Thứ Sáu, 14 tháng 8, 2020

Mục Tiêu Cuối Cùng - 25

Mục Tiêu Cuối Cùng
(The Last Dead Girl)

Tác giả: Harry Dolan
Dịch giả: Đỗ Phi
NXB Lao Động - 2018

25

Chiều thứ Hai, tôi lái xe tới đường Humaston và tìm kiếm toa xe moóc đã từng thuộc sở hữu của Wendy và Eli Daw, nhưng chỉ thấy một mảnh đất trống trơn um tùm cỏ cao cùng sỏi đá. Ai đó đã biến nó thành nơi vứt bỏ một chiếc bếp điện cũ, hiện đang nằm nghiêng trên cỏ. Cách đó không xa là một hòm thư gỉ sét với phần cột gỗ chổng ngược lên trời. Bên trên vẫn còn tên. Gần hết: D W.
Cách đó một dặm, tôi tìm thấy toa xe moóc của Luke Daw, nơi hắn đã từng sống cùng Eli và ông ngoại cho đến khi ông ấy qua đời, còn Eli thì chuyển ra ngoài. Cánh cửa mở toang, gắn với cái xe bằng đúng một cái bản lề. Tôi bước lên bậc thềm và khi vào đến bên trong không khí có cảm giác âm ấm và ngột ngạt. Tôi đã cầm theo chiếc đèn pin trong xe tải và soi đèn vào các góc tối tăm. Chỗ này đã bị lục tung, không còn nội thất hay đồ đạc.
Có người đã từng nhóm lửa trong cái bồn rửa bằng thép nằm trên sàn bếp. Có mấy que kem cháy đen trong bồn. Có lẽ là tàn tích từ một trong những mô hình của Luke Daw.
Quần áo vứt vương vãi trên sàn nhà, bát đĩa vỡ tan. Những hộp ngũ cốc, vỏ lon súp trống rỗng. Một lọ thuốc nhựa trống không.
Theo nhãn dán trên lọ thì nó từng được dùng đựng thuốc Ambien*. Đơn thuốc được kê cho Luke.
*[Ambien là thuốc an thần, được sử dụng để điều trị chứng mất ngủ]
Tôi nhét chiếc lọ vào túi quần rồi tiến về phía sau toa xe moóc. Ở đó có một phòng tắm nhỏ hôi thối với thứ gì đó chạy nhốn nháo bên trong. Tôi đóng cửa lại rồi đi tiếp.
Tại một trong hai phòng ngủ, tôi tìm thấy một mô hình khác: bức tường đổ vỡ của đền Parthenon. Sau đó, trong một ngăn tủ, là một khối lập phương rỗng nhỏ làm từ những que kem, không hiểu sao lại còn nguyên.
Phòng ngủ có một cửa sổ nhỏ xíu, kính đã vỡ từ lâu. Tôi nghe thấy tiếng đập cánh rồi một con chim màu đen đến đậu bên khung cửa sổ. Một con quạ. Tôi với nó nhìn nhau chằm chằm một lúc. Tôi bỏ cuộc trước.
Tôi rời khỏi toa xe moóc và mang theo khối gỗ làm kỷ niệm. Tôi đặt nó trong xe tải rồi lội ra khoảnh sân sau um tùm cỏ dại của Luke Daw. Cây bông tai, hoa bướm, cà rốt dại. Một lối mòn chạy qua một rặng cây bạch dương, dẫn tới một đồng cỏ rộng lớn - đồng cỏ của trang trại bò sữa đã bị phá sản mà ông ngoại Daw từng quản lý. Nằm phía bắc con đường mòn là một cái ao rộng như sân bóng bầu dục với tảo xanh đóng trên mặt nước. Xa xa dọc bờ ao là một bụi cỏ hương bồ đang đong đưa theo gió.
Con đường mòn dừng lại ở phía tây ao nước và mặt đất bắt đầu dốc lên cao dẫn tới một chuồng gia súc dài màu đỏ. Các cửa chuồng được đặt ở hai đầu đều đang mở toang, một lối đi rộng rãi chạy ngay chính giữa trung tâm với những ngăn chuồng gia súc dọc hai bên.
Tôi men theo lối đi dưới bầu trời chiều rực sáng, vì hầu hết mái chuồng đều đã không còn. Ngoài khung cột trụ và xà dầm ra thì chẳng còn lại gì. Tôi có thể nhìn thấy những đống đổ nát gồm gỗ, giấy lợp mái và ván ốp lẫn lộn trong vài ngăn chuồng.
Căn nhà trong trang trại trông còn tồi tệ hơn cả chuồng gia súc. Nó đã từng là một căn nhà hình vuông, một tầng có móng bằng đá tảng. Góc đông bắc vẫn còn đứng vững. Nó tạo thành một điểm cao hơn, trong khi phần còn lại của ngôi nhà dốc dần xuống thành một dòng thác ngói và gỗ mục.
Tôi tự hỏi Cathy Pruett đã đến nơi này bao giờ chưa. Tôi nhớ lại điều chồng cô ấy đã nói ở Dannemora - Gary Dean Pruett cho rằng anh em nhà Daw đã sát hại vợ mình. Có lẽ chúng đã mang cô ấy đi đâu đó trước, anh ta nói. Cảnh sát đã phát hiện ra thi thể của cô ấy trên một cánh đồng phía bên kia thị trấn, nhưng họ không bao giờ tìm ra hiện trường cô ấy bị sát hại. Có lẽ nào anh em nhà Daw đã mang cô ấy tới đây?
Tôi đi vòng quanh căn nhà, nhưng không hề nhìn thấy bất cứ bãi đất nào trông giống chỗ giết người. Tôi len qua một đống rác: lon sữa cũ, dây thép gai, xe đạp rỉ sét, chai lọ vỡ, một chiếc xe cút kít và bể bơi cho trẻ con làm bằng chất dẻo đầy tràn nước mưa cùng lá ướt.
Gần góc tây nam của ngôi nhà là một nhà kho để dụng cụ, cửa cài then nhưng không khóa. Tôi mở cửa nhìn vào bên trong. Không có gì ngoài đống đinh và vít dùng cho đồ gỗ nằm rải rác trên mặt sàn.
Tôi vòng lại mặt trước ngôi nhà lần nữa và nhìn thấy một thứ mình đã không để ý trước đó: Một bánh xe bò cũ kĩ bị chôn nửa vời trong đất. Bây giờ, tôi mới để ý đến nó vì có một con quạ đang đậu trên vành bánh xe, giống y như cái con tôi đã trông thấy trong toa xe moóc. Có lẽ vẫn là con chim đó. Nó dang cánh rồi lại gập vào và nhìn tôi chằm chằm khi tôi đi ngang qua.
Tôi lại men theo lối mòn trở về với một cảm giác kỳ lạ rằng con quạ kia vẫn đang dõi theo mình. Tôi nghĩ nếu quay đầu nhìn lại, tôi sẽ có thể trông thấy nó đang theo sau. Tôi kiên định đi tiếp cho đến khi ra tới hồ rồi quay lại nhìn. Con quạ không đi theo tôi, nhưng vành bánh xe bò giờ đây đã trống trơn.
Rùng rợn thật.
Tôi tiếp tục bước đi và đó là khi tôi nghe thấy tiếng động cơ của một chiếc xe hơi cùng một âm thanh khác nữa, có lẽ là tiếng lốp xe lăn bánh trên mặt đường trải sỏi, vọng đến từ hướng toa xe moóc. Tôi vội rảo bước theo lối mòn, cái ao nằm bên trái. Những cây bạch dương đã chắn mất tầm nhìn của tôi tới chỗ toa xe moóc. Khi cuối cùng tôi cũng sang tới bên kia rặng cây, không có chiếc xe nào, ngoài xe tải của mình và toa xe moóc kia. Tôi tiến lại gần xe tải, nghĩ sẽ có hư hại gì đó - cửa sổ vỡ hoặc lốp xe thủng. Một lời cảnh báo. Nhưng mọi thứ đều trông rất ổn. Tôi kiểm tra buồng lái và nghĩ rằng khối gỗ của Luke Daw sẽ biến mất. Nhưng nó vẫn còn đó, trên chỗ ghế ngồi tôi đã bỏ nó lại.
Những con quạ và những vị khách bí ẩn, tôi nghĩ. Mày đang khiến chính bản thân mình bị mất tự chủ đó.
Có lẽ ai đó đã tấp vào đây để quay đầu xe. Không còn gì khác cả.

* * *

Thật khinh suất.
K đặt chân lên bàn đạp ga, cảm thấy chiếc xe đi chậm lại và quan sát kim đồng hồ hạ dần xuống con số 45. Không nên để bị phạt. Hắn kiểm tra kính chiếu hậu tìm kiếm chiếc xe tải của David Malone. Chẳng thấy gì ngoài con đường vắng tanh.
Đúng là một hành động ngu xuẩn khi chạy xe ngang qua toa xe moóc. Không có lý do gì để làm như thế cả. Tại sao hắn làm vậy? Để được trải nghiệm cảm giác mạnh? Hay vì cái cảm giác thoải mái nó mang lại cho mình? Hắn không biết.
Và tại sao hắn dừng lại? Đáng lẽ hắn nên phóng thật nhanh ngay khi nhìn thấy chiếc xe tải. Nhưng hắn lại tấp vào lề đường và thậm chí còn vào trong toa xe moóc.
Thật khinh suất.
K lái xe tiến vào Rome với tốc độ cho phép và lạc vào dòng xe cộ. Hắn không thích nghĩ tới chuyện Malone mò mẫm xung quanh cái xe moóc hay trang trại. Nó làm hắn thấy lo lắng. Nhưng còn một chuyện khác khiến hắn lo lắng hơn thế. Hắn đã vào toa xe moóc mà không biết mình có chạm mặt Malone hay không. Chẳng có kế hoạch gì cả. Hắn sẽ làm gì nếu Malone ở trong đó? Hắn sẽ cố giết Malone bằng tay không hay sao?
Ý tưởng đó hấp dẫn hắn và đó là một phần của vấn đề. K lo sợ mình đang bắt đầu mất kiểm soát.
Hắn rẽ vào một con phố nhỏ rồi đỗ xe. Hắn cần suy nghĩ. Jana Fletcher đã chết - đó coi như là một thắng lợi. Có vẻ gã cháu trai của bà chủ nhà của cô ta, Simon Lanik, đã trở thành nghi phạm chính. Chuyện đó không nằm trong kế hoạch của K, nhưng hắn thích cái cách nó diễn ra trót lọt đến như vậy. Thêm một thắng lợi nữa.
Vụ cháy tại nhà Napoleon Washburn lại là một sự thất vọng. Washburn đã sống sót. Tuy nhiên, có vẻ lão ta đã trốn khỏi thị trấn. Coi như đó là một trận hòa.
Giờ chỉ còn lại Jolene. Thi thể của cô ta đã bị phát hiện và đó là một thất bại. Không có cách gọi nào khác cả. K biết mình đáng lẽ nên giấu xác cô ta kỹ hơn, buộc xích hoặc đá vào người cô ta. Như thế, cô ta sẽ chìm xuống tận đáy kênh và ở yên dưới đó.
Nhưng giờ hắn chẳng thể làm gì cả. Hắn cần phải gạt cô ta ra khỏi tâm trí. Nhưng đó cũng là một phần của vấn đề. Hắn cứ liên tục nghĩ tới cô ta trong những lúc rảnh rỗi. Hắn đã giết chết 4 người phụ nữ trong cả cuộc đời mình, nhưng Jolene là người duy nhất khiến hắn cảm thấy hối tiếc. Một phần trong hắn ước gì cô ta vẫn còn sống, bởi cô ta vô tội, người đã phải chết vì xuất hiện không đúng lúc đúng chỗ. Và một phần khác lại ước gì cô ta vẫn còn sống để hắn có thể giết cô ta thêm lần nữa.
K thật đa cảm.
Hắn mỉm cười với chính mình và lắc đầu. Giờ không phải lúc để nghĩ về Jolene. Hắn cần phải tập trung vào David Malone. Hắn sẽ từ từ và cân nhắc thật kỹ lưỡng. Không khinh suất nữa.

* * *

Đêm đó, tôi có một vị khách.
Tôi đang ăn bữa tối muộn tại bàn làm việc trong căn hộ của Jana: món mì xào tôm Trung Quốc. Trên mặt lò, tôi thắp nến, 4 cây nến trà trên một thanh gỗ 2x4. Đó chỉ là món hàng nhái kém cỏi tôi mô phỏng cái giá nến của Jana - thứ tôi đã làm trong mấy ngày cuối tuần. Tôi mua miếng gỗ từ một cửa hàng sửa sang nhà cửa và một người đàn ông trung tuổi đeo tạp dề màu xanh ở đó đã cắt nó theo đúng độ dài mà tôi muốn. Tôi đã đục những lỗ đựng nến bằng máy khoan điện cùng một mũi khoan đường kính khoảng 4 phân trong khi đứng lên miếng gỗ để cố định nó. Nó sẽ tinh xảo hơn nếu dùng máy khoan đứng nhưng tôi không có cái nào.
Nến đáng ra phải có mùi vani. Nhưng bây giờ thì rất khó phân biệt. Cả căn hộ đầy mùi bắp cải luộc. Agnes Lanik đang nấu ăn ở căn hộ kế bên - tôi cho rằng đó là một món bắt nguồn từ quê hương bà ấy.
Đến khoảng 10 rưỡi thì có tiếng gõ cửa. Là Sophie.
Cô ấy trông thật mệt mỏi nhưng vẫn hoàn toàn tỉnh táo và tôi nghĩ chắc chắn cô ấy vừa mới kết thúc một ca trực dài tại bệnh viện. Hẳn Sophie đã tạt qua nhà bởi vì bộ quần áo trông không giống thứ cô ấy sẽ mặc khi đi làm: áo cánh cổ trễ và váy dài trên đầu gối.
- Có phải em tới không đúng lúc không? - cô ấy nói.
- Không đâu. Em vào đi.
- Em không muốn làm phiền.
- Không đâu.
Cô ấy bước vào và thả túi xách lên bàn bếp. Sau đó, cô ấy bước ra phòng khách ngập tràn ánh nến, nhìn quanh và tiếp nhận mọi thứ.
- Em thật sự không tin được, - cô ấy nói.
- Tin gì cơ?
- Khi anh chuyển ra ngoài và bảo với em rằng anh sẽ đến sống trong ngôi nhà của cô gái đã mất đó. Em đã nghĩ anh chỉ đang tỏ ra độc ác.
- Sophie...
Cô ấy phất tay:
- Xin lỗi. Em không nên nói thế.
Cô ấy đứng nhìn bức tường kế bên lò sưởi, nơi tôi đã gắn lên một tấm bản đồ thành phố và đánh dấu X ngay tại vị trí thi thể của Cathy Pruett được tìm thấy, cùng một dấu X khác cho toa xe moóc của Luke Daw và trang trại bị bỏ hoang. Tôi còn gắn cả những thứ khác lên tường: những bài báo tôi đã in ra ở thư viện và dưới phòng vi phim. Những bài báo về cái chết của Cathy Pruett cũng như vụ xét xử của chồng cô ấy. Và cả vụ Eli Daw bị bắn nữa.
- Tất cả những thứ này là gì vậy? - Sophie hỏi.
- Em có thực sự muốn biết không?
- Có.
Tôi kể đôi chút về những gì mình đang làm, những người tôi đã nói chuyện cho cô ấy. Thật khó để biết cô ấy có đang lắng nghe không vì mắt cô ấy vẫn đang dán chặt lên những tờ giấy trên tường, nhưng khi tôi nói xong, cô ấy đã hiểu được cốt lõi của câu chuyện.
- Vậy anh nghĩ nếu khám phá ra chuyện gì đã xảy ra với Cathy Pruett, nó sẽ cho anh biết ai là kẻ đã sát hại Jana.
Nghe cô ấy nhắc tên Jana có cảm giác không thực.
- Đúng vậy, - tôi nói.
Sophie chuyển sự chú ý sang cái kệ phía trên lò sưởi. Khối gỗ tôi lấy trong cái xe moóc đang nằm trên đó.
- Cái gì đây? - cô ấy hỏi.
- Một manh mối.
- Manh mối cho cái gì?
- Anh không biết. Anh nghĩ Luke Daw đã làm ra nó.
Cô ấy đặt lại nó lên kệ rồi cầm lọ thuốc trống rỗng.
- Ambien, - cô ấy nói. - Một manh mối khác sao?
- Có lẽ thế. Đó là một loại thuốc ngủ, phải không?
Cô ấy gật đầu.
- Loại mạnh đấy. Nó có thể gây ra chứng mộng du. Mất nhận thức tạm thời. Mất trí nhớ. Anh không muốn làm liều với nó đâu.
Cô ấy đặt lại lọ thuốc lên kệ. Nhưng vẫn còn một thứ khác trên đó: một bức tranh sơn dầu đặt dựa vào tường. Một trong những bức vẽ của Angela Reese. Cô gái đã tặng nó cho tôi hôm thứ Bảy, sau khi chúng tôi nói chuyện về Gary Pruett và anh em nhà Daw.
Nó giống như tất cả những bức tranh khác của cô nàng với kích thước 11 x 14, cùng một đường màu đen chạy dọc xuống chính giữa. Phía bên trái đường đó được sơn một màu lam sống động, bên phải là màu tím, gần giống màu đen. Angela đã lấy nó từ trên tường xuống khi tôi định rời đi. “Anh nên giữ nó”, cô ấy nói. “Tôi đã vẽ nó hôm biết tin Jana Fletcher qua đời”.
- Ai đã vẽ bức tranh đó? - Sophie hỏi tôi.
- Một người phụ nữ anh đã từng nói chuyện.
- Nó không mang ý nghĩa gì cả, - tôi nói. - Chỉ là nghệ thuật trừu tượng thôi.
- Em nghĩ rằng nó thật phiền muộn.
- Anh nghĩ chắc mục đích là thế.
- Anh có thích cô ta không?
- Ai cơ?
- Cô nàng họa sĩ ấy. Người phụ nữ đã vẽ bức tranh mà anh mua.
- Cô ấy đã tặng nó cho anh.
- Còn thế nữa. Cô ấy có đẹp không?
Cô ấy quay lại nhìn tôi vẻ chờ đợi, Sophie trong cặp kính mắt mèo và mái tóc được kẹp lên.
- Anh không biết phải trả lời câu hỏi đó thế nào, - tôi nói.
- Cô ấy một là xinh, hai là không.
- Cô ấy xinh đẹp.
- Thấy chưa? Có khó gì chứ? - Sophie chạm lòng bàn tay lên má tôi và hơi quay đầu tôi một chút. Mùi thức ăn của Agnes Lanik phảng phất trong căn hộ, nhưng tôi vẫn có thể nhận ra được hương dâu từ dầu gội của Sophie.
- Anh chưa hỏi tại sao em tới đây, - cô ấy nói.
Tôi cảm nhận hơi ấm từ bàn tay cô ấy. Tôi nhìn thấy ánh nến, những cái bóng và chiếc áo trễ cổ của cô ấy.
- Anh có cảm giác em đến để tra tấn anh, - tôi nói.
Cô ấy bật cười.
- Gần đúng rồi. - Cô ấy đưa tay chạm vào thái dương tôi. - Em đến cắt chỉ khâu cho anh.

* * *

- Đáng lẽ nên cắt chỉ từ nhiều ngày trước, - Sophie nói.
Tôi đang ngồi tại bàn bếp trong khi Sophie làm công tác chuẩn bị: lấy kẹp và kéo từ trong túi xách ra, rồi rửa tay và dùng cồn khử trùng dụng cụ.
Cô ấy đứng bên cạnh tôi và rửa vết cắt bằng dung dịch Betadine.
- Chắc sẽ không đau đâu, - cô ấy nói.
- Chắc ư?
- Biết đâu được đấy.
Cô ấy dùng kẹp nhấc đầu nút thắt lên và lấy kéo cắt trước khi kéo sợi chỉ ra khỏi da thịt tôi, từng chút từng chút một. Không đau tẹo nào.
Cô ấy rửa vết thương lần nữa và lau khô nó.
- Anh phải nhớ, - cô ấy nói, - da anh vẫn đang lành. Sẽ phải mất vài tuần để khỏi hoàn toàn và anh cần cẩn thận để không làm rách nó lần nữa.
Cô ấy đã để sẵn ba miếng băng cá nhân nho nhỏ trên mặt bàn. Cô ấy bóc một cái và dán nó lên giữa vết cắt.
- Anh vẫn cần giữ nó sạch sẽ và khô ráo, - cô ấy nói. - Anh không muốn nó bị nhiễm trùng đâu.
Cô ấy bóc một miếng băng khác rồi dán nó vào đúng vị trí.
- Mọi người thường không mấy lo lắng đến việc bị nhiễm trùng nhiều như đáng ra phải thế. Em nhớ có một lần, một đứa trẻ 8 tuổi đã được đưa vào phòng cấp cứu. Nó bị ngã khi trèo cây và bị một vết thương hở ngay ở chỗ xương chày - đó là xương ống quyển của anh. “Hở” có nghĩa là xương lộ khỏi da. Cách đây 100 năm, người ta thường chết vì những vết thương hở bởi vì chúng rất dễ bị nhiễm trùng. Nhưng giờ chúng ta đã có thuốc kháng sinh. Những loại kháng sinh mạnh như cephalexin, loại thuốc chúng em dùng cho cậu bé 8 tuổi kia. Sau đó, chúng em đưa nó vào phòng mổ, cắt bỏ mô hoại tử ở vết thương sau đó làm sạch nó. Chúng em đã bó đoạn xương gãy và cố định bằng chốt thép. Rồi chúng em đóng vết thương lại và chuyển thằng bé sang phòng hồi sức. Vài ngày sau, thằng bé xuất viện.
Miếng băng thứ ba đã vào chỗ và Sophie đang đứng đằng sau, tay đặt lên vai tôi.
- Chưa đầy một tuần sau, cha mẹ thằng bé đã đưa nó quay trở lại bệnh viện, - cô ấy nói. - Nó đang bị hôn mê và đầu óc mơ hồ. Nó còn bị sốt và phát ban nữa. Triệu chứng điển hình của nhiễm trùng máu. Nhiễm trùng máu đôi khi xảy ra khi cơ thể anh chống lại viêm nhiễm. Các hóa chất trong máu anh, mà có nhiệm vu chống lại nhiễm trùng, lại gây ra viêm nhiễm. Viêm nhiễm sẽ làm giảm lượng máu đưa tới cơ bắp và nội tạng. Đó là những gì đã xảy ra với cậu bé kia.
Cô ấy ngừng lời và trong cái tĩnh lặng ấy, tôi nghe thấy tiếng đồng hồ tích tắc trên tường nhà bếp.
- Thằng bé không còn là một bệnh nhân cần phẫu thuật nữa, - cô ấy nói, - nhưng em vẫn theo dõi trường hợp của nó. Brad Gavin cũng vậy. Bởi vì cả hai chúng em đều đã có mặt ở đó khi thằng bé nhập viện lần đầu tiên với cái chân bị gãy. Lần này, họ đã phải đưa thằng bé vào phòng chăm sóc đặc biệt và truyền nước cho nó. Thuốc cephalexin đã không có hiệu quả, vì vậy, họ phải thử những loại kháng sinh khác để loại bỏ nhiễm trùng. Mỗi ngày, em và Brad đều đến kiểm tra xem thằng bé có ổn không.
Cô ấy ngừng lời một lần nữa. Có lẽ cô ấy mong đợi tôi sẽ nổi giận khi nghe nhắc đến Brad Gavin. Nhưng tôi không giận. Một lúc sau, cô ấy tiếp tục.
- Nhiễm trùng máu không phải lúc nào cũng chết người, nhưng khi chuyện đó xảy ra, nó sẽ giết anh bằng cách làm các cơ quan ngừng hoạt động. Đôi khi phải mất đến vài tuần. Với đứa trẻ đó, thời gian chỉ tính bằng ngày. Khi phổi nó bắt đầu yếu đi, họ cho thở oxy. Khi nó suy thận, họ cho lọc máu. Cha mẹ thằng bé đã hy vọng tới tận giây phút cuối cùng. Mẹ nó lúc nào cũng ở bên, chỉ trừ thỉnh thoảng tranh thủ ngủ 1, 2 tiếng trong phòng đợi dưới sảnh. Và cô ấy đang ở dưới đó khi thằng bé qua đời. Huyết áp của nó bị tụt xuống đột ngột và rồi tim ngừng đập, họ không thể làm nó tỉnh lại được. Em đã chứng kiến. Em đi tìm mẹ thằng bé và đưa cô ấy trở lại phòng, nhưng mọi chuyện đã quá muộn.
Giọng nói của Sophie nghe có vẻ bình tĩnh, nhưng tôi nghĩ cô ấy đang khóc. Nếu quay đầu lại, tôi có thể thấy. Nhưng tôi không làm vậy. Tôi không nghĩ cô ấy muốn thế.
Tay phải của cô ấy rời khỏi vai tôi, có lẽ là để lau nước mắt.
Tôi nắm lấy tay kia của cô ấy:
- Em chưa từng kể cho anh nghe chuyện đó, - tôi nói.
- Đáng lẽ em nên kể, - cô ấy nói. - Em tự hỏi liệu điều đó có thay đổi được gì không.
- Ý em là sao?
- Liệu anh có rời xa em không. Ngày đứa trẻ đó mất chính là ngày em đã ngủ với Brad Gavin.
Cô ấy đi vòng từ phía sau lưng tôi để dọn kẹp và kéo rồi bỏ chúng vào túi xách.
- Đó không phải là cái cớ tốt nhất cho việc không chung thủy, - cô ấy nói, - nhưng có lẽ cũng không phải tệ nhất - thương xót cho một đứa trẻ mà sai lầm duy nhất của nó là trèo cây.
Chỉ là chuyện công. Cô ấy cầm túi xách rồi đi ra cửa. Tôi đứng lên đi theo.
- Sophie, anh xin lỗi. Giá như em đã kể cho anh chuyện đó.
Cô ấy quay lại nhìn tôi, đôi mắt đã khô.
- Dave, - cô ấy nói. - Anh chưa từng hỏi em.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét