Phố Academy
Tác giả: Mary Costello
Người dịch: Hà Nguyễn
Nhà XB Phụ Nữ 11-2017
10
Cơn đau thình lình ập đến lúc rạng đông.
Willa tới. Ở tiền sảnh bệnh viện Tess vỡ ối. Nàng cúi nhìn đôi giày ướt sũng và
bật khóc.
Tối ấy, khi xong xuôi, nàng tưởng như mình
vừa leo lên đứng trên đỉnh ngọn Everest, lòng mừng vui khôn tả. Sáng hôm sau,
nàng chợt nhận ra tất cả khía cạnh vĩ đại của sự việc. Tess đã sản sinh cuộc sống,
trao nhân tính cho một thực thể khởi nguồn gần như từ con số không, và thứ quyền
lực ấy, năng lực tạo dựng ấy, khiến nàng nghẹn ngào.
Tess không hề thấy yêu thích đứa nhỏ. Lông
tơ sáng màu trên da thằng bé giống lông thú. Nàng chẳng dám mó vào đầu nó, chỗ
xương thóp chưa liền hẳn. Nàng nghĩ đứa trẻ như quả trứng vỏ còn chưa liền lạc,
chưa đủ tuổi. Tess không ở trạng thái minh mẫn. Cơ thể nàng vừa bị xé mở, đau
như dần, gan ruột lộn phèo. Lòng nàng trào lên cảm giác gớm ghiếc cơ thể này, bộ
ngực căng mọng cùng tình trạng máu me ri rỉ này. Mình là một ả bò, Tess tự nhủ. Thế
nhưng lũ bò cái giỏi chăm con. Các ông bố cầm hoa vào khoa sơ sinh thăm trẻ,
bế ẵm chúng. Tess khép chặt tấm rèm che. Người ta bế đứa bé tới cho nàng. Ở một
mình với thằng nhỏ khiến nàng sợ hãi, và Tess nhấn chuông để họ mang nó đi.
Tới ngày thứ ba nàng rời giường đứng dậy,
đi tắm gội. Vào giờ cho trẻ ăn, Tess tần ngần đứng ngoài phòng chăm sóc trẻ sơ
sinh nhìn vào. Thằng bé là đứa duy nhất còn nằm lại đó. Tess cảm nhận cái côi
cút đến tột cùng ở nó. Ra đời chưa bao lâu, nó có thể sẽ lại trôi dạt vào khoảng
không lạnh lẽo giữa các vì sao. Tess bước vào phòng trực y tá, tim đập thình thịch.
Nàng đặt bình sữa xuống, nhìn chằm chằm khuôn mặt sau bàn.
- Tôi muốn cho người ta nhận thằng nhỏ làm
con nuôi, - nàng nói.
Suốt ngày nàng nằm nghĩ ngợi, ngủ mê mệt rồi
khóc lóc. Tess tưởng tượng hình ảnh con mình trong vòng tay những kẻ khác, các
giọng nói và mùi hương mới vây bọc, đối đầu nhau bên trong nó. Nàng hình dung nỗi
bối rối, cái gắng gỏi của thằng bé nhằm phân định từng chất giọng, hòng tìm thấy
tiếng nàng trong cả mớ hỗn độn, rối cuối cùng dồn nén đủ nức nở nghẹn ngào, nó
im tiếng và bỏ cuộc.
Tess cố thiếp đi. Nàng mơ trở về
Easterfield, thơ thẩn trong những căn phòng tối tăm tầng trên. Cuối hàng lang,
nàng bắt gặp một đứa bé ngồi bó gối trong góc. Nó đã ở đó từ rất lâu, sống sót ở
nơi chẳng có gì. Đứa trẻ cầm thứ gì đó đưa lên miệng nhai. Tess định thần nhìn
kỹ và thấy một ngón tay người - ngón tay nàng, ngón trỏ của nàng.
Khi Tess tỉnh dậy đêm đã buông, khoa sản
chìm trong màn tối nhờ nhờ, các bà mẹ khác đều đang ngon giấc. Nàng rời khỏi
giường, tới khoa chăm sóc trẻ. Nàng sợ lúc này đã quá trễ, giống một chú cừu bị
tách khỏi mẹ quá lâu sẽ không nhận lại mẹ nữa. Lúc nom thấy bóng con sau lớp
kính, cánh tay tự nhiên cong cong trong động tác bế trẻ, nàng bước vội tới.
Tess run rẩy bọc con trong tấm chăn, đi như chạy dọc hành lang rồi tụt xuống
hai chặng cầu thang trên cặp chân yếu ớt. Ở cổng chính, người gác đêm bước ra
chặn lối nàng, miệng cười mỉm, đặt nhẹ một tay lên bọc chăn.
- Quả là một buổi tối đẹp trời ngoài phố
quý bà ạ. Song hẳn bà vẫn muốn mặc thêm tấm áo ấm chứ?
Tess nhìn ra phố. Nàng nhìn vào đôi mắt người
gác cổng, nhìn xuống đứa bé đang thiêm thiếp, rồi lại ngước lên gương mặt người
gác. Bối rối và ngượng ngập, Tess để ông nắm khuỷu tay đưa tới thang máy trở lại
khoa.
Sáng hôm sau, lúc đứa trẻ đang thiêm thiếp
bên cạnh, Tess nhặt cây bút lên rồi viết: Anh
có một đứa con trai. Nó tên Theo.
* * *
Vĩnh viễn chẳng gì đủ đầy, đẹp đẽ hơn những
đêm ngày của mùa hè đầu bên đứa nhỏ. Cặp mắt nàng luôn dõi về con còn mắt bé
thì khóa chặt dáng hình mẹ, một dòng suối tình yêu diệu kì nối liền hai người. Da thịt này sinh bởi da thịt ta, máu mủ này
sinh bởi máu mủ ta*.
*[Sáng thế ký có ghi: Xương cốt này sinh bởi xương cốt ta,
da thịt này sinh bởi da thịt ta]
Tối ngủ Tess bế con vào giường mình, muốn
được đưa con vào lại trong cơ thể mình. Sáng ra nàng che con cho khỏi chói ánh
mặt trời chiếu xéo qua lớp rèm. Tess mặc cho con những bộ quần áo không có đường
may, để chẳng thứ xù xì nào cọ vào da bé. Nàng thậm chí không muốn rời căn hộ
hay phá vỡ phép màu. Nàng chẳng muốn có gì phá ngang, chẳng muốn hình ảnh, âm
thanh hay bất cứ thứ gì lạc điệu của thế giới xung quanh làm mờ đi vầng hào
quang của con hoặc gây tổn thương bé.
Từng chút từng chút một, ý thức về mối họa
treo lơ lửng từng dai dẳng đeo bám nàng đã bắt đầu lùi xa. Tess viết thư gửi chị
Claire, kể hết ngọn ngành. Willa ngày nào cũng ghé thăm, vài lần cùng một hay
hai đứa trẻ dắt díu nhau, có bận lôi cả anh chồng Darius tới để đóng cái giá
treo nôi. Chị đón thằng bé từ tay Tess và, với vẻ ung dung đáng ngạc nhiên, vừa
ẵm nó trong vòng tay vừa nấu nướng, thu vén, chuyện trò. Willa giới thiệu nàng
với các bà mẹ khác trong tòa nhà. Một hôm chị mang xe nôi của mình ra hành lang
và hai người phụ nữ hợp sức chuyển nó xuống đất rồi sóng bước đẩy xe đi dưới
ánh dương. Nơi băng ghế công viên, dưới tán cây, Willa thuật lại đời mình cho
Tess. Sinh ra ở Mississippi, chị chẳng hề biết bố là ai. Mẹ chuyển nhà lên miền
bắc tới Detroit lúc Willa và em gái còn nhỏ. Mười bảy tuổi chị gặp anh Darius
và lập tức biết đây là người đàn ông tốt. Họ kết hôn, chuyển tới New York sống
rồi ở đây Darius tìm được chân lái tàu điện ngầm trên tuyến đường A. Để kiếm
thêm, chị nhận trông trẻ - cho nhà Gallagher ở tầng hai, nhà O’Dowd trên tầng bốn
- khi mẹ chúng đi làm.
Từ tháng Mười, Willa trông Theo cho nàng
quay lại bệnh viện làm. Tối nào nàng cũng tất tả trở về, kiệt sức, thiếu ngủ,
lao vào bế xốc lấy con trai, giống một người đàn bà đang yêu. Tối nọ, khi vào đến
căn hộ của mình, Tess thấy một bức điện tín nằm trên sàn. Tối qua, cha đã thanh thản ra đi. Báo Oliver. Denis. Rụng rời, nàng
đặt Theo vào chiếc nôi xách trẻ sơ sinh rồi bắt chuyến tàu điện ngầm đi xuống
phố 181, và lúc đoàn tàu đang lao nhanh qua đường hầm, Tess tưởng như nghe thấy
tiếng than khóc của lũ cừu mới cai sữa phía sau mấy bờ tường. Nàng rung chuông
cửa nhà dì Molly rồi đứng chờ, sợ sệt, ương bướng nhưng không thấy hổ thẹn nữa.
Hai người đàn bà ôm lấy nhau còn ông Fritz bế đứa trẻ khỏi nôi. Họ gọi điện cho
Claire. Nàng chỉ nghe được lõm bõm điều chị mình nói. Claire bị bệnh thoái hóa
thần kinh vận động một bên*. Tess òa khóc trong điện thoại và cùng nhau, họ xót
xa cha.
*[Nguyên văn: Lou Gehrig’s disease (Viết tắt là ALS). Lou
Gehrig là tên cầu thủ bóng chày Mỹ mắc chứng bệnh này. Một bệnh nhân ALS nổi tiếng
khác chính là nhà bác học Stephen Hawking]
* * *
Tóc thằng bé dần sáng ra, mắt màu xanh. Một
sớm mùa xuân sau ca trực đêm, Tess đón Theo từ nhà chị Willa rồi đẩy cậu, khi ấy
còn đang ngủ, ra công viên và ngồi xuống một băng ghế. Nàng thích thời điểm
này, khi quanh đây gần như không người qua lại, và dư âm đêm thanh vắng cùng
các bệnh nhân đang ngon giấc vẫn còn vấn vương nơi tâm trí. Dần dà lòng Tess mở
ra, thính nhạy trước cái mới mẻ buổi sớm cùng các cơ hội, tiềm năng ngày mới.
Nhìn vào những lá xanh mới mọc - đâu đâu cũng một màu xanh ngăn ngắt - nàng gần
như phải che mắt trước ánh bừng bừng, cái đẹp tinh khôi của chúng. Cái đẹp đầy
rẫy, nàng nhủ thầm. Cả hạnh phúc cũng tràn trề, những ngày này. Hạnh phúc quá
khiến nàng phấp phỏng. Tess rút lui khỏi những suy nghĩ ấy, đưa mắt ngó quanh.
Trên lối đi có một ông già đang tiến lại gần. Tess bắt đầu thu vén vật dụng
nhưng ông lão đã tới nơi, đứng ngay trước mặt nàng, hỏi tên đứa nhỏ. Nó tên Theo, Tess thận trọng đáp.
- Theodore, - ông rỉ rả kể. - Lão từng có một
thằng con tên như thế. Bọn ta mất nó do bệnh viêm tuyến bạch cầu. Ấy là thời kỳ
đại suy thoái. Gia đình lão lúc đó phải tá túc trong khu lều trại.
Ông già ngồi xuống bên cạnh, kể cho nàng
toàn bộ câu chuyện. Trong xe nôi, Theo ngồi dậy, mắt chẳng rời ông lão, và lần
đầu nàng thấy được dáng dấp con lúc trưởng thành - cốt cách cậu thiếu niên hiện
ra từ hình hài em bé - cùng phong thái những năm sau này. Tess chợt có một nỗi
thôi thúc được tỏ bày với người lạ mặt này, kết bạn với ông, để ông trở thành
người ông thế chỗ. Đó cũng là món quà với cả ông nữa.
Ông lão nhìn Tess bằng cặp mắt ướt nhoèn.
- Nó là đứa con độc nhất của vợ chồng lão.
Bà ấy mất từ hai mươi ba năm trước.
Nàng nhìn khuôn mặt ông lão cạo nhẵn nhụi,
bộ quần áo chỉnh tề. Nàng loáng thoáng thấy được cuộc sống ông cụ, lề lối sinh
hoạt hằng ngày, tuần tự và có kỷ luật, dậy, nấu ăn, đi bộ. Ông quay qua nhìn
Theo nhưng nàng cảm thấy ý nghĩ ông để tận đẩu đâu. Tess muốn nói điều gì kéo
ông lão khỏi nỗi buồn.
- Đây là con hoang của cháu, -nàng lí nhí.
Ông gật gù vẻ lơ đễnh, ánh mắt trôi dọc lối
đi giờ đang bừng tỉnh bởi khách bộ hành. Đoạn ông đứng lên, bước tới dãy bàn đá
nơi các ông già thường ngồi chơi cờ vào những chiều hè. Tess thấy ông ngồi xuống,
lẻ loi, nhìn đăm đắm mặt bàn kẻ những ô cờ.
Tối hôm ấy, trong bếp, Tess lặp lại từ con hoang. Sinh ra bất chấp nghịch cảnh,
gian nan hơn mới có được và cũng quý giá hơn mọi trường hợp khác. Nàng đâu có
chọn con đường làm mẹ. Phòng bên, thằng bé o oe. Tess lắng tai nghe, đợi nó
quay về với giấc ngủ. Nàng muốn có bố thằng bé bên cạnh, để cùng được nghe tiếng
khóc này. Gương mặt anh hiện về. Hồi ức về vẻ đẹp anh khiến nàng đau đớn. Trên
đài, Billie Holiday* cất tiếng hát. Yêu
anh nhiều hơn anh tưởng. Nàng nghĩ về thành phố ở bên ngoài căn hộ, những
ngọn đèn nhấp nháy trong các cao ốc tứ phía quanh đây. Trong đó là các tổ ấm
gia đình. Anh ấy không thể trao ra thứ anh không có. Nàng bắt đầu sụt sịt. Tess
biết một phần rất lớn trong tình yêu là sự khoan dung. Vì vậy điều nàng ước ao,
điều nàng mong mỏi hơn mọi thứ khác, là tất cả những gì tốt đẹp nhất sẽ đến với
anh.
*[Nghệ danh của Eleanora Fagan (1915-1959), nữ ca sĩ kiêm
nhạc sĩ nhạc Jazz người Mỹ. “Yêu anh nhiều hơn anh tưởng” là một sáng tác của
bà]
Vào Thứ Sáu Tuần Thánh, khi đang làm việc tại
khoa, Tess nhận được điện thoại lễ tân báo có khách chờ ở tầng dưới. Dì Molly
và ông Fritz đang ngồi trên ghế và khi thấy họ, trống ngực đánh thình thịch. Dì
Molly đứng dậy, bước tới, mặt thất thần.
- Nó mất rồi, Tess ạ. Claire đã ra đi rồi.
Buổi chiều, nàng cùng hai bệnh nhân có tuổi
đi xuống nhà nguyện bệnh viện để đọc kinh Phúc Âm, đoạn về khổ hình của Chúa. Một
dàn hợp ca cùng vài nhạc công đang biểu diễn tác phẩm của Bach. Có bận, hồi bé,
Tess từng bị ngất xỉu giữa nhà thờ đông nghịt người ở một buổi tụng lê thê kinh
Phúc Âm trong lễ Thứ Sáu Tuần Thánh. Chị Claire, hoặc có thể Evelyn, đã đưa
nàng ra ngoài, với môi dưới chảy máu vì vập ngã, rồi đặt nằm trên bãi cỏ. Tess
vẫn nhớ rõ khoảnh khắc nàng tỉnh lại, vầng mặt trời, ánh sáng. Khi ấy nàng cảm
thấy mình vừa phục sinh. Giờ đây nàng lại đứng tụng một đoạn kinh dài. Thánh Peter chối bỏ Chúa ba lần, gà gáy sáng*.
Các nhạc công chơi điệp khúc mở đầu, nó chế ngự và hạ gục nàng bởi nỗi kinh hãi,
cảm giác giày vò, day dứt. Nỗi thống khổ giằng xé tâm can thánh Peter. Herr, Herr, Herr. Tess ngồi lặng. Vị
linh mục bắt đầu đọc tiếp, và nàng có mặt ở đó, sát bên cây thánh giá cùng cánh
đàn ông, cạnh đám đàn bà đang nức nở. Tess cảm nhận vòng gai nhói trên đầu cùng
mũi gươm nhọn hoắt thọc sâu vào mạng sườn Chúa. Nàng nhắm mắt theo tiếng nhạc
êm ái, nỗi buồn thương trong giọng đơn ca, nốt lặng ở cuối bài. Tess đau đớn
trước nỗi mất mát. Nàng đã ở cùng Chúa tại Calvary, cùng Claire trong khu vườn
Gethsemane. “Mọi sự đã hoàn tất”, Người
nói rồi gục đầu và phó thác thần khí.
*[Sự tích cuộc Khổ Nạn của Chúa. Thánh Peter (Phêrô) là
tông đồ trưởng trong mười hai tông đồ của Chúa. Khi Chúa bị bắt, trước lúc gà
gáy sáng, thánh nhân đã phạm tội ba lần chối bỏ có quan hệ với Thầy]
Tối ấy, Tess lên sân thượng châm một điếu
thuốc. Những tiếng động thành phố dội lên, hòa trộn thành tiếng ầm ì sâu thẳm
ong tai nàng. Tess rít một hơi thật sâu, chất nicotine xộc vào hai lá phổi. Các
ô cửa sổ sáng đèn vây quanh nàng, những cặp mắt đang nhìn nàng trong bóng tối.
Tess đứng ở trung tâm, xoay một vòng, chuếnh choáng bởi nicotine. Trên đầu
nàng, bầu trời không ranh giới, khôn cùng, quá mênh mông để ngắm. Nỗi đau khổ của
nàng cũng lớn như bầu trời kia. Hà cớ gì sự tình thành ra thế này. Tess nằm xuống
sàn, co ro, khuôn mặt Claire hiện lên trong óc. Mọi năng lực, giác quan của chị
giờ đã im lìm. Vài ngày tới chị sẽ yên nghỉ cạnh những người xa lạ, dưới mặt trời
California. Những tháng năm qua đã lấy đi của chị nhiều biết bao. Đứa gái cả,
thằng em được đưa tới cho mẹ gặp mặt lần cuối, vô phương đưa tay lên rờ đầu
chúng được nữa, vài từ thều thào lắp bắp qua những gân cơ đã hư hoại, các dây
thanh đới đã héo tàn. Sau đó, tiếng hai đứa chơi đùa ở sân sau vẳng tới, trong
khi các thiên thần dửng dưng ngồi nhìn Claire nhạt nhòa dần trong căn phòng tối
tăm, vật lộn với thiên đường cho tới lúc thiên đường thắng thế và chị biến mất.
Tess nghe một tiếng rầm. Nàng ngóc đầu dậy,
dáo dác nhìn khắp tầng. Chỉ mình nàng. Tess định thần nhìn sâu vào góc sân có
cánh cửa, nó đã đóng. Nàng bật dậy, chạy tới, thanh gỗ dùng ngáng cho cửa mở bị
đá văng. Đêm về khuya nên người bảo vệ đã lên khóa cửa. Tess vồ lấy cánh cửa sắt,
đấm liên hồi, gọi to tên ông bảo vệ. Quẫn chí bởi khiếp đảm, Tess nhặt thanh gỗ
cuống cuồng quật lên mặt cửa sắt, rồi dừng tay ngóng giọng nói hay tiếng bước
chân phía trong. Nàng băng về mạn tường đằng Tây, rồi phía Đông, Bắc, Nam, luống
cuống tới lui cho đến khi không gian như rộng thêm sau mỗi đường cắt. Tess thò
đầu ra ngoài bờ tường, kêu với xuống cả tám tầng nhà đến tận lòng phố bên dưới.
Nàng tìm kiếm một khuôn mặt trên các sân thượng, trong các cửa sổ, hình ảnh
Theo nằm trong cũi cách ba tầng lầu bên dưới vò xé tâm can. Tess nháo nhào chạy
vòng vòng, gào gọi khản giọng, nước mắt trào ra. Nàng khuỵu xuống, lưng trượt
theo tường, vòng tay xiết chặt hai vạt áo khoác len, lầm rầm cầu nguyện.
Trên đầu nàng, bầu trời là một vòm cuốn.
Các vì sao ngó xuống trái đất tròn. Tess như thấy mình xa lắc. Nàng đang dõi mắt
vào hư vô. Trong màn đen mịt mù, sâu thẳm, nàng chợt thần diệu nghe ra một tiếng
khóc. Tess cảm nhận được đứa trẻ cựa quậy, mí mắt giật giật, và mọi hơi thở, mọi
tiếng động nhỏ nhặt đều rành rẽ vang tới nàng. Tess nín thở và tiếng khóc của
thằng bé từ bên trong lại vọng về, rõ ràng và non nớt, lên bổng xuống trầm, lặp
đi lặp lại, tai này vang qua tai kia, thôi miên nàng. Suỵt, ngủ tiếp đi con. Bé mở mắt, ghi nhận căn phòng có ánh sáng hắt
từ hành lang. Đôi cánh tay nhỏ xíu bắt đầu cử động, đưa một ngón cái vào mồm.
Trong giây lát, bé nằm im, tìm nghe một tiếng động, gạt lớp chăn đắp rồi nhỏm
lên bám lấy mấy song cũi. Suỵt, suỵt,
nàng thì thào. Tess nỗ lực vươn tới với con. Thằng bé bắt đầu thút thít, rồi
ngưng bặt, lắng tai nghe. Mẹ vẫn không tới. Nó bắt đầu thút thít. Tiếng thút
thít trở thành nức nở rồi chuyển sang gào. Những tràng thét gào xuyên vào lòng
nàng. Tess kêu gọi mọi nguồn sức mạnh và cầu ước được bên con.
Kiệt sức, thằng bé nằm vật xuống mảnh chăn,
đôi gò má đỏ lựng hoen lệ, hai nắm tay nhỏ xíu giờ đã quy phục. À ơi con ngủ đi con. Tess thì thầm hát
ru, ráng sức tới khi hơi thở của bé và mình, nhịp tim con và nàng, hòa quyện
vào nhau. Nhiều giờ trôi qua. Cái giá buốt của đêm thấu tận xương nàng.
Tess lăn qua lăn lại. Rét cóng, cứng đờ,
nàng gắng nhỏm dậy. Cả tòa nhà chòng chành, nghiêng ngả trong màn đêm. Nàng lại
quỵ xuống, lưng cà vào tường, co ro ngồi bó gối. Nàng ước thân mình làm bằng đá
tảng. Nhìn chằm chằm một khe hẹp; đen sì, giữa mấy tấm ván sàn, thần trí Tess
lách vào đó, soi một lỗ sâu xuống bóng tối, tạo một đường dẫn xuyên qua tâm điểm
tòa nhà tới chỗ thằng bé đang nằm. Nàng trút cả người mình xuống đó. Rơi xuống,
rơi mãi. Những bức tường đè ép nàng. Những bức tường quan tài, những bức tường
mỏ đá. Những bức tường vườn cây ăn trái. Những bức tường thành giếng.
Suốt đêm đằng đẵng, nàng phiêu bồng giữa mơ
và tỉnh, các ảo ảnh cùng lời nguyện cầu. Bình minh tới, mặt trời vỡ òa trên sân
thượng, thành phố cựa mình. Tess nghe có tiếng choang của kim loại và cánh cửa
sắt mở ra. Đằng Tây, một chiếc máy bay chầm chậm nâng độ cao, leo vào bầu trời.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét