên đạn đã găm trúng vào vai. Chúng tôi nhìn vết thương dưới ánh đèn pin của anh ta. Sophie cúi xuống và nheo mắt. Tôi nhớ ra chiếc kính của cô ấy vẫn đang nằm trong túi quần Warren. Tôi đưa nó cho cô ấy.
- Anh ấy cần phải tới bệnh viện, - cô ấy nói.
- Không bệnh viện gì hết, - Warren đáp.
Neil Pruett cố gắng ngồi dậy. Tôi đẩy hắn xuống.
- Tôi không sao, - Warren nói.
Anh ta trông rất ổn.
- Em chở anh ta về căn hộ thì sao? - tôi hỏi Sophie. - Em chữa cho anh ta được không?
- Không, - anh ta nói.
- Chắc được, - Sophie nói.
Tôi đưa cô ấy chìa khóa xe của mình.
- Xe tải đỗ ngay cạnh toa xe moóc. Lúc nào được thì quay lại đón anh.
- Tôi sẽ không đi, - Warren nói và hất cằm về phía Pruett. - Nhất là khi hắn vẫn còn sống.
Tôi quỳ gối xuống để có thể nhìn vào mắt Warren.
- Tôi sẽ lo liệu hắn, - tôi nói. - Tôi hứa với anh đấy.

* * *

Tôi đứng cạnh chuồng gia súc và nhìn Sophie dẫn Warren xuống đồi. Tôi theo dõi hành trình của họ dưới ánh trăng và những tia sét. Warren vẫn ổn. Anh ta đứng vững.
Khi quay trở lại với Neil Pruett, tôi thấy hắn đang đứng, cố gắng đặt ngón tay gãy lên cò khẩu súng rỗng đạn của hắn. Tôi chộp lấy nó.
- Thôi đi, - tôi nói và nắm lấy cánh tay hắn. - Chúng ta vẫn chưa xong việc đâu.
Tôi dẫn hắn đi về phía căn nhà, và khi hắn loạng choạng, tôi đỡ hắn. Cánh cửa trên mặt đất vẫn đang mở. Pruett không muốn xuống, nhưng tôi không cho hắn quyền lựa chọn.
Tôi bật đèn pin của Warren lên. Cầu thang đã ướt sũng vì mưa. Nửa chừng, Pruett trượt chân. Hay là giả vờ trượt. Hắn ngã đè vào tôi. Có lẽ hắn đang cố gắng xô tôi ngã. Tôi né được và đẩy hắn. Hắn ngã xuống nốt đoạn cầu thang còn lại. Tôi e là hắn đã ngã rất mạnh. Hắn gãy xương mác, một phần xương cẳng chân.
Nó chọc qua da và xé toạc ống quần bên trái của hắn. Tôi có thể nhìn thấy nó nhô ra, giống như đầu một ngọn giáo bị gãy.
Hắn rít lên.
Tôi kéo hắn vào phòng.
Hắn đã bất tỉnh và tôi được giải thoát khỏi ồn ào. Tôi đặt hắn nằm ngửa trên tấm đệm và vòng sợi xích vào cổ hắn. Tôi khóa lại và rút chìa.
Tôi xé gấu áo của mình và dùng nó lau sạch dấu vân tay trên cả sợi xích lẫn ổ khóa.
Pruett tỉnh dậy. Choáng váng. Hắn đưa bàn tay sưng vù lên chạm vào những mắt xích.
- Anh không thể bỏ tôi ở đây được, - hắn nói.
Tôi đi vòng quanh căn phòng tìm kiếm những mảnh xương của Luke Daw, những mảnh lớn mà có lẽ Warren đã chạm vào, rồi lau sạch.
Pruett đưa tay chạm vào chiếc mũi gãy của mình và rên rỉ. Hắn lần tay dọc theo chân trái cho đến khi chạm vào phần xương gãy.
- Đừng chạm vào, - tôi nói. - Người ta gọi đó là vết thương hở. Rất dễ nhiễm trùng.
Hắn đặt tay lên bụng và nó đính đầy máu. Hắn giơ tay lên nhìn cho rõ.
- Thật tệ.
- Tôi biết có vẻ là vậy.
- Tôi cần được giúp đỡ.
- Có lẽ anh sẽ vượt qua được.
Tôi tìm thấy ví và giấy phép của Luke Daw rồi lau sạch.
- Anh phải đưa tôi ra khỏi đây, - Pruett nói.
Tôi đi tới đứng cạnh hắn.
- Có lẽ anh sẽ tự thoát được.
- Vết thương rất nghiêm trọng.
Tôi vẫn còn giữ đồng 25 xu của Jana và đưa cho hắn xem:
- Cô ấy đã thoát ra chỉ với mỗi thứ này, - tôi nói. - Vậy nên chúng ta biết chuyện đó có thể thực hiện được.
Tôi cất đồng xu đi:
- Anh còn đồng tiền lẻ nào trong túi không, Neil?
Hắn không trả lời mà giữ im lặng một lúc. Tôi tiếp tục lau xương của Luke. 5 phút, có lẽ là 10 phút trôi qua. Tôi nghe tiếng Pruett thở khó nhọc. Tôi rọi đèn. Hắn đang cố ngồi dậy.
Hắn kiệt sức và lại ngã xuống.
- Chết thế này thật tàn nhẫn, - hắn nói.
- Tôi biết.
- Anh không cần phải làm thế này, - hắn nói. - Anh có thể bắn tôi.
Tôi để hai khẩu Makarov trong túi. Tôi đặt đèn pin xuống đất rồi lấy chúng ra.
- Những khẩu súng này chỉ là đồ vứt đi, - tôi nói. - Chúng là đồ giả. Không ngờ chúng lại hoạt động.
- Làm đi. Hãy bắn tôi.
- Tôi không muốn lắm.
Neil Pruett vất vả ngồi dậy. Hắn gượng dậy bằng khuỷu tay.
- Tôi sẽ kể cho anh nghe một chuyện về Jana, - hắn nói.
Tôi nhét lại khẩu Makarov hết đạn vào túi. Giữ khẩu còn lại trong tay.
- Cô ta đã nhớ ra tôi, - Pruett nói, - khi tôi đè cô ta xuống.
Hắn duỗi thẳng cánh tay và đẩy người lên.
- Cô ta đã nhớ ra tôi, - hắn nói, - tôi chưa từng trông thấy ai sợ hãi đến vậy.
Không có tiếng sấm. Không có sét. Chỉ có tiếng mưa rơi thảm thương trên cầu thang. Tôi bật chốt an toàn của khẩu Makarov, rồi kéo thanh trượt lại phía sau và thả nó ra. Một viên chưa bắn rơi xuống đệm và viên mới xoay vào ổ.
Có 8 viên đạn trong băng. Tôi đã bắn hai và Warren cũng vậy. Một viên đang nằm trên tấm đệm, vậy là còn lại 3 viên.
Tay Pruett run rẩy. Tôi chĩa súng vào đầu hắn và bóp cò.
Tách.
- Tôi đã nói với anh rồi, - tôi nói. - Đồ bỏ.
Hắn nhắm mắt lại:
- Thử lại đi.
Tôi lại kéo thanh trượt. Và bóp cò.
Tách.
- Chúa ơi, - hắn nói. - Lại đi.
Phát thử cuối cùng. Đầu tiên là kéo thanh trượt, sau đó bóp cò.
Tách.
- Chắc là định mệnh rồi, - tôi nói.
Hắn không nói gì.
Tôi nhét khẩu súng vào túi. Nhặt những viên đạn và cái đèn pin lên. Và tôi bỏ hắn ở đó.

* * *

Khi họ tìm thấy thi thể của hắn, câu chuyện trở thành tin tức hàng đầu trong nước. Địa lao ở Bắc New York. Những kênh tin tức truyền hình cáp chiếu nó mấy ngày liền. Chủ đề đó đã mang tới cho họ rất nhiều việc để làm: anh em nhà Pruett, Gary và Neil cùng hai cô vợ bị sát hại của họ. Luke và Eli Daw, cặp anh em họ buôn bán cần sa có kết cục bi thảm. Wendy Daw đã từ chối phỏng vấn, nhưng rất nhiều người khác háo hức lên tiếng - những người đã trưởng thành xung quanh khu vực sinh sống của gia đình Pruett hay có chuyện muốn chia sẻ về anh em nhà Daw. Gary Pruett đã tham gia phỏng vấn trong tù ở Dannemora, tự nhận mình và em trai vô tội.
Cuối tháng Bảy, mọi tin tức đã bắt đầu lắng xuống, cho đến khi một tay phóng viên lần ra được mẹ Luke Daw tại một thị trấn nhỏ ở Nebraska. Maggie Daw đã dành 19 năm qua lang thang khắp vùng Trung Tây và làm bồi bàn tại quán ăn. Bà ấy là một phụ nữ phiền muộn, một vẻ đẹp đã bị tàn phá, với những sợi bạc trên mái tóc và đôi mắt u tối xa xăm. Bà ấy đã gục xuống trước máy quay mà khóc thương cho đứa con trai xấu số của mình và diễn tả lại những ngược đãi mà mình phải chịu đựng vì bố cậu ta.
Sang tháng Tám, có một vụ xả súng tại một trường ở phía tây và một cô gái tóc vàng trẻ đẹp biến mất trong tuần trăng mật. Các kênh truyền hình cáp thôi không quan tâm tới anh em nhà Pruett, anh em nhà Daw và thành phố Rome, New York nữa.

* * *

Cảnh sát Rome đã đeo đuổi cuộc điều tra từ mùa hè sang mùa thu. Phụ trách vụ án không phải thanh tra Frank Moretti, mà là một cảnh sát cộc cằn hói đầu tên O’Keefe, người chuyên mặc dây đeo quần và hút xì gà. O’Keefe đưa ra giả thuyết rằng Neil Pruett đã bị sát hại bởi những tên buôn ma túy, những kẻ chưa rõ danh tính có hợp tác làm ăn với anh em nhà Daw và giết Luke và Eli. Dựa theo giả thuyết này, Megan Pruett chính là nạn nhân ngoài dự kiến, bị chồng mình giết khi cô ta phát hiện hắn dính líu đến đường dây buôn bán ma túy.

Sang tháng Chín, những vết máu thu được từ căn phòng dưới lòng đất đã được đem đi xét nghiệm và khớp với kết quả phân tích ADN của Cathy Pruett. Mọi người bắt đầu tự hỏi liệu Cathy có phải cũng là nạn nhân ngoài dự kiến của vụ bạo lực trong giới buôn bán ma túy hay không. Tờ Rome Sentinel đã cho đăng một bài xã luận viết rằng các bằng chứng mới đã chứng minh cho một góc nhìn khác bản án của Gary Pruett trong vụ sát hại vợ mình. Roger Tolliver đã tuyên bố sẽ đảm trách vụ tố tụng Pruett và sẽ đấu tranh để anh ta được đưa ra tái xét xử.
Tôi đã nói chuyện với Tolliver vài ngày sau tuyên bố của ông ta. Ông ta có vẻ rất quyết tâm và lạc quan. Ông ta tin rằng mình đang làm những gì Jana muốn. Tôi thì không chắc. Nếu Gary Pruett là một kẻ giống như em trai mình, có lẽ nhà tù chính là nơi dành cho anh ta. Anh ta không giết vợ mình nhưng chắc là vì chưa có cơ hội, bởi có kẻ đã ra tay trước.
Tôi có thể hiểu được giúp anh ta cũng có giá trị - theo một cách trừu tượng. Bởi vì tất cả mọi người đều xứng đáng được đưa ra xét xử công bằng và toàn bộ hệ thống sẽ rơi vào hoàn cảnh bất lợi khi công lý bị phủ nhận. Nhưng tôi không dám nói liệu đó có phải những gì Jana mong muốn không.

Sang tháng Chín, tôi vẫn sống trong căn hộ của Jana. Trời về đêm đã bắt đầu trở nên lạnh lẽo hơn và lần đầu tiên kể từ khi cô qua đời, tôi muốn nhóm lửa. Lò sưởi của cô đã bị bỏ bê suốt nhiều tháng trời và khi quét sạch lớp tro tàn trong lò, tôi đã tìm thấy thứ mình vẫn đang hằng tìm kiếm: vài mảnh giấy bị cháy đen quanh mép. Tôi có thể nhận ra phần nào nhan đề trên một trong những mảnh giấy đó: Điều tra về những vụ chết bất thường của hạt Oneida.
Đó là một phần của bản sao báo cáo khám nghiệm tử thi Cathy Pruett.
Tôi đang nhìn thấy những gì còn sót lại của tập hồ sơ màu xanh lá: những ghi chép của Jana về vụ án Pruett.
Tro tàn.
Đã có lúc tôi nghĩ Frank Moretti đã lấy đi những giấy tờ trong tập hồ sơ đó. Sau đó, tôi lại nghĩ chắc kẻ sát hại Jana đã mang chúng theo. Song bây giờ, tôi tin rằng Jana đã tự tay vứt bỏ chúng. Cô đã đốt chúng đi trước khi chết.
Tôi nghĩ Jana làm vậy vì nhận ra mình không có trách nhiệm đối với số phận của Gary Pruett, bởi vì cô đã sẵn sàng buông bỏ vụ án kia và sống tiếp, sẵn sàng để sống cuộc đời của riêng mình.
Tôi muốn nghĩ Jana đã làm thế bởi vì cô thấy hạnh phúc.
Tôi muốn tin mình có liên quan.

* * *

Vào tháng Bảy và tháng Tám, sau khi cảnh sát phát hiện ra căn phòng dưới lòng đất, nhiều người đã kéo tới trang trại trên đường Humaston vì tò mò muốn thấy nơi tử thần chạm tới.
Nhưng sau khi cảnh sát thu thập chứng cứ, hạt đã cử công nhân tới phá dỡ tác phẩm của Luke Daw. Họ đã dỡ nó ra từng tấm, từng tấm một rồi lấp căn hầm chứa và chở những mảnh vụn đổ nát của căn nhà trong trang trại đi nơi khác. Họ cũng cho ủi sập chuồng gia súc, chở những mảnh vụn của nó đi và kéo toa xe moóc của Luke tới bãi phế liệu.
Sang đến tháng Chín, hầu như không còn ai tìm đến trang trại nữa. Chẳng còn gì để xem.
Tôi đã lái xe ra đó vài lần, đặc biệt là sau khi thời tiết đã chuyển sang ấm áp. Có lần, tôi nhìn thấy Angela Reese cùng với một chiếc ghế và giá vẽ đặt trên đồi. Cô ấy đang chuyển từ sơn acrylic sang sơn dầu, từ tranh trừu tượng sang tranh phong cảnh. Cô ấy vẽ ao nước bằng màu lam và màu lục, với rừng cây hương bồ phía xa. Cô ấy nói với tôi rằng mình sắp mở triển lãm vào mùa xuân, tại phòng tranh Syracuse. Tôi bảo mình sẽ đến.
Một tuần sau, tôi lái xe lên bãi sỏi nơi từng có toa xe moóc của Luke và ngạc nhiên khi nhìn thấy chiếc Chevrolet màu đen của Frank Moretti.
Ngạc nhiên và không ngạc nhiên.
Tôi đi xuyên qua đám cây cối, trèo lên đồi và thấy Moretti đang ngồi trên một tấm chăn trải ra trên mặt đất. Ông ta mặc bộ vest xám màu với cổ áo sơ mi để mở. Cà vạt cuộn tròn nằm trên bãi cỏ.
- Tôi đang chờ gặp anh, - ông ta nói khi tôi ngồi xuống bên cạnh.
- Thật sao?
- Tôi thích đến đây. Có lẽ vì nơi này rất yên tĩnh. - Ông ta ngừng lời, để chứng minh nó yên tĩnh đến nhường nào. - Nhưng tôi biết thể nào mình cũng gặp được anh.
- Tại sao?
- Bởi vì mọi người thường không biết rút kinh nghiệm. Dù họ có khôn ngoan đến đâu đi chăng nữa. Họ luôn luôn quay trở lại hiện trường gây án.
Moretti dứt một bụi cỏ trên mặt đất cạnh mép chăn. Ông ta giữ cọng cỏ dài nhất, ném đám còn lại đi rồi quấn cọng cỏ kia quanh ngón tay mình.
- Đó lẽ ra là vụ án của tôi, - ông ta nói một cách mệt mỏi. - Khi chúng tôi tìm thấy người vợ với một mũi tên gãy găm vào tim, cảnh sát trưởng đã đề nghị để tôi phụ trách. Nhưng tôi không muốn. Vì vậy, ông ấy đã giao cho O’Keefe. Và khi chúng tôi tìm thấy người chồng, vụ đó cũng được giao cho O’Keefe.
Tôi nhìn ra hàng cây bạch dương phía xa xa. Những chiếc lá bắt đầu đổi màu.
Moretti nói:
- Nhưng tôi đã đi xuống căn phòng đó. Hầu hết tất cả thanh tra trong sở đều đã xuống. Bất cứ kẻ nào giết chết Neil Pruett thì cũng là tay mơ. Chúng đã làm vài điều khá đúng. Không để lại vỏ đạn - rất tốt. Nhưng còn những thứ khác thì lại làm rất tồi! Nếu định giết một người thì cứ giết. Đừng bỏ mặc người ta tới chết.
Ông ta nghịch cọng cỏ, quấn vào rồi lại gỡ ra.
- Giám định pháp y không biết Pruett đã trụ được bao lâu khi ở dưới đó một mình trong bóng tối, - Moretti nói. - Có thể một vài giờ, có lẽ là một ngày. Nhưng trước khi chết, anh ta đã cố để lại một lời nhắn trên sàn. Anh ta đã sử dụng một chiếc chìa khóa. Lại là một hành động gà mờ nữa - để lại chìa khóa. Nhưng anh ta không viết được nhiều lắm, chỉ có một chữ M. O’Keefe nghĩ anh ta cố để lại danh tính kẻ giết mình.
- M có thể là bất cứ thứ gì, - tôi nói. - M có thể là Megan. Có lẽ đó là lời nhắn anh ta để lại cho vợ mình.
- Có lẽ anh ta đã khóc lóc đòi mẹ. Nhưng tôi nghĩ anh sẽ muốn biết một điều: O’Keefe đã để ý tới chữ M đó. Ông ta cũng tò mò về chùm chìa khóa kia. Tôi cũng vậy. Có rất nhiều chìa. Một vài cái - O’Keefe không biết chúng được dùng để mở gì. Nhưng ông ta muốn biết.
Tôi không lo lắng về chùm chìa khóa đó, bởi tôi đã thay khóa căn hộ của Sophie. Nhà Jana nữa.
- Tôi chẳng có gì để nói với ông về chùm chìa khóa đó cả, - tôi nói.
Moretti giơ nhánh cỏ lên để gió cuốn nó đi. Ông ta đeo cà vạt vào cổ.
- Anh có thời giờ đi dạo không? - ông ta hỏi.
Chúng tôi đi tản bộ xuống đồi, Moretti kẹp tấm chăn đã gấp lại dưới cánh tay. Khi chúng tôi ra tới gần ao nước, ông ta nói:
- Vợ Warren Finn đã sinh em bé.
Tôi biết và đã tới thăm. Họ sinh được một bé trai nặng hơn 3 cân. Tôi để ý thấy Warren thường ẵm đứa bé bằng tay phải. Tay trái của anh ta vẫn còn hơi cứng quanh bả vai.
- Tôi đã lái xe tới đó hôm cuối tuần trước nữa, - Moretti nói. - Trông họ có vẻ rất hạnh phúc. Lydia cũng thế. Bà ấy yêu thương thằng bé như cháu trai. Tôi nghĩ điều đó thật tuyệt vời.
Chúng tôi ra tới ao nước và Moretti thận trọng bước qua đám cỏ dại, dẫn tôi tới một bến thuyền mà tôi chưa từng thấy trước đó - lớp gỗ trên bến tàu đã trở nên mục nát và bạc phếch dưới ánh mặt trời. Chúng tôi đi ra gần cuối bến.
- Lydia thắc mắc về Jana, - ông ta nói. - Bà ấy đã hỏi tôi về những vụ án mạng gần đây, rằng liệu tôi có nghĩ chúng có liên quan tới cái chết của Jana không. Tôi đã bảo bà ấy là không, tôi không thấy chúng có liên quan.
Tôi và Warren cũng từng nói với bà ấy như thế khi được hỏi.
- Tôi không thích nói dối bà ấy, - Moretti nói. - Nhưng tôi không muốn bà ấy biết sự thật. Giá như tôi không biết thì tốt. Khi xuống căn phòng đó, tôi đã nhìn thấy lỗ hổng trên bức tường, tấm ván bị thiếu mất. Tôi biết nó có nghĩa là gì. Tôi đã lấy tấm gỗ 2x4 đó làm chứng cứ - cái giá nến từ căn hộ của Jana. O’Keefe chưa kết nối chúng với nhau. Có lẽ là không bao giờ. Ông ta có vẻ rất chậm hiểu. Nhưng vẫn còn những thứ khác có thể khiến nó bị phơi bày.
Chúng tôi nhìn một con cò bay là là phía trên ao nước.
- Tôi đã dành chút thời gian với Lydia, - Moretti nói. - Tôi đã nghe bà ấy kể chuyện. Chuyến đi của Jana đến New York và việc cô ấy đã quay trở về nhà bằng xe buýt vì phải bán xe của bà ngoại.
Ông ta xoa xoa gáy.
- Anh nghĩ chuyện gì đã xảy ra với chiếc ô tô đó?
- Tôi không biết.
- Tôi nghĩ nó đang ở đây, - ông ta nói và đưa mắt nhìn ra mặt nước. - Nó chưa từng xuất hiện ở bất cứ nơi nào khác. Nó hẳn đang nằm đâu đó dưới mặt nước, có lẽ là bên dưới bông hoa súng đằng kia. Nhưng nếu gặp phải một đợt hạn hán và mực nước giảm xuống đủ sâu, ai đó có thể sẽ tìm ra nó. Và tất cả mọi chuyện đều sẽ bị phơi bày. Tôi sẽ không thể giấu giếm Lydia được nữa, - ông ta nói và quay sang đối mặt với tôi. - Vì vậy, liệu tôi có nên nói với bà ấy bây giờ không? Đó là câu hỏi đã luôn quấy rầy tôi. Tôi muốn làm điều đúng đắn.
Ông ta đang tìm kiếm câu trả lời nhưng tôi thì không có. Tuy nhiên, tôi có một thứ khác, một thứ đã hình thành bên trong tôi suốt một thời gian dài: áp lực và nhiệt huyết.
Tôi đã nghĩ tới chuỗi những sự việc bắt đầu bằng một quyết định tồi tệ của Frank Moretti: Nếu Moretti không vu khống Gary Pruett và đẩy anh vào tù, vậy thì Jana sẽ không phải giải cứu anh ta, cô ấy sẽ không bao giờ tới gặp Neil Pruett và sẽ vẫn còn sống.
Tôi nghĩ ước muốn làm điều đúng đắn đã tới với Frank Moretti hơi muộn.
Áp lực đã hình thành. Nó cần phải được giải tỏa.
Tôi nắm một bàn tay lại và đấm vào quai hàm ông ta.

* * *

Đêm có bão, sau khi nhặt tất cả vỏ đạn và di động rơi dưới vũng nước trong chuồng gia súc, tôi ngồi chờ Sophie trong toa xe moóc của Luke Daw. Tới khoảng 4 giờ sáng, cô ấy đến đón và chở tôi về căn hộ của cô ấy, nơi Warren Finn đã được khâu lại vết thương, băng bó và đang dần hồi phục trên ghế sofa.
Sophie kiểm tra tình trạng của anh ta, rồi tôi với cô ấy đi vào phòng ngủ. Chúng tôi nằm cạnh nhau trong bóng tối và cô ấy kể cho tôi nghe chuyện cô ấy thức dậy với Neil Pruett ở trong phòng. Cô ấy hỏi tôi đã làm gì hắn và tôi kể cho cô ấy nghe.
- Là em, em sẽ nạp đạn vào khẩu súng kia, - cô ấy nói.
Đến bình minh, cô ấy ngủ thiếp đi. Tôi ở lại với cô ấy.

* * *

Tôi đã dành rất nhiều thời gian với cô ấy vào mùa hè và mùa thu năm đó. Tôi không chuyển về lại căn hộ - cô ấy cũng không bao giờ đề nghị - nhưng cô ấy luôn gọi điện cho tôi khi cần tôi. Cô ấy luôn cảm thấy bất an khi phải ở một mình vào ban đêm, đặc biệt là những tuần đầu tiên sau cơn bão.
Việc đính hôn của chúng tôi cũng được ngầm hủy bỏ. Những tấm thiệp mời cưới không bao giờ được gửi đi. Chúng tôi đã dự định tổ chức hôn lễ vào một ngày cuối tháng Chín. Hôm đó, Sophie không liên lạc nhưng cô ấy gọi tôi vào hôm sau - cái ngày tôi đấm Frank Moretti.

Đêm hôm ấy, chúng tôi đã cùng nhau xem một bộ phim trên TV, một bộ phim có Meg Ryan hay Tom Hanks đóng hoặc cả hai người họ. Tôi giữ túi nước đá trên bàn tay với các đốt ngón tay đều đã bị xây xát và sưng vù. Cú đấm làm Moretti bất ngờ. Ông ta ngã ra. Nếu bến thuyền hẹp hơn, có lẽ ông ta đã bị rơi xuống nước.
Ông ta ngồi xoa cằm và biểu cảm trên gương mặt ông ta đã cho tôi thấy tất cả mọi thứ: choáng váng, cảm giác bị phản bội và tiếc nuối. Tôi muốn giúp ông ta đứng dậy. Ông ta tự đứng.
- Tôi ước gì mình đã không làm vậy, - tôi nói.
Moretti quay đi và bước ngược trở lại. Tôi nhìn ông ta bước đi. Ông ta lê bước và trông có vẻ mệt mỏi. Lúc nào trông ông ta cũng có vẻ mệt mỏi.
Tôi không bao giờ nói chuyện với ông ta nữa.
Khi Sophie hỏi tôi về bàn tay, tôi đã kể cho cô ấy sự thật. Cô ấy bảo tôi nên chườm đá và bảo nó sẽ ổn. Đó không phải những gì tôi muốn nghe. Tôi muốn cô ấy chọc ghẹo tôi. Tôi muốn quay lại. Tôi muốn cô ấy nói, “Dave, hứa với em rằng anh sẽ thôi đấm cảnh sát”.
Cuối thu, cô ấy bắt đầu hẹn hò ai đó - một thực tập sinh tại bệnh viện.
Không phải Brad Gavin mà là một người khác.

* * *

Vẫn còn một chuyện cuối cùng cần phải kể. Chuyện đó xảy ra vào một chiều Chủ nhật tháng Mười, khi tôi đang dạo bước trên ngọn đồi tại trang trại.
Chỉ một năm nữa thôi, ở đây sẽ mọc um tùm cỏ dại, nhưng ngày hôm đó, tôi vẫn có thể thấy dấu hình chữ nhật dài của chuồng gia súc và mảnh đất hình vuông của ngôi nhà đổ nát. Tôi đi tới đi lui giữa hai nơi ấy, đôi giày lê qua đám cỏ.
Moretti đã đến đây tìm kiếm sự yên tĩnh. Nếu muốn dối gạt bản thân, tôi cũng có thể nói rằng mình hy vọng tìm thấy sự yên tĩnh và một cách để bình tâm. Nhưng điều tôi thực sự mong muốn là tìm kiếm Jana.
Có những đêm, tôi tỉnh giấc trong căn hộ của cô, thắp những ngọn nến trên mặt lò sưởi rồi đi ra ngoài sân và bước lên bãi cỏ. Nếu có trăng, tôi gần như có thể cảm thấy sự hiện diện của Jana.
Tôi cũng có cảm giác như vậy trên con đồi này. Một lần, tôi đứng đó khi hoàng hôn buông xuống và ngắm nhìn những vì tinh tú đầu tiên xuất hiện trên bầu trời. Tôi nhắm mắt lại và Jana đang ở cạnh tôi, thực như một cái chạm lên vai tôi.
Lúc này, tôi đi tới miếng đất hình chữ nhật của chuồng gia súc, xoay người lại và nhìn thấy một con quạ ở rìa mảnh đất nơi đã từng là căn nhà ở phía xa.
Nó ở ngay trên mặt đất, nhưng lại đang bay là là trên cỏ, như thể nó nhẹ bẫng và đầu những cọng cỏ kia có thể giữ được nó. Tôi đi về phía nó. Tôi nghĩ nó sẽ bay đi, nhưng không hề. Khi tới gần hơn, tôi nhận ra nó đang đậu trên một thứ: chiếc bánh xe.
Chiếc bánh xe đã bị bật lên khỏi mặt đất, nhưng không có ai chở nó đi. Nó nằm nghiêng trên bãi cỏ và con quạ đang đậu trên vành.
Tôi dừng lại cách bánh xe một chút vì không muốn làm con chim giật mình.
Nó bay đi.
Nó liệng một vòng tròn trong không khí và hướng thẳng về phía ao. Tôi theo sau nó, chạy bộ xuống con dốc qua thảm lá mùa thu rải rác những sắc đỏ và cam.
Con quạ hạ cánh xuống bến thuyền.
Tôi mất dấu nó cho đến khi bước qua đám cỏ dại lên những tấm ván đã bạc màu vì nắng. Sau đó, tôi lại trông thấy nó: đang giũ đôi cánh đen và nhảy trên những tấm ván ra đến cuối bến thuyền. Nó nhìn xuống mặt nước.
Tôi bước ra nhập hội cùng nó. Bước chân cẩn trọng và chậm rãi. Nó để cho tôi đến gần mình. Tôi quỳ xuống, bò nốt đoạn đường. Tôi nằm sấp xuống và nhìn vào mặt nước.
Tôi nghe tiếng gió khuấy động qua đám cỏ hương bồ ở bờ bên kia. Tôi nhìn thấy bầu trời màu xanh xám bên dưới. Tôi nhìn gương mặt mình trong làn nước và con quạ ngay bên cạnh.
Rồi con quạ lao vút vào không khí.
Tôi nhìn nó bay lướt qua hình ảnh phản chiếu của bầu trời cho đến khi nó khuất dạng.
Tôi chạm ngón tay vào mặt nước. Cảm giác lành lạnh. Những gợn sóng lăn tăn lan rộng ra, xuyên qua hình ảnh phản chiếu gương mặt tôi.
Và đó là khi tôi nhìn thấy cô - Jana. Cô xuất hiện ngay trong làn nước, dù chỉ trong khoảnh khắc. Tôi nhìn thấy đôi mắt màu nâu ấy ngước nhìn mình. Đôi gò má cao và đẹp kỳ lạ. Cô không có vết bầm tím. Khuôn miệng trông như đang hé nở nụ cười.
Trong khoảnh khắc đó, tôi đã vươn tay về phía cô, dù biết mình chẳng bao giờ chạm tới.
Tôi biết.
Nhưng tôi thề rằng Jana cũng đang vươn tay ra đáp lại.

Hết

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét