Chủ Nhật, 8 tháng 3, 2020

Phố Academy - Chương 10

Phố Academy

Tác giả: Mary Costello
Người dịch: Hà Nguyễn
Nhà XB Phụ Nữ 11-2017

10

Cơn đau thình lình ập đến lúc rạng đông. Willa tới. Ở tiền sảnh bệnh viện Tess vỡ ối. Nàng cúi nhìn đôi giày ướt sũng và bật khóc.
Tối ấy, khi xong xuôi, nàng tưởng như mình vừa leo lên đứng trên đỉnh ngọn Everest, lòng mừng vui khôn tả. Sáng hôm sau, nàng chợt nhận ra tất cả khía cạnh vĩ đại của sự việc. Tess đã sản sinh cuộc sống, trao nhân tính cho một thực thể khởi nguồn gần như từ con số không, và thứ quyền lực ấy, năng lực tạo dựng ấy, khiến nàng nghẹn ngào.
Tess không hề thấy yêu thích đứa nhỏ. Lông tơ sáng màu trên da thằng bé giống lông thú. Nàng chẳng dám mó vào đầu nó, chỗ xương thóp chưa liền hẳn. Nàng nghĩ đứa trẻ như quả trứng vỏ còn chưa liền lạc, chưa đủ tuổi. Tess không ở trạng thái minh mẫn. Cơ thể nàng vừa bị xé mở, đau như dần, gan ruột lộn phèo. Lòng nàng trào lên cảm giác gớm ghiếc cơ thể này, bộ ngực căng mọng cùng tình trạng máu me ri rỉ này. Mình là một ả bò, Tess tự nhủ. Thế nhưng lũ bò cái giỏi chăm con. Các ông bố cầm hoa vào khoa sơ sinh thăm trẻ, bế ẵm chúng. Tess khép chặt tấm rèm che. Người ta bế đứa bé tới cho nàng. Ở một mình với thằng nhỏ khiến nàng sợ hãi, và Tess nhấn chuông để họ mang nó đi.
Tới ngày thứ ba nàng rời giường đứng dậy, đi tắm gội. Vào giờ cho trẻ ăn, Tess tần ngần đứng ngoài phòng chăm sóc trẻ sơ sinh nhìn vào. Thằng bé là đứa duy nhất còn nằm lại đó. Tess cảm nhận cái côi cút đến tột cùng ở nó. Ra đời chưa bao lâu, nó có thể sẽ lại trôi dạt vào khoảng không lạnh lẽo giữa các vì sao. Tess bước vào phòng trực y tá, tim đập thình thịch. Nàng đặt bình sữa xuống, nhìn chằm chằm khuôn mặt sau bàn.
- Tôi muốn cho người ta nhận thằng nhỏ làm con nuôi, - nàng nói.
Suốt ngày nàng nằm nghĩ ngợi, ngủ mê mệt rồi khóc lóc. Tess tưởng tượng hình ảnh con mình trong vòng tay những kẻ khác, các giọng nói và mùi hương mới vây bọc, đối đầu nhau bên trong nó. Nàng hình dung nỗi bối rối, cái gắng gỏi của thằng bé nhằm phân định từng chất giọng, hòng tìm thấy tiếng nàng trong cả mớ hỗn độn, rối cuối cùng dồn nén đủ nức nở nghẹn ngào, nó im tiếng và bỏ cuộc.
Tess cố thiếp đi. Nàng mơ trở về Easterfield, thơ thẩn trong những căn phòng tối tăm tầng trên. Cuối hàng lang, nàng bắt gặp một đứa bé ngồi bó gối trong góc. Nó đã ở đó từ rất lâu, sống sót ở nơi chẳng có gì. Đứa trẻ cầm thứ gì đó đưa lên miệng nhai. Tess định thần nhìn kỹ và thấy một ngón tay người - ngón tay nàng, ngón trỏ của nàng.
Khi Tess tỉnh dậy đêm đã buông, khoa sản chìm trong màn tối nhờ nhờ, các bà mẹ khác đều đang ngon giấc. Nàng rời khỏi giường, tới khoa chăm sóc trẻ. Nàng sợ lúc này đã quá trễ, giống một chú cừu bị tách khỏi mẹ quá lâu sẽ không nhận lại mẹ nữa. Lúc nom thấy bóng con sau lớp kính, cánh tay tự nhiên cong cong trong động tác bế trẻ, nàng bước vội tới. Tess run rẩy bọc con trong tấm chăn, đi như chạy dọc hành lang rồi tụt xuống hai chặng cầu thang trên cặp chân yếu ớt. Ở cổng chính, người gác đêm bước ra chặn lối nàng, miệng cười mỉm, đặt nhẹ một tay lên bọc chăn.
- Quả là một buổi tối đẹp trời ngoài phố quý bà ạ. Song hẳn bà vẫn muốn mặc thêm tấm áo ấm chứ?
Tess nhìn ra phố. Nàng nhìn vào đôi mắt người gác cổng, nhìn xuống đứa bé đang thiêm thiếp, rồi lại ngước lên gương mặt người gác. Bối rối và ngượng ngập, Tess để ông nắm khuỷu tay đưa tới thang máy trở lại khoa.
Sáng hôm sau, lúc đứa trẻ đang thiêm thiếp bên cạnh, Tess nhặt cây bút lên rồi viết: Anh có một đứa con trai. Nó tên Theo.
* * *
Vĩnh viễn chẳng gì đủ đầy, đẹp đẽ hơn những đêm ngày của mùa hè đầu bên đứa nhỏ. Cặp mắt nàng luôn dõi về con còn mắt bé thì khóa chặt dáng hình mẹ, một dòng suối tình yêu diệu kì nối liền hai người. Da thịt này sinh bởi da thịt ta, máu mủ này sinh bởi máu mủ ta*.

*[Sáng thế ký có ghi: Xương cốt này sinh bởi xương cốt ta, da thịt này sinh bởi da thịt ta]

Tối ngủ Tess bế con vào giường mình, muốn được đưa con vào lại trong cơ thể mình. Sáng ra nàng che con cho khỏi chói ánh mặt trời chiếu xéo qua lớp rèm. Tess mặc cho con những bộ quần áo không có đường may, để chẳng thứ xù xì nào cọ vào da bé. Nàng thậm chí không muốn rời căn hộ hay phá vỡ phép màu. Nàng chẳng muốn có gì phá ngang, chẳng muốn hình ảnh, âm thanh hay bất cứ thứ gì lạc điệu của thế giới xung quanh làm mờ đi vầng hào quang của con hoặc gây tổn thương bé.
Từng chút từng chút một, ý thức về mối họa treo lơ lửng từng dai dẳng đeo bám nàng đã bắt đầu lùi xa. Tess viết thư gửi chị Claire, kể hết ngọn ngành. Willa ngày nào cũng ghé thăm, vài lần cùng một hay hai đứa trẻ dắt díu nhau, có bận lôi cả anh chồng Darius tới để đóng cái giá treo nôi. Chị đón thằng bé từ tay Tess và, với vẻ ung dung đáng ngạc nhiên, vừa ẵm nó trong vòng tay vừa nấu nướng, thu vén, chuyện trò. Willa giới thiệu nàng với các bà mẹ khác trong tòa nhà. Một hôm chị mang xe nôi của mình ra hành lang và hai người phụ nữ hợp sức chuyển nó xuống đất rồi sóng bước đẩy xe đi dưới ánh dương. Nơi băng ghế công viên, dưới tán cây, Willa thuật lại đời mình cho Tess. Sinh ra ở Mississippi, chị chẳng hề biết bố là ai. Mẹ chuyển nhà lên miền bắc tới Detroit lúc Willa và em gái còn nhỏ. Mười bảy tuổi chị gặp anh Darius và lập tức biết đây là người đàn ông tốt. Họ kết hôn, chuyển tới New York sống rồi ở đây Darius tìm được chân lái tàu điện ngầm trên tuyến đường A. Để kiếm thêm, chị nhận trông trẻ - cho nhà Gallagher ở tầng hai, nhà O’Dowd trên tầng bốn - khi mẹ chúng đi làm.
Từ tháng Mười, Willa trông Theo cho nàng quay lại bệnh viện làm. Tối nào nàng cũng tất tả trở về, kiệt sức, thiếu ngủ, lao vào bế xốc lấy con trai, giống một người đàn bà đang yêu. Tối nọ, khi vào đến căn hộ của mình, Tess thấy một bức điện tín nằm trên sàn. Tối qua, cha đã thanh thản ra đi. Báo Oliver. Denis. Rụng rời, nàng đặt Theo vào chiếc nôi xách trẻ sơ sinh rồi bắt chuyến tàu điện ngầm đi xuống phố 181, và lúc đoàn tàu đang lao nhanh qua đường hầm, Tess tưởng như nghe thấy tiếng than khóc của lũ cừu mới cai sữa phía sau mấy bờ tường. Nàng rung chuông cửa nhà dì Molly rồi đứng chờ, sợ sệt, ương bướng nhưng không thấy hổ thẹn nữa. Hai người đàn bà ôm lấy nhau còn ông Fritz bế đứa trẻ khỏi nôi. Họ gọi điện cho Claire. Nàng chỉ nghe được lõm bõm điều chị mình nói. Claire bị bệnh thoái hóa thần kinh vận động một bên*. Tess òa khóc trong điện thoại và cùng nhau, họ xót xa cha.

*[Nguyên văn: Lou Gehrig’s disease (Viết tắt là ALS). Lou Gehrig là tên cầu thủ bóng chày Mỹ mắc chứng bệnh này. Một bệnh nhân ALS nổi tiếng khác chính là nhà bác học Stephen Hawking]
* * *
Tóc thằng bé dần sáng ra, mắt màu xanh. Một sớm mùa xuân sau ca trực đêm, Tess đón Theo từ nhà chị Willa rồi đẩy cậu, khi ấy còn đang ngủ, ra công viên và ngồi xuống một băng ghế. Nàng thích thời điểm này, khi quanh đây gần như không người qua lại, và dư âm đêm thanh vắng cùng các bệnh nhân đang ngon giấc vẫn còn vấn vương nơi tâm trí. Dần dà lòng Tess mở ra, thính nhạy trước cái mới mẻ buổi sớm cùng các cơ hội, tiềm năng ngày mới. Nhìn vào những lá xanh mới mọc - đâu đâu cũng một màu xanh ngăn ngắt - nàng gần như phải che mắt trước ánh bừng bừng, cái đẹp tinh khôi của chúng. Cái đẹp đầy rẫy, nàng nhủ thầm. Cả hạnh phúc cũng tràn trề, những ngày này. Hạnh phúc quá khiến nàng phấp phỏng. Tess rút lui khỏi những suy nghĩ ấy, đưa mắt ngó quanh. Trên lối đi có một ông già đang tiến lại gần. Tess bắt đầu thu vén vật dụng nhưng ông lão đã tới nơi, đứng ngay trước mặt nàng, hỏi tên đứa nhỏ. Nó tên Theo, Tess thận trọng đáp.
- Theodore, - ông rỉ rả kể. - Lão từng có một thằng con tên như thế. Bọn ta mất nó do bệnh viêm tuyến bạch cầu. Ấy là thời kỳ đại suy thoái. Gia đình lão lúc đó phải tá túc trong khu lều trại.
Ông già ngồi xuống bên cạnh, kể cho nàng toàn bộ câu chuyện. Trong xe nôi, Theo ngồi dậy, mắt chẳng rời ông lão, và lần đầu nàng thấy được dáng dấp con lúc trưởng thành - cốt cách cậu thiếu niên hiện ra từ hình hài em bé - cùng phong thái những năm sau này. Tess chợt có một nỗi thôi thúc được tỏ bày với người lạ mặt này, kết bạn với ông, để ông trở thành người ông thế chỗ. Đó cũng là món quà với cả ông nữa.
Ông lão nhìn Tess bằng cặp mắt ướt nhoèn.
- Nó là đứa con độc nhất của vợ chồng lão. Bà ấy mất từ hai mươi ba năm trước.
Nàng nhìn khuôn mặt ông lão cạo nhẵn nhụi, bộ quần áo chỉnh tề. Nàng loáng thoáng thấy được cuộc sống ông cụ, lề lối sinh hoạt hằng ngày, tuần tự và có kỷ luật, dậy, nấu ăn, đi bộ. Ông quay qua nhìn Theo nhưng nàng cảm thấy ý nghĩ ông để tận đẩu đâu. Tess muốn nói điều gì kéo ông lão khỏi nỗi buồn.
- Đây là con hoang của cháu, -nàng lí nhí.
Ông gật gù vẻ lơ đễnh, ánh mắt trôi dọc lối đi giờ đang bừng tỉnh bởi khách bộ hành. Đoạn ông đứng lên, bước tới dãy bàn đá nơi các ông già thường ngồi chơi cờ vào những chiều hè. Tess thấy ông ngồi xuống, lẻ loi, nhìn đăm đắm mặt bàn kẻ những ô cờ.
Tối hôm ấy, trong bếp, Tess lặp lại từ con hoang. Sinh ra bất chấp nghịch cảnh, gian nan hơn mới có được và cũng quý giá hơn mọi trường hợp khác. Nàng đâu có chọn con đường làm mẹ. Phòng bên, thằng bé o oe. Tess lắng tai nghe, đợi nó quay về với giấc ngủ. Nàng muốn có bố thằng bé bên cạnh, để cùng được nghe tiếng khóc này. Gương mặt anh hiện về. Hồi ức về vẻ đẹp anh khiến nàng đau đớn. Trên đài, Billie Holiday* cất tiếng hát. Yêu anh nhiều hơn anh tưởng. Nàng nghĩ về thành phố ở bên ngoài căn hộ, những ngọn đèn nhấp nháy trong các cao ốc tứ phía quanh đây. Trong đó là các tổ ấm gia đình. Anh ấy không thể trao ra thứ anh không có. Nàng bắt đầu sụt sịt. Tess biết một phần rất lớn trong tình yêu là sự khoan dung. Vì vậy điều nàng ước ao, điều nàng mong mỏi hơn mọi thứ khác, là tất cả những gì tốt đẹp nhất sẽ đến với anh.

*[Nghệ danh của Eleanora Fagan (1915-1959), nữ ca sĩ kiêm nhạc sĩ nhạc Jazz người Mỹ. “Yêu anh nhiều hơn anh tưởng” là một sáng tác của bà]

Vào Thứ Sáu Tuần Thánh, khi đang làm việc tại khoa, Tess nhận được điện thoại lễ tân báo có khách chờ ở tầng dưới. Dì Molly và ông Fritz đang ngồi trên ghế và khi thấy họ, trống ngực đánh thình thịch. Dì Molly đứng dậy, bước tới, mặt thất thần.
- Nó mất rồi, Tess ạ. Claire đã ra đi rồi.
Buổi chiều, nàng cùng hai bệnh nhân có tuổi đi xuống nhà nguyện bệnh viện để đọc kinh Phúc Âm, đoạn về khổ hình của Chúa. Một dàn hợp ca cùng vài nhạc công đang biểu diễn tác phẩm của Bach. Có bận, hồi bé, Tess từng bị ngất xỉu giữa nhà thờ đông nghịt người ở một buổi tụng lê thê kinh Phúc Âm trong lễ Thứ Sáu Tuần Thánh. Chị Claire, hoặc có thể Evelyn, đã đưa nàng ra ngoài, với môi dưới chảy máu vì vập ngã, rồi đặt nằm trên bãi cỏ. Tess vẫn nhớ rõ khoảnh khắc nàng tỉnh lại, vầng mặt trời, ánh sáng. Khi ấy nàng cảm thấy mình vừa phục sinh. Giờ đây nàng lại đứng tụng một đoạn kinh dài. Thánh Peter chối bỏ Chúa ba lần, gà gáy sáng*. Các nhạc công chơi điệp khúc mở đầu, nó chế ngự và hạ gục nàng bởi nỗi kinh hãi, cảm giác giày vò, day dứt. Nỗi thống khổ giằng xé tâm can thánh Peter. Herr, Herr, Herr. Tess ngồi lặng. Vị linh mục bắt đầu đọc tiếp, và nàng có mặt ở đó, sát bên cây thánh giá cùng cánh đàn ông, cạnh đám đàn bà đang nức nở. Tess cảm nhận vòng gai nhói trên đầu cùng mũi gươm nhọn hoắt thọc sâu vào mạng sườn Chúa. Nàng nhắm mắt theo tiếng nhạc êm ái, nỗi buồn thương trong giọng đơn ca, nốt lặng ở cuối bài. Tess đau đớn trước nỗi mất mát. Nàng đã ở cùng Chúa tại Calvary, cùng Claire trong khu vườn Gethsemane. “Mọi sự đã hoàn tất”, Người nói rồi gục đầu và phó thác thần khí.

*[Sự tích cuộc Khổ Nạn của Chúa. Thánh Peter (Phêrô) là tông đồ trưởng trong mười hai tông đồ của Chúa. Khi Chúa bị bắt, trước lúc gà gáy sáng, thánh nhân đã phạm tội ba lần chối bỏ có quan hệ với Thầy]

Tối ấy, Tess lên sân thượng châm một điếu thuốc. Những tiếng động thành phố dội lên, hòa trộn thành tiếng ầm ì sâu thẳm ong tai nàng. Tess rít một hơi thật sâu, chất nicotine xộc vào hai lá phổi. Các ô cửa sổ sáng đèn vây quanh nàng, những cặp mắt đang nhìn nàng trong bóng tối. Tess đứng ở trung tâm, xoay một vòng, chuếnh choáng bởi nicotine. Trên đầu nàng, bầu trời không ranh giới, khôn cùng, quá mênh mông để ngắm. Nỗi đau khổ của nàng cũng lớn như bầu trời kia. Hà cớ gì sự tình thành ra thế này. Tess nằm xuống sàn, co ro, khuôn mặt Claire hiện lên trong óc. Mọi năng lực, giác quan của chị giờ đã im lìm. Vài ngày tới chị sẽ yên nghỉ cạnh những người xa lạ, dưới mặt trời California. Những tháng năm qua đã lấy đi của chị nhiều biết bao. Đứa gái cả, thằng em được đưa tới cho mẹ gặp mặt lần cuối, vô phương đưa tay lên rờ đầu chúng được nữa, vài từ thều thào lắp bắp qua những gân cơ đã hư hoại, các dây thanh đới đã héo tàn. Sau đó, tiếng hai đứa chơi đùa ở sân sau vẳng tới, trong khi các thiên thần dửng dưng ngồi nhìn Claire nhạt nhòa dần trong căn phòng tối tăm, vật lộn với thiên đường cho tới lúc thiên đường thắng thế và chị biến mất.
Tess nghe một tiếng rầm. Nàng ngóc đầu dậy, dáo dác nhìn khắp tầng. Chỉ mình nàng. Tess định thần nhìn sâu vào góc sân có cánh cửa, nó đã đóng. Nàng bật dậy, chạy tới, thanh gỗ dùng ngáng cho cửa mở bị đá văng. Đêm về khuya nên người bảo vệ đã lên khóa cửa. Tess vồ lấy cánh cửa sắt, đấm liên hồi, gọi to tên ông bảo vệ. Quẫn chí bởi khiếp đảm, Tess nhặt thanh gỗ cuống cuồng quật lên mặt cửa sắt, rồi dừng tay ngóng giọng nói hay tiếng bước chân phía trong. Nàng băng về mạn tường đằng Tây, rồi phía Đông, Bắc, Nam, luống cuống tới lui cho đến khi không gian như rộng thêm sau mỗi đường cắt. Tess thò đầu ra ngoài bờ tường, kêu với xuống cả tám tầng nhà đến tận lòng phố bên dưới. Nàng tìm kiếm một khuôn mặt trên các sân thượng, trong các cửa sổ, hình ảnh Theo nằm trong cũi cách ba tầng lầu bên dưới vò xé tâm can. Tess nháo nhào chạy vòng vòng, gào gọi khản giọng, nước mắt trào ra. Nàng khuỵu xuống, lưng trượt theo tường, vòng tay xiết chặt hai vạt áo khoác len, lầm rầm cầu nguyện.
Trên đầu nàng, bầu trời là một vòm cuốn. Các vì sao ngó xuống trái đất tròn. Tess như thấy mình xa lắc. Nàng đang dõi mắt vào hư vô. Trong màn đen mịt mù, sâu thẳm, nàng chợt thần diệu nghe ra một tiếng khóc. Tess cảm nhận được đứa trẻ cựa quậy, mí mắt giật giật, và mọi hơi thở, mọi tiếng động nhỏ nhặt đều rành rẽ vang tới nàng. Tess nín thở và tiếng khóc của thằng bé từ bên trong lại vọng về, rõ ràng và non nớt, lên bổng xuống trầm, lặp đi lặp lại, tai này vang qua tai kia, thôi miên nàng. Suỵt, ngủ tiếp đi con. Bé mở mắt, ghi nhận căn phòng có ánh sáng hắt từ hành lang. Đôi cánh tay nhỏ xíu bắt đầu cử động, đưa một ngón cái vào mồm. Trong giây lát, bé nằm im, tìm nghe một tiếng động, gạt lớp chăn đắp rồi nhỏm lên bám lấy mấy song cũi. Suỵt, suỵt, nàng thì thào. Tess nỗ lực vươn tới với con. Thằng bé bắt đầu thút thít, rồi ngưng bặt, lắng tai nghe. Mẹ vẫn không tới. Nó bắt đầu thút thít. Tiếng thút thít trở thành nức nở rồi chuyển sang gào. Những tràng thét gào xuyên vào lòng nàng. Tess kêu gọi mọi nguồn sức mạnh và cầu ước được bên con.
Kiệt sức, thằng bé nằm vật xuống mảnh chăn, đôi gò má đỏ lựng hoen lệ, hai nắm tay nhỏ xíu giờ đã quy phục. À ơi con ngủ đi con. Tess thì thầm hát ru, ráng sức tới khi hơi thở của bé và mình, nhịp tim con và nàng, hòa quyện vào nhau. Nhiều giờ trôi qua. Cái giá buốt của đêm thấu tận xương nàng.
Tess lăn qua lăn lại. Rét cóng, cứng đờ, nàng gắng nhỏm dậy. Cả tòa nhà chòng chành, nghiêng ngả trong màn đêm. Nàng lại quỵ xuống, lưng cà vào tường, co ro ngồi bó gối. Nàng ước thân mình làm bằng đá tảng. Nhìn chằm chằm một khe hẹp; đen sì, giữa mấy tấm ván sàn, thần trí Tess lách vào đó, soi một lỗ sâu xuống bóng tối, tạo một đường dẫn xuyên qua tâm điểm tòa nhà tới chỗ thằng bé đang nằm. Nàng trút cả người mình xuống đó. Rơi xuống, rơi mãi. Những bức tường đè ép nàng. Những bức tường quan tài, những bức tường mỏ đá. Những bức tường vườn cây ăn trái. Những bức tường thành giếng.
Suốt đêm đằng đẵng, nàng phiêu bồng giữa mơ và tỉnh, các ảo ảnh cùng lời nguyện cầu. Bình minh tới, mặt trời vỡ òa trên sân thượng, thành phố cựa mình. Tess nghe có tiếng choang của kim loại và cánh cửa sắt mở ra. Đằng Tây, một chiếc máy bay chầm chậm nâng độ cao, leo vào bầu trời.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét