Vasily Grossman - Nhà văn chiến trường
(Sách viết về người phóng viên Soviet đi
cùng Hồng quân trong suốt WW2, từ năm 1941 đến 1945)
Biên dịch: Antony Beevor (Tác giả cuốn
“Stalingrad”) và
Luba Vinogradova
Phần Hai
Năm của Stalingrad
1942
8
Ở phía Nam
Tháng 1/1942, Grossman được cử đi theo
dõi các chiến dịch ở đông nam Kharkov theo yêu cầu của chính ông. “Vasily
Grossman thuyết phục tôi cử anh ta tới Phương diện quân Tây Nam”, Ortenberg
viết không lâu sau đó. “Đó là nơi anh ta đã từng sống”. Grossman, mặc dù không
sinh ra và lớn lên tại đó, biết rõ vùng này nhờ thời gian làm kỹ sư mỏ ở
Donbass. Trong mọi trường hợp, những bài viết của Grossman trong giai đoạn này
cũng làm Ortenberg mở mắt trước năng lực của ông.
“Sự thật tàn nhẫn của chiến tranh!”,
Ortenberg viết. “Vasily Grossman, khả năng viết lách của anh ta ngày 1 tiến
triển ngay trước mắt tôi, thực sự là thế”.
Ortenber có lẽ hơi ngạc nhiên vì lời đề
nghị của Grossman. Các phóng viên khác đều mong mỏi được ở gần Moscow vì mọi
người đều nghĩ các trận đánh then chốt sẽ diễn ra trên hướng trung tâm. Có lẽ
là do Grossman bị cuốn hút bởi vùng đất đó và kẻ địch - Tập đoàn quân 6 Đức -
nên đã đề nghị như vậy, việc này sẽ tạo ra 1 giai đoạn đặc biệt trong cuộc đời
ông: thời kỳ ở Stalingrad.
Khi Thống chế Von Rundstedt yêu cầu OKH
(Bộ chỉ huy tối cao Đức) chấp thuận cho rút về phòng tuyến sông Mius, Hitler
cảm thấy bị sỉ nhục vì ý tưởng rút lui này. Rundstedt khăng khăng rằng việc này
là cần thiết và xin từ chức nếu không được chấp thuận. Hitler cách chức ông ta
luôn và chỉ định Thống chế Von Reichenau, chỉ huy Tập đoàn quân 6 và là người
tin tưởng nhiệt thành vào chủ nghĩa Nazi, thay thế. Nhưng rồi Reichenau cũng
khăng khăng đòi rút về sông Mius. Hitler đã phải đích thân đến xem xét và kinh
ngạc nhận thấy ngay cả Sepp Dietrich, chỉ huy Sư đoàn SS “Quốc trưởng Adolf
Hitler”, cũng có cùng suy nghĩ đó.
Tập đoàn quân 6 của Reichenau là đơn vị
đã chiếm thủ đô Kiev của Ukraina. Cuối tháng 9 năm 1941, quân của hắn đã hỗ trợ
việc chuyển 33.771 người Do Thái tới hẻm núi Babi Yar bên ngoài thành phố, tại
đó họ bị đơn vị SS Sonderkommando 4A tàn sát 1 cách có hệ thống. Tập đoàn quân
6 cũng đóng giữ Kharkov, và Tập đoàn quân 38, đơn vị mà Grossman được cử theo
dõi vào tháng 1/1942, đã phải đối mặt với nó.
Sư trưởng Lazko ở cùng vợ là Sofya Efimovna*.
Đêm trong izba rất ấm. Bukhovsky và tôi bước vào nhà sau khi trải qua 1 đêm dài
chịu rét trên đường.
*[Thiếu tướng Grigorii Semenovich
Lazko (1903 - ?)]
Cả 2 vợ chồng đều cực kỳ mến khách. Có cả 1
dãy đồ ăn tự làm: bánh nhân táo, bánh ngọt, dưa muối. Trong khi chúng tôi rửa
sạch tuyết bám trên người, Lazko đã khoác cho chúng tôi những tấm khăn tắm dày
màu trắng thêu kiểu Ukraina. Polyak là tham mưu trưởng sư đoàn, trước chiến
tranh là quan chức cao cấp Bộ Ngoại giao, anh ta là 1 người thô lỗ và khinh
khỉnh.
Grossman đi xem công tác chuẩn bị tấn
công vào làng Zaliman mà địch đang chiếm giữ, ngôi làng nằm cách Statovo khoảng
20km về phía nam. 1 báo cáo kết quả trinh sát ban đầu cho biết bọn Đức đã buộc
ngỗng sống vào cọc đóng quanh khu vực như là 1 biện pháp cảnh báo, chúng sẽ
quang quác tướng lên khi có tiếng động.
Đêm, bão tuyết mù mịt, xe pháo âm thầm di
chuyển. Bất đồ 1 giọng nói khàn khàn cất lên ở chỗ ngã 3 đường: “Này, đường nào
là đường dẫn tới Berlin đấy?”. Những tiếng cười vang lên khắp nơi.
Chúng tôi có thể quan sát cuộc phản công
của bọn Đức từ trên 1 quả đồi nhỏ. Chúng chạy vài bước rồi nằm xuống. Một bóng
người nhỏ thó chạy phía sau, vừa chạy vừa vẫy tay, đó là tên sĩ quan. Bọn Đức
tiến thêm vài bước nữa rồi bỗng chạy ngược trở lại, tên sĩ quan lại xuất hiện.
1 lần nữa, bọn Đức lại tiến lên thêm vài bước rồi lại bỏ chạy về phía sau, lần
này còn nhanh hơn. Cuộc phản công vậy là đã thất bại.
Giấc mơ đã trở thành sự thật. Ngay khi bọn
Đức tập hợp lại: Bang! 1 phát đại bác ngay chóc. Đó là tác phẩm của Morozov,
pháo thủ phụ trách chỉnh súng (gun-layer). Đúng lúc bọn Đức tụ lại 1 chỗ và mọi
người bắt đầu nghĩ rằng thật tuyệt nếu ai đó nã pháo vào đầu chúng lúc này thì:
Bang! 1 phát đại bác! Chúng tôi thậm chí nhảy dựng lên vì sửng sốt.
Hồng quân rất thích lăng xê bất kỳ người
lính nào chứng tỏ được khả năng đặc biệt của vũ khí mà anh ta sử dụng, đó có
thể là 1 lính bắn tỉa, 1 tay ném lựu đạn vô địch hoặc 1 pháo thủ như Morozov.
Họ được tôn vinh giống như những công nhân xuất sắc và thành tích của họ thường
được cường điệu quá mức trong các bản báo cáo.
Ngày thứ 2 trận đánh ở Zaliman. Thời tiết
rất lạnh, khói bụi mù mịt. Tiếng pháo bắn như quất vào tai. Trung đoàn của
Trung tá Elchaninov đang chiến đấu vì Zaliman. Họ kéo pháo thẳng vào làng và
giấu chúng sau những ngôi nhà. Khi phát hiện ra 1 ổ súng máy, họ lăn pháo ra,
bắn thẳng vào chúng rồi lại kéo vào sau nhà.
Vấn đề cho pháo binh là: trận đánh diễn ra
ngay trong làng. Quân 2 bên trộn trấu với nhau. Nhà này là của ta, nhà khác lại
là của địch.
Nói chuyện với 1 phụ nữ: “Có 40 tên Đức
đang đi - tôi thậm chí nhắm tịt cả mắt, ôi, lạy Chúa - chúng tiến thẳng vào
làng, và khi tôi mở mắt ra, 1 số trong chúng đang nằm lăn trên đất, số khác bỏ
chạy”. (Đó cũng là tác phẩm của pháo thủ Morozov)
Zaliman đã được chiếm lại như thế nào? Quân
ta xông bừa vào làng đúng lúc bọn Đức đang tái tập hợp. Một số đơn vị lạc đường
mà chẳng có đơn vị nào khác thay chỗ họ. Thật may là ta chỉ mất có 3 người, bị
thương. Nếu quân ta chọn cách khác thì có thể đã thương vong hàng nghìn. Bọn
Đức có hàng rào dây thép gai, boongke làm bằng gỗ súc, lô cốt bê tông, hầm hào
đầy đủ. Thậm chí có cả những hỏa điểm đặt trong trong các boongke làm giống như
nhà dân. Đại đội trinh sát đã lập báo cáo chi tiết về các lô cốt. Khi quân ta
chiếm xong Zaliman thì thấy các báo cáo này hoàn toàn chính xác, cứ như thể
chính tay họ đã xây những lô cốt đó.
Grossman đã tình cờ phát hiện ra “những
hỏa điểm đặt trong trong các boongke làm giống như nhà dân” vì lính Hồng quân
thường tỏ ra hết sức ngạc nhiên trước việc lính Đức thường cố làm các vị trí
phòng thủ giống như nhà ở. Điều đó có vẻ phù hợp với những người ở yên 1 chỗ
hay thường dân chứ không phải 1 quân đội tin vào các giá trị thượng võ và chiến
thuật Blitzkrieg. Grossman tới gặp chỉ huy và tham mưu trưởng trung đoàn đã
tiến hành cuộc tấn công.
Sở chỉ huy trung đoàn là 1 izba đã bị cướp
phá trơ trụi, bọn Đức đã lấy khỏi đây mọi thứ, chỉ còn lại mấy cái ghế, giường,
ghế đẩu, chổi quét nhà. Đại tá Pesochin là người to béo, trông rất trí thức,
nhưng mọi người đều nói ông ta có thể đấm giữa mặt thuộc cấp, ông ta cũng đã
từng đánh tổng biên tập tờ báo của sư đoàn.
Chính ủy sư đoàn Snitser cũng to béo. Ông
làm mọi người vui vẻ suốt và luôn ôm người khác rất chặt hay cài lại khuy cổ
cho họ. Những câu chuyện cười tuôn ra liên tục. Pháo hạng nặng của bọn Đức đang
bắn.
“Sao các đồng chí không tiêu diệt chúng?”.
“Thật khó để tóm được chúng”, vị chính ủy
vui tính trả lời ngay. “Nhưng cũng còn dễ hơn là tóm được 1 phụ nữ”.
Grossman ghi chép lại nhiều lời trao đổi
bông đùa kiểu lính tráng.
“Anh đang ngày càng béo lên đấy, thiếu úy
Kostyukov”.
“Tôi đang thi đua với chỉ huy của tôi, đồng
chí Sư trưởng”.
“Tôi chắc chắn anh sẽ thắng trong cuộc thi
đua đó”.
“Không. Trọng lượng của tôi đã ổn định từ
năm 1936”.
“Mọi người ở trung đoàn anh đều béo”.
“Thật quá vinh dự cho bọn Đức nếu chúng ta
bị giảm cân vì chúng”.
Ăn tối tại sở chỉ huy trung đoàn.
“Anh nuôi, ?”
“Tớ đang bắt đầu làm thì máy bay Đức bổ
nhào xuống đầu chúng ta. Lũ rắn rết đó không để tôi hoàn thành chỗ pelmeni này”.
1 đại úy chạy vào khi chúng tôi đang ăn
tối.
“Tôi xin báo cáo, hơn 300 tay tiểu liên
địch đã được phát hiện”.
Snitser giơ cao
ly vodka:
“Ha - ha - ha!
Chia số đó cho 10 đi”.
Nếu Pesochin có
thể đấm các chính ủy thì chính ủy sư đoàn Serafim Snitser cũng có thể đấm các
chính trị viên dưới quyền. Mỗi người trong số họ lại trở thành 1 mắt xích trong
chuỗi chỉ huy bằng phương pháp đấm đá. Cả 2 người đều to béo và có những quả
đấm to, nung núc thịt. Những báo cáo chống lại cả 2 người được gửi cho Đảng ủy
Quân đội nhưng cũng không ngăn được họ. Họ đã hứa hẹn nhưng không thể kiềm chế
được, cứ như bị nghiện. Họ đánh các thuộc cấp của mình bất kỳ lúc nào. Snitser
đã đấm 1 lính tăng hôm qua trong 1 cuộc tranh luận về chiến lợi phẩm.
Grossman mặc
dù vỡ mộng trước những huyền thoại Hồng quân kiểu đó nhưng vẫn hầu như không
thoát được sự mê tín đối với họ, ông vẫn lạc quan vào tình hình mới đang tiến
triển thuận lợi.
Tinh thần của quân ta đã lên cao. Đó là sự thật.
Ông đánh giá
sự thay đổi này qua các biện pháp cứng rắn mới được áp dụng trong quân đội Đức,
(mặc dù chúng không tàn nhẫn bằng các biện pháp do đặc vụ NKVD đi kèm đội hình
quân đội Soviet thực hiện).
Diễn văn của
Hitler đọc trước binh sĩ: “Không lùi 1 bước khỏi những vùng đất đã chiếm được”.
Mệnh lệnh này đã được đưa ra để buộc các binh sĩ ký vào: “1 bản án tử hình đã
được đưa cho chúng tôi, và chúng tôi đã ký vào nó”. 1 tù binh Đức nói.
Grossman chắc chắn đã được Trung tá
Elchaninov cho phép xem báo cáo của trung đoàn trong những tháng trước đó. Cũng
như các ví dụ về chủ nghĩa anh hùng Soviet, Grossman viết cả về các “sự kiện
bất thường”, đó là cách nói trại đi về những hành động hèn nhát, đào ngũ, phản
bội, các hoạt động chống chính quyền Soviet và tất cả các loại tội phạm có thể
nhận án tử hình khác. Grossman hoàn toàn bị mê hoặc bởi ngôn ngữ nhà binh và sự
phức tạp đến kỳ quái của các cơ quan theo dõi. Các ghi chép của ông vì vậy trở
nên quá nguy hiểm, ông ghi lại cả các sự việc về đào ngũ hay bất tuân lệnh. Nếu
bất kỳ cuốn sổ ghi chép nào của ông bị Cơ quan đặc vụ trực thuộc NKVD - cơ quan
phản gián quân đội được tái tổ chức thành lực lượng SMERSh vào mùa xuân năm
1943 - phát hiện ra, ông sẽ gặp phải rắc rối lớn.
8/10/1941. Kravtsov của Đại đội Cối 3 đã
liên tục tìm cách dừng lại nghỉ trên đường hành quân mặc dù đã bị chỉ huy cấm,
hành động này đã đẩy đại đội của anh ta vào tình thế nguy hiểm.
13/10. Lính Hồng quân Matrosov đã tự để lộ
mình khi thi hành nhiệm vụ trinh sát bằng ngựa. Anh ta đã bị giết. 1 người
trong nhóm trinh sát đầu hàng địch và chịu đứng dưới tấm biểu ngữ “Ngày tàn của
Nhà nước Soviet”.
19/10. 1 lính Hồng quân thuộc Đại đội 8 bị
bắn vì đã giúp sức cho 1 kẻ đào ngũ chạy sang phía địch*.
*[Bất cứ người lính nào không tố cáo hoặc bắn
đồng đội định đào ngũ đều bị coi là đồng lõa]
24/10. Chỉ huy phân đội Marchenko không tin
vào thắng lợi hiển nhiên của Hồng quân. Anh ta đã nói: “Hitler chắc chắn sẽ đẩy
chúng ta trở lại Siberia”.
15/11. Một xạ thủ súng máy tuyên bố: “Thông
cáo của đồng chí Stalin đã tiếp thêm sức mạnh cho chúng ta”. Lính Hồng quân
Oska cũng tuyên bố: “Tôi xin nói với đồng chí Stalin rằng tôi sẽ chiến đấu với
quân thù cho đến khi nào tim tôi còn đập”.
Tại các buổi mít tinh do các chính ủy
hay “politruk” điều hành, các binh sĩ kể lại các hành động anh hùng và được
động viên để đưa ra các khẩu hiệu và tuyên bố phù hợp với từng người.
Chính ủy Glyanko xông vào làng Kupchinovka,
hô lớn “Ura!”.
Người đánh xe ngựa Klochko bị bọn Đức bắt.
Chúng đẩy ông tới 1 ngôi nhà nơi quân Soviet đang đóng. Khi bước tới ngưỡng
cửa, Klochko hét lên: “Đồng chí hạ sĩ! Bọn Đức!”.
“Tôi yêu cầu xử tử 2 tên Đức đã chính tay
giết 1 chiến sĩ của Đại đội 9 Bộ binh, thưa đồng chí Gorelov”.
Lính Hồng quân Pilyugin nói: “Mùa Đông
Tướng quân đã vui lòng giúp chúng ta. Bọn Đức đang hấp hối”.
Lính Hồng quân Ryaboshtan tuyên bố: “Tôi sẽ
đào 1 con hào ngay bây giờ và không 1 hỏa lực nào của địch có thể đẩy tôi rút
lui khỏi đó”.
Lính Hồng quân Kozyrev thuộc Đại đội 9 nói:
“Thật khó để rời bỏ mảnh đất đã gắn bó với mình. Trừ phi là để tiến lên”.
Lính Hồng quân Zhurba nói: “Chết còn hơn là
bị bọn phát xít giam cầm”.
Mặt khác, 1 số binh sĩ lại tỏ ra ngây
thơ đến mức nguy hiểm khi buông ra những lời than phiền. Họ có thể bị chuyển
cho Đặc vụ như những kẻ chủ bại hoặc kẻ kích động theo địch.
Lính Hồng quan Manyuk phát biểu: “Chúng tôi
không được nghỉ ngơi chút nào dù đã chiến đấu suốt từ ngày này qua ngày khác”.
Lính Hồng quân Burak từ chối nhận 1 khẩu
tiểu liên: anh ta nói mắt anh ta kém. Đại đội trưởng Kovalenko nguyền rủa anh
ta bằng những lời tục tĩu.
Grossman ghi chép nhiều ví dụ về việc
lính tráng và thậm chí các sĩ quan bày tỏ niềm tin tôn giáo của họ. Mặc dù vậy
cũng không rõ điều binh lính nói rằng Stalin đã thừa nhận Nhà thờ Chính thống
giáo trong những giờ khắc đất nước lâm nguy có đúng không.
Lính Hồng quân Golyaperov tuyên bố: “Tôi sẽ
chỉ tuyên thệ nếu có 1 cây thánh giá”.
Đặc vụ bắt Manzhulya, 1 binh sĩ đã đào ngũ
nhưng rồi tự nguyện quay lại.
Mặc dù quay lại 1 cách tự nguyện,
Manzhulya vẫn có thể bị coi là phần tử chậm tiến, đỡ hơn là 1 kẻ đào ngũ, và có
thể phải đối mặt với đội xử bắn hay bị đưa vào 1 shtrafbat, tiểu đoàn trừng
giới, nơi hầu như chắc chết vì đơn vị này bị buộc phải nhận những nhiệm vụ nguy
hiểm nhất, trong 1 số trường hợp bao gồm cả việc tấn công xuyên qua các bãi mìn
và đi đầu các mũi tấn công*.
*[Theo tài liệu của quân đội Nga, đã có 422.700 binh sĩ trong các đơn vị
trừng giới chết trong suốt cuộc chiến]
“Bản lĩnh chính trị của binh sĩ là tốt. Kẻ
đào ngũ Toropov đã bị bắn trước mặt đại đội của hắn”.
Bác sĩ Dolenko. Chồng cô ta đã trốn theo du
kích nhưng cô ta lại theo bọn Đức.
Sự tương phản khắc nghiệt giữa 2 hành
động anh hùng và hèn hạ này đặt ra nhiều câu hỏi. Bác sĩ Dolenko, 1 người
Ukraina căn cứ theo tên của cô, có lẽ chỉ muốn đoàn tụ với gia đình đang ở sau
chiến tuyến Đức, tuy nhiên theo góc nhìn Soviet đó là hành động phản quốc.
Cũng như trong mọi quân đội khác, việc
nhận thư nhà là nguồn động viên tinh thần quan trọng.
Dư luận rộng rãi trong binh lính cho rằng
các trạm thư chiến trường không thực hiện tốt trách nhiệm của mình.
Trong Hồng quân, hơn bất kỳ 1 quân đội
nào khác, tệ uống rượu gây nên những mối đe dọa lớn nhất cho kỷ luật, nó khiến
người ta mất khả năng giữ mồm giữ miệng 1 cách nguy hiểm.
Lính Hồng quân Kazakov nói với Trung đội
trưởng: “Súng của tao đã nạp đạn từ lâu để chờ đến lúc bắn mày”.
Lính Hồng quân Evsteev từ chối đến chốt gác
với lý do anh ta đang bị ướt. Ngày 20/10 anh ta rời chốt không phép, bỏ lại các
thành viên khác của tổ súng máy. Anh ta tới chỗ Đại đội 7 và nói với các binh
sĩ tại đó: “Các chỉ huy của tôi chửi tôi, hút máu tôi đến giọt cuối cùng, và
nhồi thức ăn đầy bụng”. Khi phải nói chuyện với chính trị viên, anh ta bắt đầu
cãi lại, tuyên bố rằng: “Rồi sẽ sớm đến lúc chúng tao xiên mày trên lưỡi lê”.
Chính trị viên bắn anh ta bằng súng ngắn.
Suốt cuộc chiến, nỗi ám ảnh chính của nhiều binh sĩ Hồng
quân là làm thế nào để kiếm được rượu hoặc bất kỳ thứ gì giông giống rượu.
Trung đội phó Anokhin và hạ sĩ Matyukhin uống những thứ
đựng trong chai thuốc chống chất độc Yperite. Trung đội phó chết ngay, hạ sĩ chết
trên đường đến bệnh viện.
Grossman ghi lại các ví dụ về ngôn ngữ trong các báo
cáo quân sự chính thức.
Podus, chỉ huy trạm cấp phát thuốc, thực hiện hành vi
tham ô cồn của trạm thuốc, pha loãng số cồn còn lại bằng nước lã.
Rượu cũng là nguyên nhân của phần lớn các vụ vi phạm về
dâm ô và yêu đương, có lẽ 1 phần vì nó làm giải tỏa tâm hồn khỏi những đè nén
nhu cầu tình dục trong thời đại Stalinist, khi 1 lời gợi ý mang tính quấy rối
cũng bị xem là “chống Đảng”.
Trung úy Boginava rời bỏ trung đội của anh ta trong
đêm để tới chỗ 1 cô gái tên là Marusya, cô này cự tuyệt không làm bất kỳ điều
gì với anh ta. Boginava đòi cô phải cưới anh ta và dọa bắn cô.
Cũng có nhiều lúc các quan điểm cao thượng, chân thật
và có văn hóa được bộc lộ, dù rằng điều đó thường được các chính trị viên định
hướng thành lòng căm thù giặc và tình yêu đất nước Liên Xô.
Một buổi hòa tấu được thực hiện tại Đại đội Súng máy
1... lính Hồng quân tổ chức các buổi biểu diễn nhạc kịch trong các tiểu đoàn của
họ. Sân khấu của vở kịch “Ở trang trại Fyodorovka” đang được dựng... Một buổi
thuyết trình về triết học cũng được tổ chức cho các sĩ quan.
Một đội văn công Hồng quân... “Buổi hòa nhạc của đội
văn công này là 1 phát đạn chính xác nhằm vào bọn phát xít”. Đội văn công này
đã hoạt động từ 2 tháng trước, họ học hát cùng với các binh sĩ những bài hát kiểu
như “Ôi, có 1 thằng cha đang gào lên bên đường”. Kalisty, 1 người trước làm việc
tại tòa án, hát: “Ôi, Dnepr, Dnepr, sông cứ trôi xa, nước trong như nước mắt”.
Khi bài hát cất lên, không chỉ có thính giả khóc mà người hát cũng khóc. Các
binh sĩ thành viên đội văn công - bộ binh, pháo binh, lái tăng - ăn mặc tồi
tàn, 1 trong số họ vừa trải qua 1 lần suýt chết cóng. Họ tới đây dưới làn đạn
và thường biểu diễn ngay trước 1 trận đánh mới. Tại làng Dubrova, người xem phải
chạy thật nhanh, từng người 1, đến chỗ biểu diễn văn nghệ trong rừng. Một bà
già tên là Vasilisa Nechivoloda tới và khiêu vũ với Kotlyarov trong tiếng đàn
accordeon. Bà đã 75 tuổi. Sau buổi biểu diễn bà nói: “Cám ơn các con trai, hãy
sống thật nhiều, thật nhiều năm nữa để đánh bọn phát xít nhé”.
Các dân làng không phải lúc nào cũng thân thiện.
Bà chủ căn nhà bị Đại đội 6 trưng dụng làm nơi đóng
quân tỏ ra thù địch với những người lính - bà ta đổ tro vào trà của họ, nấu bếp
khiến trong nhà ngập ngụa khói.
Chỉ huy trung đoàn pháo là Thiếu tá Ivanov, khi thời
tiết bắt đầu trở lạnh, pháo được bôi mỡ và tra dầu vào các bộ phận. Một tốp săn
tăng được thành lập và luyện tập. Tiểu đoàn của Chính ủy Malyshev có 1 dàn đồng
ca tuyệt vời. Họ tự làm 1 cái nhà tắm hơi (banya).
Báo cáo chính trị mới nhất: “Trong trận đánh tại làng
Zaliman, 1 lính Hồng quân bị thương đã lọt vào vườn sau nhà công dân Yakimenko.
Galya Yakimenko đã chăm sóc y tế cho anh ta. Một tên Đức phát xít xông vào vườn
bắn chết cả người lính và Galya, hắn còn định bắn vào cậu con trai 14 tuổi nhà
Yakimenko. Hàng xóm là cụ Semyon Belyavtsev đã vớ lấy 1 cây gậy phang vào đầu
tên phát xít. Binh sĩ Petrov kịp lao tới bắn chết hắn”.
Trong hầu khắp các đơn vị Soviet, thương vong do tai nạn
súng ống ở mức rất cao.
Thiếu úy Evdokimov (sinh năm 1922, trình độ văn hóa lớp
10, Đoàn viên Komsomol) làm thiếu úy Zorin bị thương vào bụng. Đó là 1 tai nạn,
thiếu úy Evdokimov sau đó định tự sát nhưng không thành công.
Phía Soviet thường thổi phồng thương vong của đối
phương đến mức quá quắt.
“Đồng chí Myshkovsky đã chiến đấu như 1 anh hùng và
tiêu diệt 1 trung đội phát xít bằng súng máy. Anh đã hy sinh sau khi bị thương
nhiều chỗ”.
“Naum Moiseevich Mahomed đã chiến đấu dũng cảm và cùng
trung đội của mình chiếm được nhiều vũ khí địch, Mahomed đã hy sinh. Pháo thủ
súng cối Sivokon đã đập tan quân thù không khoan nhượng. Đồng chí Trung đoàn
trưởng Avakov đã được chôn cất vào hồi 15h, ông đã hy sinh như 1 vị anh hùng,
toàn thể đơn vị nói lời vĩnh biệt vị chỉ huy, có cả cư dân địa phương tham dự lễ
tang”.
“Chính ủy Usachev ném lựu đạn vào bọn Đức và khởi xướng
1 cuộc xung phong bằng lưỡi lê. Usachev đã hy sinh như 1 vị anh hùng”.
Khi nghe báo cáo từ mặt trận, Sư trưởng Pesochin nói với
giọng du dương: “Ôi, lạy Chúa tôi”.
Việc quay lại Zaliman và nhiều làng khác đã làm
Grossman suy nghĩ nhiều hơn về cuộc sống dưới ách chiếm đóng của bọn Đức. Những
tin đồn từ phía bên kia chiến tuyến gây lo lắng cho mọi người.
Các cô gái sống trong các làng bị chiếm đóng phải quấn
giẻ rách lên người và bôi tro lên mặt.
Đó là cách để bọn lính Đức không chú ý tới họ.
Phụ nữ Đức cũng phải dùng biện pháp tương tự vào năm
1945 để hy vọng thoát khỏi bị Hồng quân hiếp. Grossman cũng như nhiều người
khác đôi khi đã tác động tạo nên ấn tượng xấu về sự chiếm đóng của đối phương.
6 cô gái xinh đẹp của làng Zaliman đã bỏ đi theo bọn Đức.
Đó rất có thể chỉ là 1 lời đồn đại độc ác. Hầu hết các
cô gái hấp dẫn đều bị bắt phục vụ tại các nhà chứa của Wehrmacht (quân đội Đức
quốc xã), 1 số phận còn tệ hơn là bị hãm hiếp vì như vậy là họ bị hiếp thường
xuyên. Các cô gái trẻ phải giả bộ thích thú việc đó hoặc đối mặt với những hình
phạt hà khắc.
Đối với phần lớn người dân đã bắt nhịp được với tình
trạng chiến tranh, sống sót là tất cả. Tuy nhiên đôi khi 1 chú nhóc nông dân tỏ
ra láu cá để có được những thứ tốt hơn.
Một chú bé phát hiện dấu vết của bọn Đức, đêm xuống, cậu
ta báo lại mọi thứ cho trung đoàn trưởng đang ở trong 1 izba. “Cho tôi 1 ít
vodka, tôi lạnh”, cậu ta nói bằng giọng khàn khàn. Trung đoàn trưởng đang ăn tối,
ông bắt đầu nói lớn: “Vanya, Vanya, có ít thịt gà này”. Cậu bé được cho 1 ít
vodka và thịt gà, sau đó mẹ cậu ta thình lình xuất hiện và quật cho cậu 1 trận
ra trò. Hóa ra cậu ta đã bịa ra mọi chuyện.
Grossman góp nhặt những chi tiết vụn vặt từ các chính
trị viên để hoàn thành bài báo. Nhiều khi là từ các cuộc thẩm vấn tù binh hoặc
các thư từ, tài liệu thu được, nhưng không phải tất cả đều chính xác.
1 bức thư của lính Đức: “Đừng lo buồn. Vì càng sớm xuống
lỗ ngày nào tôi càng đỡ phải chịu khổ ngày đó”.
Câu cuối như thế đã trở nên thông thường trong các
binh lính Đức chán ngán chiến tranh, những từ ngữ này xuất hiện nhiều đến mức
đáng ngờ trong các thư từ mà nhà cầm quyền Soviet tuyên bố thu được. Tuy nhiên
chúng không bao giờ xuất hiện trong các bộ sưu tập thư chiến trường thu được tại
Đức. Có lẽ các chính trị viên nghe được ở đâu đó những điều này rồi tuyên bố họ
tìm thấy trong những bức thư. Grossman sau đó trích dẫn lại 1 cách thường xuyên
như 1 ví dụ lặp đi lặp lại, tuy nhiên điều này còn phải nghiên cứu cẩn thận.
“Chúng tôi thường nghĩ: “Rồi, giờ thì nước Nga chắc chắn
sẽ đầu hàng”, nhưng tất nhiên bọn dốt nát đó quá ngu để hiểu điều đó”.
Cũng trong 1 bức thư: “Tình hình lương thảo không đến
nỗi tệ. Hôm qua chúng tôi thịt 1 con lợn nặng 150kg cho 7 người ăn. Chúng tôi
đã bỏ đi 30kg mỡ”.
1 bức thư khác: “Chúng tôi hấp bánh táo. Lúc đầu chúng
tôi cho quá nhiều bột, sau đó là quá nhiều khoai tây. Tổng cộng chúng tôi làm
được 47 cái bánh táo, đủ cho 3 người chúng tôi. Giờ tôi đun cải bắp và táo. Tôi
không biết mùi vị của chúng sẽ ra sao nhưng dù sao chúng tôi cũng không có phiếu
thực phẩm. Chúng tôi lấy mọi thứ từ dân địa phương. Không có thời gian để viết
thư, chúng tôi nấu nướng suốt ngày. Cuộc sống quân đội thật tốt đẹp. 4 người
chúng tôi thịt 1 con lợn sữa để ăn với nhau. Tôi tìm thấy nhiều mật ong ở đây,
đó chính xác là thứ tôi cần”.
1 bức thư của 1 cô gái Đức: “Em đang dần phát điên, về
đi, tình yêu của em. Em mong anh sẽ sống sót vì chiến tranh chẳng là gì cả với
em nếu anh không còn. Tạm biệt, kho báu của em, tạm biệt. Mizzi”.
Hitler tuyên bố với binh lính của hắn (trong 1 bản báo
cáo lấy được từ 1 tên Đức bị bắt):
“Các binh sĩ của tôi! Tôi yêu cầu các bạn không lùi 1
bước khỏi những vùng đất các bạn đã chinh phục được bằng máu của chính các bạn.
Hãy đốt cháy các làng mạc Nga để soi đường cho các đơn vị dự bị của tôi đang tiến
tới và truyền niềm vui cho họ. Các binh sĩ của tôi, tôi đã làm mọi thứ vì các bạn,
giờ các bạn hãy làm những gì có thể cho tôi”.
9
Cuộc chiến tranh trên không ở khu vực phía Nam
Trong ngày đầu năm mới 1942, Grossman
lại viết thư cho vợ trong tâm trạng phởn phơ vì quân Đức đang rút lui trên khắp
các mặt trận.
Lyusenka yêu quý nhất của anh, chúng ta hãy
chúc mừng năm mới: em ở Chistopol, anh ở mặt trận... Tương lai đã trở nên rõ
ràng với chúng ta. Cảm giác tin tưởng và mạnh mẽ lan truyền trong toàn thể quân
đội, và mỗi ngày trôi qua lại đem chiến thắng đến gần hơn...
10 ngày sau, ông lại viết 1 bức thư
khác.
Các bài viết của anh hiện đã được đăng
thường xuyên hơn, và Tổng biên tập đã trở nên tốt bụng hơn với anh. Anh mới
nghe về cái chết của Gaidar* hôm qua. Anh ấy đã hi sinh trong 1 trận đánh...
Lyusenka, em có nhớ Gaidar? Bạn bè chúng ta đang ở đâu? Anh vẫn không thể tin
vào sự thật là Vasya Bobryshev đã chết. Anh vừa đọc bức thư cuối cùng của anh
ấy mới đây xong, và tim anh đau nhói. Anh thường nhớ tới Roskin với tâm trạng
đau khổ. Anh nghĩ về Mẹ. Anh vẫn không tin là Mẹ đã mất, anh không thể chấp
nhận điều đó. Nỗi đau về Mẹ vẫn sẽ túm chặt lấy anh sau này...
*[Arkady Gaidar, nhà văn nổi tiếng và được yêu thích chuyên viết cho trẻ
em. Từng là Trung đoàn trưởng vào năm 18 tuổi trong cuộc Nội chiến Nga. Năm
1941, sau khi phát xít Đức xâm lược, ông ra chiến trường làm phóng viên chiến
tranh]
Đến cuối tháng 1, Grossman đến thăm 1
sân bay ở Svatovo, đó không phải là 1 chuyến đi dễ dàng trong tiết trời mùa
đông lúc đó.
Có bão tuyết khi chúng tôi rời Zaliman đi
Svatovo. Con đường biến mất dưới lớp tuyết. Chúng tôi sớm bị kẹt đến mức vô
vọng. May mắn thay, 1 chiếc tank đi qua đã nhận thấy chúng tôi. Chúng tôi trèo
lên ngồi trên xe tăng và nó đưa chúng tôi quay về lại Zaliman, kéo theo cả
chiếc ô tô của chúng tôi.
Ông kể lại chuyến đi này trong bức thư
sau đó gửi cho cha.
Ở đây trời vẫn lạnh buốt. Con vừa bị 1 trận
bão tuyết giữa thảo nguyên và 1 chiếc xe tăng đã cho con đi nhờ về làng nếu không
con có thể chết cóng ngoài đó. Có rất nhiều việc ở đây và công việc thật hấp
dẫn. Tinh thần của con đang rất cao. Chỉ là con hơi lo lắng cho tất cả những
người con yêu quý, tất cả đã phải sơ tán mỗi người 1 nơi. Con thường mơ về Mẹ.
Điều gì đã xảy ra với Mẹ? Mẹ còn sống không?
Trong suốt cuộc chiến, Grossman luôn bị
hấp dẫn bởi những tay chuyên gia. Trong giai đoạn đầu, các phi công chiến đấu
là những người thu hút ông nhất; sau đó khi ở Stalingrad, các tay bắn tỉa gây
cảm hứng với ông; và trong 6 tháng cuối cùng của cuộc chiến là những lính xe
tăng.
Đầu tháng 2, ông tới thăm trung đoàn
không quân chiến đấu Hồng quân yểm trợ cho Phương diện quân Tây Nam đóng tại
sân bay Svatovo, phía bắc Donets. Trung đoàn được trang bị các máy bay chiến
đấu Yak. Trong thời kỳ đầu cuộc chiến, không quân Soviet mặc dù có số lượng lớn
nhưng không thể đọ nổi kỹ thuật hơn hẳn của không quân Đức (Lufwaffe) đối thủ,
vì vậy 1 số phi công đã phải chọn cách đâm thẳng vào máy bay Đức. Chỉ 1 số ít
thoát được sau những vụ như vậy.
Salomatin: “Đâm thẳng - đó là tính cách
Nga, là cách giáo dục Soviet”.
Mikhail Stepanovich Sedov, sinh năm 1917: “Đâm
thẳng không phải hành động anh hùng. Anh hùng nghĩa là bắn hạ chúng càng nhiều
càng tốt”.
Skotnoi: “Cái kiểu anh hùng gì mà lại mang
1 chiếc máy bay đầy đạn nhưng không tìm cách bắn (máy bay địch) mà đến nỗi phải
đâm chúng?”.
Skotnoi không nói nhiều, anh đang rất buồn.
“Tôi sẽ rất bối rối khi tới các câu lạc bộ. Tôi quá nhát để nói chuyện với các
cô gái”.
1 số phi công mà Grossman phỏng vấn, đặc
biệt là các chỉ huy đơn vị, bị các nguyên tắc của Đảng giới hạn chặt chẽ nên không
bao giờ đưa ra bất kỳ bằng chứng nào về các vụ tai nạn rơi máy bay hoặc hỏng
động cơ, dù chỉ là để nêu lên vấn đề. Trong 1 số giai đoạn của cuộc chiến, không
quân Hồng quân mất số máy bay do tai nạn nhiều gần như do chiến đấu với địch.
Thiếu tá Ivan Sidorovich Fatyanov: “Người
của tôi làm việc theo từng cặp. Họ thậm chí sẽ bỏ qua con mồi để bám sát đồng
đội. Lòng tin vào người đi cùng là điều quan trọng nhất. Chúng tôi giúp đỡ
những người khác khi họ gặp vấn đề. Truyền thống đó đã có từ trước và chúng tôi
bao giờ cũng tuân theo. Chúng tôi tin tưởng vào những gì được trang bị cho
chúng tôi. Chẳng bao giờ có chuyện động cơ hoặc bản thân chiếc máy bay làm ai
đó bị rơi”.
Với đề tài về bọn Đức:
“Chúng yểm hộ những chiếc Junker tiến tới,
tách ra và tấn công. Nhưng chúng không thể chống cự khi tình hình thay đổi mau
lẹ. Không có nhiều tình đồng đội giữa chúng với nhau. Các cặp máy bay ta dễ
dàng xé toang đội hình chúng. Chúng bỏ chạy hết tốc lực. Chúng có thể chạy tán
loạn trước 1 đối thủ lanh lợi nhưng không bao giờ bỏ qua 1 chiếc máy bay ta đã
bị thương. Tôi không dám nói tôi là người giàu kinh nghiệm”. (Anh ta tỏ ra
khiêm tốn).
1 viên tướng không quân đang nói chuyện
trên điện thoại mặt trận về bom, việc cất cánh các máy bay ném bom, việc bắt
đầu công kích, vân vân và vân vân. Bất thần ông nói: “một đứa trẻ đang khóc ở
đâu đó sát chiến tuyến bên kia, chắc là trong 1 izba”.
Grossman xem ra đã bị hấp dẫn bởi những
tiểu tiết trong các ghi chép của mình.
Aleksandr Vasilievich Martynov, sinh năm
1919: “Mọi người có thể nhận ra toàn bộ tính cách của 1 phi công theo cách anh
ta di chuyển chiếc máy bay. Tôi có thể nhìn thấy đâu là tên địch mạnh mẽ và
kiên trì. Bọn Đức cũng tìm những người khờ khạo, chúng sẽ hạ gục họ từ phía
sau. Là 1 phi công, bạn sẽ nhận ra tính cách đồng đội của mình là như thế nào,
và toàn bộ bản chất anh ta được thể hiện theo cách anh ta lái cỗ máy. Trong 1
trận không chiến, rất khó phân biệt giữa các phi công với nhau... Tôi phải bảo
vệ đồng đội của mình hơn là bắn hạ bọn Đức khát máu... Bạn nhìn thấy 1 tên
Fritz, cách hắn lúc lắc đầu, và bạn cho chúng xơi vài viên đạn nóng bỏng! Cận
chiến trên không hơi khó khăn với bọn Fritz, đó là kiểu đánh nhau đến giọt máu
cuối cùng. Quân địch không thích đánh nhau trên cùng 1 mặt phẳng, ngang hoặc
nghiêng, chúng thường cố đánh trên 1 trục thẳng đứng. Chúng làm mọi thứ 1 cách
êm ru, tránh những cú nghiêng cánh gấp. Điều đó có nghĩa là chúng có thể thoát
khỏi 1 mặt phẳng chỉ bằng 1 cú lượn. Chúng bắn mà không ngắm kỹ”.
“Hợp tác tốt giữa các cặp đôi đảm bảo cho
thành công. Bạn bay theo người dẫn đầu và anh ta ra tín hiệu khi cần tách ra...
Tôi đã từng bị trúng đạn trên không bởi pháo cao xạ, máy bay cháy và tôi bị
thương. Khi máy bay cháy tôi chưa cảm thấy sợ, không có thời gian để sợ”. Đức
tính tốt của 1 phi công giỏi là:
1) Biết rõ cỗ máy và các thiết bị kèm theo
của bạn để có thể sử dụng được chúng.
2) Tin tưởng và yêu quý cỗ máy của bạn.
3) Dũng cảm, có cái đầu lạnh và trái tim
nóng.
4) Có tình đồng đội tốt.
5) Thể hiện đức tính vì người khác trong
chiến đấu, hết lòng vì Đất Mẹ, và căm thù giặc.
Cuộc đụng độ đầu tiên của tôi là với 1
chiếc Heinkel. Tôi công kích nó 12 lần, nó biến thành 1 cục khói đen. Lần đầu
này tôi có hơi sợ, tôi trở về với nhiều vết đạn. Khi bị trúng đầy vết đạn, tôi
bay như 1 con chim cút già nua”.
Salomantin giải thích tại sao anh ta không
chờ muộn hơn để tham chiến 1 trận đánh khác: “Tôi muốn là phi công chính, đó là
lý do tôi lại bắt đầu tham chiến. Chẳng vinh dự gì khi tôi là người bay sau.
Tôi muốn hạ bọn Đức dù phải trả giá bằng mạng sống của mình”.
Salomatin sau đó kể về Demidov, đồng đội
của anh vừa hi sinh trong 1 trận không chiến. Mọi người đã tưởng nhớ anh ta
trong tiệc rượu ăn mừng việc được tặng thưởng huân chương. Phong tục của Hồng
quân là bỏ chiếc huân chương mới được tặng thưởng vào cốc vodka, uống 1 hơi hết
chỗ rượu đó để cuối cùng là ngậm được chiếc huân chương giữa 2 hàm răng.
“Demidov, người đồng đội vừa hi sinh, thường
truyền sự can đảm của anh cho mọi người. Baranov đã khóc òa lên khi chúng tôi
được nhận huân chương. Cốc đầu tiên là cho Stalin, cốc thứ 2 là cho người đồng
chí đã hi sinh Demidov”.
Đại úy Zapryagalov: “Ngày đầu tiên của trận
chiến tại Chernovitsy, còi báo động reo vang ngay từ 4h sáng. Chúng tôi chạy
vào sân bay. Tôi cất cánh khi bom đang nổ. Sau này tôi phải tiến hành các vụ
cất cánh khác từ sân bay đã bị bom phá hủy”.
“Cái chính là chúng tôi tin tưởng. Chúng
tôi chẳng nghi ngờ gì là sẽ được đồng đội giúp đỡ khi gặp vấn đề. Chúng tôi không
phải những người bắt đầu truyền thống đó nhưng chúng tôi sẽ tuân thủ tuyệt đối
nó. Đức là 1 nước rất mạnh về kỹ thuật”.
Boris Nikolayevich Eryomin, 29 tuổi: “Nguyên
tắc quan trọng nhất là phải hợp tác với người cùng cặp và có tinh thần đồng
đội. Chúng tôi hợp tác với nhau và biết rõ đặc điểm của người kia. Martynov,
chỉ huy phó, bay cùng Korol và dạy anh ta. Cặp đôi thứ 2 gồm Balashov và Sedov.
Tôi bay cùng Skotnoi.
Ai cũng có thể nhìn thấy luồng đạn lửa bắn
ra từ chiếc máy bay màu đen của địch. Chiếc Messerschmitt có thân dài, trông
giống như 1 cây thương. Tôi quan sát, thấy cái mũi cánh quạt màu vàng của nó
thì nghiêng cánh, nhưng hơi muộn. Tôi thấy hắn khai hỏa vào tôi và ánh lửa xanh
bùng lên, ngay khi đó Martynov lao vào hắn, và hắn rơi. Thật thú vị, tất nhiên,
bạn sẽ thực sự say mê khi nhìn thấy cảnh đó”.
“Chúng tôi phải bảo vệ đám “mòng biển”, bên
trong chúng đều là những người tốt”*.
*[Mòng biển (chaechka): cách gọi âu yếm 1 loại máy bay. Thực tế theo cuốn
“Polikarpov I”, trang 15, 1 chiếc máy bay chiến đấu loại nhỏ có cánh kiểu chim
mòng biển không bao giờ có cơ hội đối chọi đơn độc được với 1 chiếc
Messerschmitt 109]
“Tôi cất cánh cùng Salomatin khi còi báo
động kêu và hạ được 1 máy bay địch. Cảm giác thật sung sướng. Bạn chỉ toàn bay
theo 1 phương pháp đó thôi: “Ah, sẽ tốt hơn nếu theo cách đó, sẽ tốt hơn nếu
theo cách đó”.
“Chỉ huy giải thích điều đó với tôi, và tôi
hiểu điều anh ta muốn ở tôi. Chúng tôi đã thống nhất trước từ ở dưới đất - nếu
anh lắc cánh - đó có nghĩa là chuẩn bị vào công kích đi”.
Trung úy Salomatin (người bay yểm trợ cho
Sedov, sinh năm 1921: “Chiếc máy bay dẫn đầu của địch tiến thẳng về phía tôi,
nhưng tôi không xoay máy bay ra hướng khác. Hắn sững lại rồi xoay đi. Đâm thẳng
vào hắn lúc này có thể lợi được 1 chút, nhưng chẳng đáng, chỉ khi nào 1 chọi 1
thôi. 1 người có thể sợ nếu bị cả đám máy bay địch tấn công, nhưng khi quân ta
có cả 1 phi đội, bạn sẽ quên tất cả mà chỉ thực sự bị kích động bởi ý nghĩ: “Chúng
đang bay đi ném bom quân ta!”.
Về đâm máy bay: “Sẽ là rất có lợi khi đổi 1
chiếc tiêm kích lấy 1 chiếc Junker nhưng tôi sẽ chẳng trao cho ai danh hiệu Anh
hùng Liên Xô vì 1 hành động kiểu đó. Ai mà chẳng làm thế được. Tôi đã suy nghĩ
rất nhiều về chuyện đâm máy bay, về chuyện xé tan máy bay địch bằng cánh quạt.
Nó có thể gây ra nhiều thiệt hại.
Tôi xông vào chúng và lao thẳng vào giữa
đám máy bay Đức, gần như chạm cánh vào 1 chiếc trong số chúng. Tôi thoát qua
hướng về phía mặt trời mà chúng không hề bắn. Tôi lại suýt nữa húc phải 1 chiếc
khác và bắn hạ hắn ở khoảng cách chỉ 25m. Sau đó tôi quay lại và bắt đầu nã đạn
vào bất kỳ chiếc máy bay Đức nào.
Chuyến bay thứ 2 - tên dẫn đầu chỉ cách tôi
có 2m ngay dưới bụng và tôi bị luồng gió từ chiếc máy bay của hắn tạt vào. Tôi
bổ nhào và thoát được khỏi 9 chiếc Messer. Tôi tăng tốc để hạ 1 chiếc Messer
đang bám đuôi 1 trong những chiếc Yak của ta (Trung úy Skotnoi đang lái chiếc
này), nhưng không thể làm được điều đó ngay. Máy bay của Skotnoi chao đi, nhưng
tôi đã kịp đưa 2 chiếc Messer ra đi. Skotnoi hạ cánh xuống đất. Tôi lượn 2 vòng
để tìm vì rõ ràng địch không giết được anh ta. Tôi thấy anh ta còn sống và giơ
tay vẫy”.
Skotnoi: “Chúng tôi lao vào trận đánh mặt
đối mặt. Hắn bắn thủng bộ tản nhiệt máy bay của tôi nhưng tôi đã bắn cháy hắn.
Tôi tới giúp Eryomin. 1 chiếc Messerschmitt bắn trúng bình xăng và ống dẫn
nhiên liệu của tôi. Lửa bùng lên trong buồng lái, khói ngập ngụa. Tôi mất độ
cao. Sedov bay quanh bảo vệ tôi. Tôi không bị bỏng, chỉ có đôi ủng là bị cháy.
Tôi nhảy ra, vẫy tay với Sedov (ý nói anh ta có thể đi). Chiếc máy bay của tôi
cháy bùng lên”.
10
Ở Donets cùng Sư đoàn Đen
Grossman đi cùng Tập đoàn quân 37 đóng gần Serverrnyi
Donets, cách Kharkov 40km về phía đông nam. Họ đối mặt với Tập đoàn quân 6 Đức,
lực lượng do Tướng Friedrich Paulus chỉ huy, đây cũng là lực lượng mà Grossman
sẽ chạm trán ở Stalingrad.
Tới thăm Sư trưởng, Đại tá Zinoviev, Anh hùng Liên Xô,
sinh năm 1905 và là 1 nông dân.
“Tôi là 1 muzhik”, ông nói về bản thân như vậy. Ông
gia nhập Hồng quân năm 1927 và phục vụ trong lực lượng biên phòng đóng ở Trung
Á, làm đại đội trưởng trong Chiến dịch Phần Lan, đã từng trải qua 57 ngày trong
vòng vây quân Đức (kỳ công mà nhờ đó ông được nhận danh hiệu Anh hùng Liên Xô).
“Điều đáng sợ nhất”, Zinoviev nói với tôi, “là khi
chúng đang bò tới. Bạn bắn chúng bằng súng máy, cối và đại bác, bạn nghiền nát
chúng, nhưng chúng cứ bò tới. Và bây giờ tôi phải cố thuyết phục binh lính của
mình: “Bò đi!”. Dù đã từng học tại Học viện Quân sự Frunze nhưng ông vẫn khó
nói năng được 1 cách trôi chảy. Ông tỏ ra rụt rè và hay vấp váp trong ngôn từ,
ông xấu hổ vì điều đó như 1 người bình thường.
Sư đoàn gồm phần lớn là các thợ mỏ, tất cả đều đến từ
Donbass. Bọn Đức gọi họ là “Sư đoàn Đen”. Các thợ mỏ không muốn rút lui. “Chúng
tôi sẽ không để 1 tên Đức nào vượt qua Donets”. Họ gọi Sư trưởng của mình là
“Chapaev của chúng ta”*.
*[Vassili Ivanovich Chapaev (1897 - 1919) là
anh hùng của Hồng quân trong cuộc Nội chiến Nga, nổi tiếng vì đã bảo vệ được
phòng tuyến sông Ural, nhưng đã chết đuối trên con sông này khi cố bơi vào bờ với
1 viên đạn găm vào vai]
Trong trận đánh đầu tiên Sư đoàn đã bị khoảng 100 xe
tăng Đức tấn công. Các thợ mỏ đã chặn đứng cuộc tấn công đó. Khi bọn Đức chọc
thủng 1 cánh Sư đoàn, Sư trưởng phi ngựa dọc chiến tuyến hô: “Tiến lên, những
người thợ mỏ!”.
“Thợ mỏ không lùi!”. Binh lính gầm lên đáp lại.
“Họ ngủ trong rừng khi nhiệt độ là âm 35 độ C. Họ không
sợ xe tăng”. “Ở trong mỏ còn đáng sợ hơn”, họ nói vậy.
Niềm tin của Sư trưởng là: “Điểm mấu chốt ở đây là chính
những người lính Hồng quân. Họ ngủ trên tuyết và tự làm cho cuộc sống trở nên
thoải mái. Không dễ để 1 người thỏa mãn với cuộc sống của mình. Ai cũng muốn được
sống, kể cả các vị anh hùng. Uy tín đến từ các cuộc nói chuyện hàng ngày. Một
người lính phải biết và hiểu rõ nhiệm vụ của mình. Cần phải nói chuyện với binh
lính, hát và nhảy với họ. Uy tín không phải dễ mà có, phải rất khó khăn mới đạt
được. Tôi đã học được điều đó hồi còn ở lực lượng biên phòng. Tôi biết các binh
sĩ tin tôi, tôi biết họ sẽ hoàn thành mọi mệnh lệnh của tôi dù phải trả giá bằng
mạng sống. Khi cần phải chiếm 1 thị trấn hoặc chặn 1 con đường, tôi biết rằng họ
sẽ làm”.
Giá buốt kinh khủng, mưa tuyết gào rú, không khí băng
giá đến mức mọi người phải cố kìm nén hơi thở. Lỗ mũi đặc nghẹt, răng gõ lập cập
vì lạnh. Bọn Đức bị chết cóng nằm lăn lóc trên đường tiến của quân ta, xác của
chúng hoàn toàn không bị đụng tới. Quân ta không giết chúng mà là cái lạnh. Trò
đùa quái ác của tự nhiên đã sắp đặt chân, tay, đầu gối những tên Đức chết cóng,
biến chúng thành những bức tượng kỳ quái. Có tên chết đứng với nắm đấm giơ lên,
tên khác với các ngón tay xòe rộng. 1 số tên trông như đang chạy, đầu ngả lên
vai. Chúng đi những đôi ủng rách rưới, khoác shinelishki (áo choàng) mỏng,
chúng lót giấy trong áo nhưng điều đó cũng không giúp chúng giữ ấm được. Đêm xuống,
cánh đồng phủ tuyết chuyển thành màu xanh lơ dưới ánh trăng, thân xác đen sì của
những tên Đức chết cóng vẫn ở ngưyên trên tuyết xanh như tượng những tên hề.
Nhìn lại lần nữa, những xác lính Đức vẫn đứng đó. Một
tên chỉ mặc mỗi áo lót và 1 cái áo len mỏng lót giấy.
Trong 1 ngôi làng vừa được giải phóng, xác của 5 lính
Đức và 1 lính Hồng quân nằm trên quảng trường giữa làng. Quảng trường trống
không, chẳng có ai để hỏi điều gì đã xảy ra, nhưng cũng chẳng cần hỏi ai để dựng
lại tấn kịch. 1 tên Đức bị giết bằng lưỡi lê, 1 tên khác bằng báng súng, tên thứ
3 cũng bằng lê, 2 tên còn lại bị bắn. Và người lính quân ta, người đã giết tất
cả chúng, bị bắn từ phía sau.
Grossman thích làm việc với chỉ vài đồng sự hoặc 1
mình, nay phải tham gia vào 1 nhóm lớn các phóng viên chiến tranh.
Trong izba có hàng tá người, thật là lộn xộn, sở chỉ
huy đang được thiết lập. Một cô gái xinh đẹp khoác chiếc áo choàng quá rộng so
với cô ta, đội 1 chiếc ushanka (mũ lông) to đến sụp cả xuống mắt, chân đi 1 đôi
valenki (ủng dạ) khổng lồ. Nhưng có thể nhận ra nét ngọt ngào, mảnh dẻ của cô
gái này dưới những thứ xấu xí toàn màu xám mà cô trùm lên người. Cô đứng đó với
ánh mắt thất thần, chẳng biết ngồi vào đâu. Cô gái cầm 1 cái túi xách màu đỏ,
thứ đã từng được thấy trong những ngày tốt đẹp, trông vô cùng buồn bã giữa
khung cảnh xám xịt của môi trường quân đội xung quanh. Một chú lính đùa nghịch
vỗ vào lưng cô 1 cái rất mạnh, cô bỗng òa khóc. “Tha lỗi cho tôi, Lidochka”,
chú lính nói. “Tôi là thợ mỏ nên hơi mạnh tay”.
Nhớ hồi còn hòa bình, chúng tôi lúc nào cũng phải đi
những đôi dép cao su xấu tệ bọc ngoài giầy khi vào các lâu đài. Giờ khoảng 50
phóng viên ảnh và phóng viên viết ngủ trong 1 izba, và nó suốt ngày lộn xộn -
“Valenki của ai đây? Xà cạp, găng, mũ của ai đây?*. Mọi thứ trông y hệt như với
những dân thường thời bình, điều này không bao giờ xảy ra với cánh lính tráng.
*[Hồng quân cũng như quân đội Nga Sa hoàng
không tin tưởng vào bít tất. Binh lính quấn xà cạp và đi ủng ra ngoài. Có 1 niềm
tin mãnh liệt rằng xà cạp có tác dụng ngăn giá rét tốt hơn nhiều]
Người chủ izba kể cho chúng tôi bọn Đức đã bỏ chạy khỏi
làng khi bị quân ta pháo kích như thế nào. Chúng mang theo tư trang mà không kịp
đóng gói; chúng đã quá sợ, 1 số tên ngã xuống tuyết và khóc rống lên.
“1 tên Đức đã ở đây, hắn mang theo 1 con mèo từ
Poltava (sở chỉ huy Tập đoàn quân 6 Đức). Con mèo rất thân thiết với hắn. Khi hắn
bước vào nhà, con mèo chạy tới bên hắn và cọ vào ủng của hắn. Hắn cho con mèo
ăn mỡ, chỉ toàn là mỡ. Và khi quân địch bỏ chạy, hắn mang cả con mèo theo, hắn
quá yêu con mèo đó”.
“Bác sĩ sư đoàn đóng ở đây. Ông ta làm việc suốt đêm,
như trâu như bò. Ông ta viết rất nhiều và rồi gào vào điện thoại như 1 con quạ:
“Kamyshevakha! Kamyshevakha!”. Rồi ông lại viết, chẳng cần ánh sáng. Ông ta
đúng là làm như trâu, và ông cũng hay quát to khi ra lệnh: “Tại sao người Nga
im lặng vậy”. Ông ta thích hỏi vậy khi tôi chẻ củi vào các buổi sáng, việc này
đặc biệt giúp tôi tỉnh ngủ”.
1 phụ nữ kể với chúng tôi: “Nó là 1 con bò cái trẻ khỏe,
bọn Đức bắt nó đi vì chúng muốn ăn cái gì đó giàu chất béo”.
Chỉ huy pháo binh ra lệnh: “Nhằm thẳng vào lũ đĩ đang
bỏ chạy kia, bắn!”.
Đại tá Zinoviev cho Grossman xem qua nhật ký chiến trường
của Sư đoàn trong mấy tháng trước đó.
Tháng 10.
Bí thư Đoàn Eretik buộc phải ném lựu đạn nhưng anh
đang gần chết vì nhiều vết thương và không đủ sức. Quả lựu đạn nổ ngay trên tay
anh, giết chết anh và mấy tên Đức.
1 chiếc máy bay hỏng được mấy con bò kéo đi. Binh lính
mang theo viên chỉ huy bị thương của họ là Muratov đi liền 12km.
Lính Hồng quân Petrov nói: “Tại mặt trận quân ta được
lãnh đạo tồi”.
1 nhóm trinh sát gồm 6 người do trung úy Drozd dẫn đầu
đã không quay về. Drozd sau đó được tìm thấy với 2 vết lưỡi lê đâm. Anh ta đã
chết và khẩu súng ngắn cũng đã biến mất nhưng giấy tờ và tiền vẫn còn trong người.
Các binh sĩ còn lại không tìm thấy*.
*[Rõ ràng các binh sĩ đó bị nghi ngờ giết sĩ
quan chỉ huy hoặc bỏ rơi anh ta]
Turilin và Likhatov xé thẻ Đảng*.
*[Thường thì lý do xé thẻ Đảng là vì sợ bị
hành quyết nếu bọn Đức bắt được]
Gulyaev tuyên bố: “Tại sao phải đào hào,
chúng thật vô dụng”.
Lính Hồng quân Tikhy* hiếp cô chủ nhà nơi
anh ta nghỉ đêm. Sợ bị trừng phạt, Tikhy lao ra khỏi nhà, lấy súng, nhảy lên 1
con ngựa và chạy đi đâu không rõ. Việc tìm kiếm Tikhy đến giờ vẫn không mang
lại kết quả gì.
*[Tikhy có nghĩa là “im lặng” trong tiếng Nga]
Binh lính phàn nàn rất nhiều vì hoàn toàn không
nhận được thư từ gì.
1 tờ giấy viết tay được ném từ trên máy bay
xuống thị trấn Yampol: “Trong buổi lễ sáng ở thành phố Jerusalem, người ta đã
nghe thấy lời của Đấng Cứu Thế. Những ai cầu nguyện, dù chỉ 1 lần, sẽ được tai
qua nạn khỏi”.
Thiếu úy Churelko quát các binh sĩ: “Lũ lợn!
Chúng mày không thích tao vì tao là dân Digan!”. Sau đó anh ta nhảy lên ngựa và
định phi lên tuyến đầu. Mọi người giữ anh ta lại, anh ta còn định tự bắn mình.
Lính Hồng quân Duvansky cưỡi bò và quật con
bò bằng báng súng. Khi anh ta đang quất bò thì báng súng gẫy, khẩu súng bật lại
làm Duvansky bị thương. Anh ta được đưa vào bệnh viện và sau đó ra tòa án binh.
Đảng viên Evseev làm mất sổ ghi chép. Mấy
người lính tìm được cuốn sổ đó, bên trong kẹp 1 bài kinh cầu nguyện chép tay.
Các trinh sát Kapitonov và Deiga (có lẽ là đi trinh sát ở sau lưng địch)
cải trang bằng quần áo thường dân và tham gia 1 buổi họp tại đó bọn Đức tổ chức
bầu Starosta (trưởng làng tại các vùng quân Đức chiếm đóng)*. Bọn Đức quát: “Những
ai không phải là người địa phương, đứng dậy!”. Họ đứng dậy và bị bắt.
*[“Trinh sát” trong Hồng quân gồm cả trinh sát
quân sự như nghĩa thông thường của từ này và điệp viên tình báo quân đội ở cấp
địa phương. Điều đó cho thấy các điệp viên này không được huấn luyện và thiếu
sáng tạo]
Thực đơn tại 1 bếp ăn dã chiến của bọn Đức.
Buổi sáng - bữa điểm tâm: cà phê, thường là không đường, và bánh mì phết mỡ
lợn. Bữa chính gồm 1 món súp củ cải đỏ hoặc súp thịt. Bữa tối: cà phê và bánh
mì. Bữa chính 2 món tức là thêm món thịt được cấp cho chúng mỗi tuần 1 lần.
Hưởng ứng bản báo cáo của Đồng chí Stalin,
y tá Rud đã hiến 250ml máu còn y tá Tarabrina là 350ml.
Trong bữa sáng ở dãy nhà dành cho sở chỉ
huy, 1 cục băng đã được tìm thấy trong súp.
Binh sĩ Nazarenko đã đưa 2 thương binh nặng
khỏi hỏa tuyến và sau đó giết chết 10 tên lính phát xít, 1 hạ sĩ quan và 1 sĩ
quan Đức. Khi có người bảo: “Cậu là 1 anh hùng”, anh ta trả lời: “Thế mà anh
hùng á? Tới Berlin - đó mới là anh hùng!”. Anh ta thêm: “Ai cũng cảm thấy ổn
khi đi cùng Chính uỷ Chernyshev trong trận chiến! Ông đã bò tới bên tôi ở nơi
trận chiến đang ác liệt, cười và khích lệ tôi”.
3 tên lính tiểu liên Đức bị vây trong 1
cánh đồng với vài đụn rơm. Lúc đó là ban đêm. “Đầu hàng đi!”. Quân Soviet quát.
Không có tiếng trả lời. Thì ra những kẻ đứng đó đã chết, người dựa vào những
đụn rơm và đông cứng. Nhìn bề ngoài thì chắc có tay nghịch ngợm tai ác nào đó
đã đặt chúng ở đấy từ ban ngày.
Grossman nhặt nhạnh những gì có thể từ
những bản báo cáo chính thức, tiếp tục viết về cả các chi tiết chỉ mang tính
minh họa và vụn vặt thu được trong các buổi phỏng vấn về cuộc sống quân đội.
Các vị sư trưởng thường nói: “Tôi đang ở...”,
“Tôi đang trên tuyến đầu”. Câu nói thường xuyên của họ là: “Đơn vị bạn tụt lại
đã kéo chúng tôi theo”. “Ôi, quân bạn, quân bạn”. “Chiến lợi phẩm đó là của tôi”.
“Đó là những người lính phòng không của tôi, họ đã bắn hạ máy bay Đức nhưng nó
rớt xuống khu vực của đơn vị bên cạnh, thế là đơn vị bên cạnh tuyên bố chính họ
mới bắn rơi cái máy bay đó”. “Bao giờ cũng có vấn đề với các đơn vị bạn”.
Nếu 1 sư đoàn chọc thủng được chiến tuyến
địch, sư trưởng của nó sẽ nói: “Đơn vị bên cạnh đã ngăn chúng tôi tiến xa hơn”.
Và viên sư trưởng của sư đoàn đã rớt lại sau thì nói: “Họ nói thì dễ lắm. Trong
khi tôi chịu gánh nặng chính của trận đánh thì đương nhiên họ sẽ dễ dàng đánh
thốc lên”.
1 buổi sáng lạnh lẽo, các izba tỏa khói như
tàu chiến vào cảng. Không có gió dù chỉ là thoảng qua. Hàng tá cột khói dựng
thẳng đứng trên tuyết trắng nối giữa mặt đất và bầu trời xanh thẳm.
Ngay sau khi trận đánh kết thúc, 1 đám phụ
nữ lao ra đồng, xông vào các chiến hào của bọn Đức để lấy lại chăn và gối của
họ.
Trong 1 ngôi làng người Ukraina, những ngôi
nhà kiểu khata vẫn được sơn trắng sau sự ra đi của bọn Đức giống như sau 1 bệnh
dịch truyền nhiễm nguy hiểm tàn phá ngôi làng.
Khi bọn Đức tiến vào 1 ngôi nhà, con mèo đã
bỏ ra sống bên ngoài trong suốt 3 tháng (những câu truyện kiểu này lan truyền ở
khắp các làng mạc). Có lẽ những con mèo cảm nhận được người lạ hoặc biết mùi
của bọn Đức.
Đọc giữa các hàng ghi chép của Grossman
có thể thấy những dân làng đã từng sống ở vùng Đức chiếm đóng tỏ ra lo lắng về
việc họ sẽ bị nhà cầm quyền Soviet đối xử như thế nào. Nhiều người trong số họ
đã hủy giấy tờ tùy thân và muốn được xác nhận lại rằng họ sẽ không bị trừng
phạt.
Buổi sáng, Kuzma Ogloblin trở lại ngôi làng
vừa được giải phóng. Ông từng là chủ tịch soviet của làng và đã đi theo du
kích. Mặt ông sa sầm và lộ vẻ sắt đá, ông mặc chiếc áo khoác da cừu và vũ trang
bằng 1 khẩu súng trường. Trong izba đầy người, Ogloblin nói: “Đừng sợ gì cả,
hãy quay lại với đời sống. Các bạn cần giao nộp bất kỳ đôi ủng Đức nào. Ví dụ
như bản thân tôi đã từng tấn công 1 chiếc ô tô Đức bằng lựu đạn, trong xe có
300 đôi ủng, và mặc dù tôi cần ủng, tôi vẫn không lấy dù chỉ 1 chiếc. Các bạn
muốn giấy tờ cho cái gì? Tất cả chúng ta đều biết nhau. Đừng sợ gì cả, cứ sống
thôi! Bọn Đức đã gây ra chuyện này, chúng sẽ không quay trở lại”.
Trở lại Voronezh, đêm tại bệnh viện dã
chiến, chúng tôi gặp 1 nữ bác sĩ. Trời tối đen, chỉ có ánh sáng mờ phát ra từ
than cháy trong bếp lò. Nữ bác sĩ tỏ ra nhiều lời, bà ta đọc thơ và giảng triết
lý. “Xin lỗi, ờ, tóc chị vàng phải không?”, Rozenfeld hỏi. “Không, tóc tôi hoàn
toàn trắng”, bà ta trả lời. Tất cả lặng im 1 cách bối rối.
1 người bị thương: “Đồng chí đại úy, chúng
tôi vừa có 1 cuộc tranh luận kịch liệt ở đây. Tôi nói cho đồng chí nghe được
không?”.
“Cái gì, cái gì?”, Đại úy gắt gỏng.
“Àh, chúng tôi tranh cãi xem nước Đức có
còn tồn tại sau cuộc chiến này không?”.
Những người bị thương yêu cầu được cung cấp
báo và vồ lấy chúng từ tay các hộ lý: họ cần chúng để cuốn thuốc hút.
1 đoàn tàu bệnh viện đỗ lại dọc đường, xung
quanh toàn là tàu quân sự. Mỗi khi có 1 Ulyana, Galya hay Lena muốn trèo sang 1
toa hàng có sưởi (teplushka), các chú lính lập tức xuất hiện để “giúp đỡ” các
cô y tá trèo vào. Những tiếng la hét và cười đùa vang lên khắp sân ga.
Chúng tôi chào tạm biệt bệnh viện dã chiến.
Tôi nhớ là trên đường ra mặt trận tôi đã tạt qua thăm viên sĩ quan chỉ huy tại
đây như thế nào. Tôi đang đói và được mọi người đặt trước mặt 1 phạng súp củ
cải đỏ nhà làm kiểu Ukraina tuyệt vời. Ngay khi tôi vừa đưa muỗng đầu tiên lên
miệng thì thì Bukovsky gào lớn: “Nhanh lên! Chạy thôi. Tàu sắp chạy”. Tôi lao
theo anh ta nhưng phạng súp đó vẫn ám ảnh tôi hàng tuần lễ.
Chúng tôi chuyển sang 1 đoàn tàu dân sự. Nó
đông nghẹt. 1 nhân viên soát vé nói với 1 người đàn ông mặc áo khoác đen: “Nhường
ghế cho những người lính đi, hôm nay họ ở đây nhưng ngày mai họ có thể mất mạng
rồi”. 1 anh lính người Uzbek đang hát ông ổng bằng tiếng Uzbek, cả toa đều nghe
thấy tiếng anh ta. Thứ tiếng của anh ta với chúng tôi nghe thật buồn cười, cách
phát âm cũng kỳ cục. Các chú lính Hồng quân nghe anh ta chăm chú, hơi tỏ ra
ngượng nghịu vì phải cố nhịn cười.
Grossman 1 lần nữa được nghe chuyện về
vùng địch tạm chiếm.
Một ông lão chờ đợi bọn Đức tới. Ông trải
khăn lên bàn, bày lên đó nhiều món ngon. Bọn Đức tới và cướp sạch ngôi nhà, ông
lão treo cổ tự vẫn.
Trung đoàn trưởng Kramer đã đánh nhau kịch
liệt với bọn Đức. Khi ông đổ bệnh trong 1 trận đánh, sốt 40 độ C, mọi người đổ
ít nước sôi vào trong 1 cái thùng, viên trung đoàn trưởng to béo trèo vào thùng
và khỏe lại.
Cuộc tổng tấn công vào tháng 1 được
Stalin cương quyết tiến hành trái với lời khuyên của Zhukov đã không thể tiếp
tục đúng như những người có đầu óc thực tế đã lo ngại. Quân đội Đức chưa đến
mức sụp đổ như những gì Stalin tuyên bố sau thành công của các cuộc phản công
gần Moscow tháng 12. Grossman tình cờ ghi lại vài báo cáo chiến sự thời WW1
mang một sắc thái khó chịu nghe rất quen thuộc (với tình hình hiện nay). Những
lời phê phán ẩn dưới cách trình bày về các cuộc tấn công năm xưa trong các cuốn
sổ ghi chép của ông cũng nguy hiểm như ghi chép lại những ý kiến trái chiều về
các “sự kiện bất thường”.
Theo lệnh của Tướng chỉ huy pháo binh
Ivanov gửi cho chỉ huy các Tập đoàn quân 7, 8, 9 và 11:
“26/1/1916. Hầu như toàn bộ các cuộc tấn
công của quân ta trong các trận đánh trước đều theo cùng 1 kiểu: Binh lính chọc
thủng 1 vị trí trên chiến tuyến địch, buộc các lực lượng còn lại trên tuyến đầu
của địch bỏ các chiến hào và công sự, đuổi theo chúng 1 cách không kiểm soát để
rồi bị tấn công ngược trở lại bởi đơn vị địch bên cạnh hoặc quân dự bị của
chúng, rút lui không chỉ về tuyến vừa mới chiếm được mà thường là rút về tận
tuyến trước khi tấn công vì tuyến mới chiếm được không có hỏa lực yểm hộ với
thiệt hại to lớn... Đó chỉ là 1 chiến thắng chiến thuật không đem lại kết quả
chiến lược nào giống như 1 thứ đồ chơi đẹp và đắt giá nhưng vô dụng”.
Những quan sát của vị tướng năm xưa và
những gì đang được thực hiện ở khu vực Zaliman mùa đông này giống nhau 1 cách
đáng ngạc nhiên.
Thêm 1 chút về cảnh nghèo túng của nhân
dân, sự bần hàn buồn nhưng đẹp đẽ. Những người bị thương được đãi 1 mẩu cá
trích và 50g vodka nếu bị nhiều vết thương 1 lúc và được nằm giường có ga. Các
phi công chiến đấu đang biểu diễn 1 kỳ tích - họ uống trong những chiếc cốc vốn
là những chai thủy tinh bị đập gãy cổ chai 1 cách thô bạo. Những chiếc ủng da
cừu (unty) của họ không có gót. 1 chính trị viên nói với 1 hạ sĩ quan quân nhu:
“Đám phi công này cần được cấp những đôi ủng mới, chân họ sẽ cóng mất”.
Viên hạ sĩ quan lắc đầu: “Chúng tôi chẳng
có đôi nào mà cấp”.
“Thế này là tốt rồi”, viên phi công nói. “Tôi
vẫn đủ ấm”.
Việc thiếu thốn trang thiết bị phần lớn
là do hậu quả của các cuộc rút chạy thảm hại năm 41, khi đó rất nhiều quân
trang quân dụng và kho tàng đã bị bỏ lại trên đường rút. Chỉ có 1 cách để kiếm
được đồ thay thế là đút lót vodka cho các sĩ quan quân nhu, 1 giải pháp mà lính
tráng rất ghét.
11
Với Lữ đoàn tăng của Khasin
Sau khi cuộc tổng tấn công tháng 1/1942 của quân
Soviet kết thúc 1 cách thảm hại, Grossman bắt đầu phản ánh tâm trạng thay đổi
như chong chóng của người Nga. Họ đã đi từ sự hoài nghi thất vọng trong mùa hè
khủng khiếp năm 41 đến sự sợ hãi vào mùa thu khi quân Đức tiến sát Moscow, tiếp
theo đó là sự lạc quan cuồng nhiệt trong cuộc tổng phản công quanh khu vực thủ
đô, và giờ đây lại là sự chán nản.
Một người Nga phải lao động cật lực, cuộc sống của anh
ta cũng rất khó khăn, nhưng trong thâm tâm anh ta không nhận thức rõ sự khó
khăn vất vả đó. Trong chiến tranh, tôi chỉ thấy có 2 kiểu phản ứng với những gì
xảy ra xung quanh: hoặc cực kỳ lạc quan, hoặc hoàn toàn bi quan. Hai kiểu tâm
trạng này thay đổi từ thái cực này sang thái cực kia 1 cách nhanh chóng, bất ngờ
và dễ dàng. Không có tâm trạng trung dung giữa 2 thái cực đó. Không ai sống với
suy nghĩ rằng cuộc chiến sẽ kéo dài mà chỉ cố gắng hết tháng này qua tháng khác
để có thể đi tới chiến thắng, thậm chí cả những người nói rằng họ rất không tin
vào chiến thắng. Chỉ có 2 loại cảm nghĩ: thứ nhất - địch bị đánh bại; thứ 2 - địch
không thể bị đánh bại.
Grossman bị ảnh hưởng hết sức sâu sắc bởi tinh thần hi
sinh chân chính của những người lính bình thường và những sĩ quan trên tuyến đầu,
ông tỏ ra hết sức xúc động khi viết về đề tài này.
Trong chiến tranh, 1 người đàn ông Nga như khoác 1 tấm
áo trắng tinh. Anh ta có thể sống trong tội lỗi nhưng anh ta đã chọn chết như 1
vị thánh. Tại mặt trận chỉ có những suy nghĩ và tâm hồn trong sạch như những thầy
tu khổ hạnh.
Ở hậu phương người ta sống trong những luật lệ khác và
chúng có lẽ không bao giờ phù hợp được về mặt đạo đức với những gì diễn ra ở mặt
trận. Luật của mặt trận là sự sống còn, là cuộc đấu tranh sinh tồn. Những người
Nga chúng ta không biết làm thế nào để sống như 1 vị thánh, chúng ta chỉ biết
làm thế nào để chết như 1 vị thánh. Mặt trận chứng kiến những cái chết Nga thần
thánh, ở hậu phương là 1 tội lỗi đối với 1 người Nga.
Tại mặt trận có những lúc phải chịu đựng, nhẫn nhục và
khuất phục trước những nghịch cảnh không thể tưởng tượng được. Đó là sự chịu đựng
của những người mạnh mẽ. Đó là sự chịu đựng của 1 quân đội vĩ đại. Sự vĩ đại của
tâm hồn Nga thật phi thường.
Mặt khác, Grossman tỏ ra cực kỳ khó chịu với những lời
tuyên truyền cố lấp liếm sự kém cỏi của lãnh đạo quân đội Soviet trong 6 tháng
vừa qua.
Huyền thoại của Kutuzov về việc vạch chiến lược cho
năm 1812. Những xác chết đẫm máu của chiến tranh bị che phủ dưới 1 lớp tuyết trắng
của những lời nói quy ước về tư tưởng, chiến lược và nghệ thuật chiến tranh. Có
những người đã thấy cuộc rút lui khi những người khác phải nằm xuống và bị che
phủ dưới bức màn giống như vậy. Đó là huyền thoại về Cuộc Chiến tranh Vệ quốc
Vĩ đại lần thứ nhất và giờ là lần thứ 2*.
*[Cuộc
chiến tranh chống đạo quân xâm lược Pháp của Napoleon năm 1812 cũng từng được người
Nga gọi là Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại. Kutuzov khi đó là chỉ huy quân Nga đã
rút lui, bỏ cả Moscow]
Khi còn ở Phương diện quân Nam với Tập đoàn quân 37,
Grossman đã thăm lữ đoàn tăng do Đại tá Khasin chỉ huy. Tại đây ông đã bỏ ra
khá nhiều thời gian với Đại úy Kozlov, 1 sĩ quan người Do Thái.
Tại lữ đoàn tăng của Khasin. Đại úy Kozlov, chỉ huy tiểu
đoàn bộ binh cơ giới, đang triết lý về cuộc sống và cái chết khi nói chuyện với
tôi ban đêm. Anh ta là 1 chàng trai trẻ với hàm râu mảnh, trước chiến tranh học
nhạc tại Nhạc viện Moscow. “Tôi thường tự nhủ mình có thể bị giết bất cứ lúc
nào, hôm nay hay ngày mai. Khi tôi nhận thức rõ điều đó, tôi trở nên dễ sống
hơn, mọi thứ trở nên đơn giản và thậm chí không hiểu sao còn rất rõ ràng rành mạch.
Tâm trạng tôi rất bình thản. Tôi xung trận mà chẳng sợ gì cả vì tôi chẳng có
mong chờ gì. Tôi hoàn toàn tin tưởng rằng 1 tay chỉ huy 1 tiểu đoàn bộ binh cơ
giới sẽ phải chết, rằng hắn không thể sống sót. Nếu tôi không có niềm tin vào
cái chết chắc chắn đó, tôi sẽ cảm thấy tồi tệ và có lẽ không thể cảm thấy thoải
mái, bình tĩnh và can đảm trong chiến đấu”.
Kozlov kể cho tôi nghe hồi năm 1941, ban đêm anh ta
thường hát những trích đoạn aria từ các vở opera trong 1 khu rừng gần Bryansk
ngay trước chiến hào quân Đức. Thường thì bọn Đức cũng nghe anh ta hát 1 lúc rồi
bắt đầu nã súng máy vào nơi phát ra tiếng hát. Có lẽ chúng không ưa giọng hát của
anh.
Kozlov nói với tôi, theo quan điểm của anh ta, người
Do Thái không chiến đấu tốt lắm. Anh bảo họ chiến đấu chỉ như những người bình
thường trong khi với 1 cuộc chiến như thế này người Do Thái lẽ ra phải chiến đấu
như 1 kẻ cuồng tín.
Mũi nhọn của sự thù ghét chủng tộc trực tiếp nhằm vào
người Do Thái chính thống, những người thực tế cũng rất phân biệt chủng tộc và
tin tưởng mù quáng vào sự thuần khiết về chủng tộc. Giờ đang có 2 thái cực: 1
bên là những kẻ phân biệt chủng tộc đang triệt hạ thế giới, bên kia là những
người Do Thái thuần chủng, những người bị tập trung triệt hạ nhất trên thế giới.
1 người thường sợ những gì họ không quen, họ có thể
quen với mọi thứ trừ cái chết, có lẽ vì họ chỉ chết có 1 lần.
Chiến tranh là 1 nghệ thuật, trong đó các yếu tố như
toan tính, kiến thức và kinh nghiệm kết hợp với cảm hứng, may rủi và cả những
điều hoàn toàn vô lí (Pesochin nói trong trận đánh ở Zaliman). Các yếu tố này
tương hợp với nhau, nhưng đôi khi chúng lại trở nên xung đột nhau. Nó giống như
1 khúc nhạc biến tấu không ai nghĩ ra nổi nếu không có kỹ thuật đỉnh cao.
Trăng mọc trên bãi chiến trường phủ tuyết.
Grossman tiếp tục thu thập những chủ đề đặc sắc cùng
những chi tiết minh họa khác.
Lính lái xe tăng hạng nặng Mikhail Pavlovich
Krivorotov, 22 tuổi, thân hình to lớn, mắt xanh, từng lái máy liên hợp gặt đập
tại 1 nông trường quốc doanh* ở Bashkiria từ khi mới 20 tuổi, nhập ngũ tháng
12/1940.
*[Mỗi
nông trường quốc doanh là 1 sovetskoe khozyaistvo (nông trường Soviet), lao động
sống tập trung trong những khu nhà lớn thường là 2 tầng, trong khi đó nông
trang tập thể được thành lập trên cơ sở 1 làng hoặc 1 khu dân cư nhỏ]
“Trước đây tôi chưa từng nhìn thấy 1 chiếc tăng nào,
và không ngờ là tôi thích chúng ngay từ cái nhìn đầu tiên. Những cỗ xe tăng thật
là đẹp. Tôi là 1 lái xe kiêm thợ máy. Máy xe cùng với hỏa lực của nó biến nó
thành 1 cỗ máy vàng, cực mạnh.
Địch có pháo và cối, quân ta vượt qua 1 con mương và
xông vào làng. Tôi hét: “Pháo ở cánh trái!”. Chúng tôi tiêu diệt khẩu pháo đó
và vài khẩu súng máy. Sau đó 1 phát đại bác bắn trúng sườn trái, chiếc xe tăng
bốc cháy. Kíp lái nhảy khỏi xe còn tôi vẫn ở lại trong chiếc tăng đang cháy và
hạ được pháo đội địch. Tôi chỉ có cảm giác hơi nóng ở lưng dù mọi thứ chìm
trong lửa. Cỗ xe tăng thực sự từng là 1 cỗ máy nhanh nhất, tôi thấy tiếc vì phải
bỏ nó, rất tiếc. Tôi trèo lên tháp pháo và nhảy khỏi cửa nóc như 1 mũi tên.
Nhiên liệu và lớp sơn vẫn còn đang cháy”.Marusya, điện đài viên. Ai cũng tán tỉnh cô, ai cũng
biết cô. Cô gọi mọi người bằng đầy đủ họ tên và mọi người đều gọi cô là:
“Marusya, Marusya!”. Nhưng chưa 1 ai thấy mặt cô.
Abashidze, 1 đồng chí vui tính, đoàn viên Komsomol, tiểu
đoàn trưởng và là 1 kẻ thô tục. Anh ta nói chuyện 1 cách tục tĩu, xấc láo, vô lễ
với bà chủ nhà. Khi anh ta hỏi xin lửa từ 1 người đang hút thuốc, anh ta bảo:
“Tôi có thể sờ đầu cái dụng cụ sung sướng của anh không?”.
Giờ mọi người không nói ai đó “bị giết” nữa mà nói
“anh ấy đã đóng ván”. “Bạn của tôi đã đóng ván, anh ấy thật là 1 thằng cha tuyệt
vời”*.
*[Cách
nói trại đi của việc đặt ai đó vào quan tài và đóng nẹp]
Một
ngày mới quang đãng và tươi đẹp. Các trận không chiến đang diễn ra trên những
mái nhà trong làng. Quang cảnh khủng khiếp - những con chim sơn chữ thập màu
đen và sao đỏ. Mọi nỗi sợ hãi, mọi suy nghĩ, mọi điều khủng khiếp xuất hiện
trong tâm trí và trái tim con người vào những khoảng khắc cuối đời của chiếcmáy
bay, khi đôi cánh của nó dường như đang thể hiện ra tất cả những cử động, những
suy nghĩ trong đôi mắt, cánh tay và vầng trán người phi công ấy. Chúng bay rất
thấp, ngay sát trên mái nhà. Một trong số đó đâm đầu xuống đất. Năm phút sau -
lại một chiếc khác. Một người chết ngay trước mắt mọi người, một thanh niên
khỏe mạnh, anh ta đã rất muốn sống sót. Anh ấy sẽ bay, sẽ rùng mình, sẽ sợ hãi
ra sao nếu chiếc máy bay ấy không bị trúng đạn. Đó là những phát đạn bắn trượt
vào một trái tim người đang bay phía trên cánh đồng tuyết trắng. Bản tính sói
độc và cáo già của những chiếc Messer chóp mũi màu vàng.
Cánh phi công nói: “Đời chúng tôi như tấm
áo của bọn trẻ con - ngắn và dính đầy cứt”*.
*[Câu nói này trở nên phổ biến cả trong binh
lính Đức và Hồng quân]
Nghịch lí kỳ cục - đám Messer hầu như không
được hỗ trợ khi đối đầu với những chiếc máy bay kiểu chim mòng biển quân ta vì
những chiếc mòng biển quá chậm chạp.
Niềm vui của 1 nhà quay phim khi quay được
tấn bi kịch trên không: “Tôi chỉ cần tút sửa lại những dấu chữ thập, thế là
xong!”.
Xác viên phi công nằm suốt đêm trên 1 quả
đồi đẹp đẽ phủ đầy tuyết, trời rất lạnh và sao rất sáng. Bình minh lên khiến
quả đồi chuyển thành màu hồng, và người phi công vẫn nằm đó trên ngọn đồi hồng.
Không có gì ngạc nhiên, Grossman đã bị
mê hoặc bởi câu chuyện lạ thường về 1 người chính trị viên đã vươn cổ ra ngăn
cản 1 vụ án xử oan khủng khiếp.
Chính trị viên cao cấp Mordukhovich, 1
người Do Thái nhỏ thó đến từ Mozyr, là chính trị viên 1 tiểu đoàn pháo. 1 lính
của tiểu đoàn ông vốn là 1 công nhân người Tula cao lớn, tên anh ta là
Ignatiev. Anh này cực kỳ dũng cảm, 1 trong những người lính tốt nhất của tiểu
đoàn. Chính trị viên có việc phải đi 1 thời gian và trong lúc ông vắng mặt,
Ignatiev bị lạc lại phía sau và gia nhập 1 đơn vị khác đang chiến đấu trong 1
trận phòng thủ. Khi trận đánh tạm lắng, Ignatiev được gửi trở lại đơn vị cũ và
khi đang trên đường về đơn vị anh bị đội tuần tra của NKVD chặn lại. Anh ta bị
bắt như 1 kẻ đào ngũ, bị đưa ra tòa án quân sự và bị tuyên án tử hình. Lúc này,
chính trị viên Mordukhovich đã quay về đơn vị và biết được số phận dành cho
anh. Mordukhovich lao tới gặp chính ủy sư đoàn và nói với ông Ignatiev là 1
người lính tuyệt vời như thế nào. Chính ủy sư đoàn lấy tay ôm đầu: “Giờ tôi không
thể làm gì được nữa rồi!”.
Ignatiev bị đưa đi xử bắn, nhóm hành quyết
gồm 1 đặc vụ, 1 sĩ quan từ sở chỉ huy, 2 lính và chính trị viên phó. Họ dẫn anh
ta tới bên 1 cái cây nhỏ, viên sĩ quan rút súng ngắn chĩa vào sau gáy Ignatiev.
Súng hóc đạn. Ignatiev quay lại nhìn đằng sau, thét lớn rồi chạy vào rừng. Nhóm
hành quyết bắn theo anh ta nhưng trượt, anh ta biến mất. Bọn Đức chỉ ở cách đó
có 3km, Ignatiev đã lang thang 3 ngày trong rừng rồi nhân lúc không ai trông
thấy quay trở lại tiểu đoàn và tới hầm của Mordukhovich.
Mordukhovich nói: “Tôi sẽ che giấu cậu,
đừng lo!”. Mordukhovich đưa cho Ignatiev 1 ít thức ăn nhưng anh ta chỉ run lên
và khóc như mưa chứ chẳng thể ăn được gì. Mordukhovich tới nói chuyện với chính
ủy sư đoàn, lúc đó thì Mordukhovich đã che giấu Ignatiev suốt 5 ngày rồi.
“Người này đã quay lại với vẻ cam chịu, anh ta nói với tôi: “Tôi thà chết trong
tay người mình còn hơn chết vì tay bọn Đức”. Chính ủy sư đoàn lên gặp chính ủy
quân đoàn, rồi chính ủy quân đoàn lại lên gặp chỉ huy tập đoàn quân. Bản án
được bãi bỏ. Giờ Ignatiev đi theo Mordukhovich suốt ngày đêm.
“Tại sao anh cứ đi theo tôi?”
“Tôi sợ bọn Đức có thể giết ông mất, đồng
chí chính trị viên ạ. Tôi phải bảo vệ ông”.
Tuy vậy, 1 số câu chuyện có lẽ hơi giống
với 1 chuyện tưởng tượng ở thành phố hơn là chuyện thật ngoài mặt trận.
1 người lính bị cáo buộc đào ngũ đã thoát
khỏi phiên tòa khi bọn Đức tấn công. Những người áp giải anh ta trốn vào bụi,
kẻ đào ngũ chộp lấy 1 khẩu súng trường của nhóm áp giải và hạ 2 tên Đức, bắt
sống tên thứ 3 và lôi hắn đi cùng đến tòa án. “Anh là ai?”. Mọi người hỏi. “Tôi
đến để được xét xử”.
Những người bị kết án shtrafroty, tức là đưa vào các đại đội trừng giới,
thường được gọi là smertnik (người chết), vì chẳng ai lãnh án đó mà hi vọng
sống sót được. Họ được Nhà nước Soviet cho cơ hội rửa sạch tỗi lỗi bằng máu của
chính mình, nhiều trường hợp đã chứng tỏ sự can đảm phi thường. 1 smertnik tên
là Vladimir Karpov thậm chí còn được nhận phần thưởng cao quý nhất: danh hiệu
Anh hùng Liên Xô. Đương nhiên anh này không phải là chính trị phạm vì những người phạm tội này,
theo lệnh của Stalin, không bao giờ được nhận bất kỳ loại danh hiệu gì.
Đại đội của các smertnik gồm những người
thay cho việc phải chấp hành bản án thì được đưa lên tuyến đầu. Chỉ huy là 1
trung úy đã bị kết án tử hình vì tự làm mình bị thương.
Những thành viên trong cái đại đội ghê sợ
này người đầy lông lá, mặt mũi tê cứng và đầy những vết phát cước màu hồng vì
giá lạnh âm 40 độ C. Họ mặc những áo choàng rách rưới. Họ ho như cuốc kêu,
tiếng ho như thể phát ra từ đâu đó trong bụng, khàn đục, nghe như tiếng chó
sủa. Ai nấy đều râu ria xồm xoàm. Sử dụng hỏa lực pháo, súng máy và cả xích xe,
những người lính tăng đã chọc thủng được tuyến công sự địch và đưa được 1 phân
đội xe tăng có bộ binh tùng thiết tới Volobuevka. Phân đội này do Thượng sĩ
Tomilin chỉ huy. Trận đánh kết thúc sau 8 tiếng đồng hồ đánh nhau. Phân đội xe
tăng - bộ binh của Tomilin đã chiếm được 12 căn nhà, bản thân Tomilin hạ được
10 tên phát xít. Nhóm của Trung sĩ Galkin hạ được 30 tên, tấn công 6 ngôi nhà
và công sự bê tông, tiêu diệt sở chỉ huy tiểu đoàn địch bằng lựu đạn. Đến sáng
họ hội quân với các đơn vị quân ta đang tiến tới ở ngoại vi phía nam
Volobuevka. Khi dẫn các binh sĩ xung trận, Tomilin đã hét: “Cố lên nào, quân ăn
cướp, tiến lên!”.
Trích từ nhật ký chiến trường của Trung
đoàn Lựu pháo Cận vệ 7:
Ngày 12/1, hạ sĩ Ivanov và trinh sát
Ofitserov nhìn thấy 7 người trên 1 sườn đồi. Thì ra đó là bọn phát xít, chúng
đang định dìm 1 người xuống 1 lỗ băng. Bọn phát xít hoảng sợ vì những loạt đạn của
các chiến sĩ ta và bỏ chạy, để lại 1 y sĩ gần đông cứng. Anh ta đã tê liệt vì
sợ.
Ngày 13/1, thiếu úy Belousov được lệnh đi
bắt liên lạc với cánh bộ binh. Anh phải vượt qua 1 con mương rất lớn cùng 1 khu
rừng. Trong khi đang trượt tuyết xuyên rừng, anh phát hiện đường dây nối giữa 2
trạm truyền tin của bọn Đức. Trạm gần nhất không có ai canh. Belousov bỏ đồ
trượt tuyết và cắt đường dây, sau đó đi vào rừng, tìm thấy 1 cuộn dây rỗng và
phá hỏng 70m dây điện thoại tại đó.
Grossman tiếp tục ghi chép về các lối ăn
nói và thuật ngữ kỳ lạ. Vodka được gọi là “Sản phẩm 61” vì đó là vị trí của nó
trong danh sách những thứ được cấp.
Bữa ăn tại 1 Trung đoàn Lựu pháo Cận vệ 7. Từ lóng “nạp” được sử dụng liên tục.
“Tôi sẽ chỉ nạp khi có bàn ghế tử tế”. “Tôi sẽ nạp ít thịt cừu”. “Tôi sẽ nạp ít
bắp cải muối chua”.
1 cuộc không kích của 28 máy bay địch. Không
có 1 pháo thủ nào rút lui. “Họ đã tự hàn chết mình vào pháo”.
1 chính trị viên thuộc tiểu đoàn Cận vệ 5
đã phát điên sau khi chịu 1 trận không kích và 1 trận tấn công bằng xe tăng của
địch.
Những biểu tượng to tướng được vẽ trong các
chiến đồ dành cho các chỉ huy tiểu đoàn.
1 chính trị viên đã cắt bỏ các vạch trên
cầu vai*.
*[“Vạch” hay “tà vẹt”, như cách gọi của dân
nhà binh, là biểu thị cho cấp bậc. Các hạ sĩ quan dùng phù hiệu có hình khối
vuông (cube)]
Ban đêm, Đại tá Tarasov chỉ huy Trung đoàn
pháo binh Cận vệ nằm trên sàn izba đọc cuốn Faust. Ông đeo 1 cái kính kẹp mũi
(kính không gọng) luôn được ông lau sạch bằng 1 miếng da.
Đại tá Tarasov kể chuyện ông đã “phủi áo
bọn Đức” như thế nào, câu chuyện đã cho thấy tinh thần của 1 người lính pháo
binh. Bộ binh thông báo bọn Đức ăn trưa khi có 1 hiệu kèn.
Bếp dã chiến của chúng đã bị phát hiện vì
có khói bốc ra. Tarasov ra lệnh: “Tập hợp số liệu, nạp đạn và thông báo khi đã
sẵn sàng!”. Bọn Đức bị nã pháo bằng hỏa lực tập trung, đám pháo binh nghe thấy
nhiều tiếng kêu thét.
1 tù binh Đức trên 1 tàu hỏa bệnh viện. Hắn
cần được tiếp máu thì mới sống được. Hắn gào thét: “Nein, Nein!”*. (Hắn không
muốn được tiếp bằng máu Slavơ). Vậy là hắn chết 3h sau đó.
*[“Nein! Nein!” - “Không! Không!” - tiếng Đức]
Binh lính bắt đầu bỏ chạy khỏi chiến
trường, 1 chính trị viên tiểu đoàn 2 tay cầm 2 khẩu súng ngắn gầm lên: “Các anh
định chạy đi đâu, lũ trụy lạc, đi đâu? Tiến lên, vì Đất Mẹ, vì Chúa Jesus, Đ.mẹ*!
Vì Stalin, lũ trụy lạc!”. Binh lính quay trở về và chiếm lại vị trí phòng thủ
cũ.
*[Bản gốc là “Motherfucker”]
1 người lính tóc quăn, không rõ họ, đã đánh
xe ngựa vòng qua hậu phương quân Đức trong 12 ngày. Anh ta giấu 1 khẩu cối và
đạn dưới đống rơm chất trên xe, lôi ra bắn rồi lại giấu trở lại dưới đống rơm.
Khi gặp bọn Đức anh ta hát vang, chúng chưa bao giờ nghi ngờ anh. Khi đã đi xa
khỏi bọn chúng anh lại lôi khẩu cối ra bắn vào chúng.
Phóng viên ảnh Ryumkin đang nguyền rủa đám
pháo binh của trung đoàn pháo cận vệ vì đã khai hỏa vào sáng sớm khiến chụp họ không
ăn ảnh.
Trung úy Matyushko chỉ huy 1 chi đội xung
kích, nhiệm vụ của họ là tiêu diệt bọn Đức đang chiếm giữ mấy ngôi nhà. Chi đội
đánh vào làng, xông vào mấy ngôi nhà đó. Matyushko nói: “Người của tôi toàn là
lũ trộm cướp. Trận chiến trong những ngôi làng này giống 1 trận đánh cướp”. Đôi
khi họ bóp chết bọn Đức bằng tay không.
Tiếng 1 trung sĩ vẳng ra từ trong khói lửa:
“Đừng bắn vào đây, tôi đã chiếm nhà này rồi”.
1 thành viên đội xung kích vào nhà và nhìn
lướt nhanh qua những người ngồi trong đó bằng ánh mắt tối sầm. Mọi người đều
hiểu nó đã trở thành 1 thói quen, thói quen của 1 kẻ chuyên xông vào nhà để
giết chóc. Trung úy Matyushko cũng vậy, anh vừa giải thích về cách nhìn lướt đó
vừa cười: “1 mình hắn có thể giải quyết tất cả chúng ta đấy!”.
Chúng tôi tiến vào Malinovka cùng tiểu đoàn
bộ binh cơ giới do đại úy Kozlov chỉ huy. Các ngôi nhà đang bốc cháy. Bọn Đức
đang gào thét, chúng sắp chết. 1 trong số chúng, cả người hắn cháy sém đen
thui, đang bốc khói. Những chiến sĩ ta đã không ăn uống gì 2 ngày nay, họ chỉ
nhai bột kê khô cô đặc khi hành quân. Lính tráng kiểm tra 1 hầm kho đã bị phá hủy
và ngay lập tức thu được 1 ít khoai tây, họ lèn chúng vào ấm cùng với tuyết rồi
đặt trên than hồng tìm thấy trong 1 izba đang cháy dở.
Thế quái nào mà lại có nguyên 1 con ngựa
chết trong hầm kho? Thật không thể hiểu nổi! Trong cái hầm này còn có cả 1
thùng bắp cải muối chua đã vỡ. Lính tráng đang ăn rào rào với vẻ tham lam. “Tốt
cả, không có thuốc độc”. Cũng trong hầm người ta đang băng bó cho 1 phóng viên
ảnh bị thương, anh ta tựa vào xác con ngựa.
“Sau đó máy bay ta oanh kích khu vực và thả
bom xuống đầu chúng tôi”, (1 thành viên của tiểu đoàn bộ binh cơ giới kể). Tiểu
đoàn trưởng Kozlov còn đang phải chống lại 1 cuộc tấn công của xe tăng địch.
Anh ta trông có vẻ rất sung sức và say máu. Những cỗ xe tăng bị đánh lui sau 1
cuộc tấn công chớp nhoáng.
Quân đoàn Cô dắc Cận vệ 3 đang hành quân ra
mặt trận. Binh lính chất các trang thiết bị của sở chỉ huy lên 1 chiếc xe tải,
cuộn lại những dây thông tin. Buổi tối giá băng đẹp không thể tả được. Không
khí thinh lặng và trong trẻo, củi cháy lách tách trong bếp dã chiến. Những
chàng kỵ binh đang dắt ngựa đi. Giữa phố, 1 cô gái đang vừa hôn 1 anh lính Cô
dắc vừa khóc, họ mới lập gia đình với nhau 3 ngày trước. Đối với người con gái
làng Pogorelovo gần Kursk này, anh ta đã trở thành những gì thân thiết nhất với
cô.
1 pháo thủ tuyệt vời của tiểu đoàn, người
đã chiến đấu từ ngày đầu của cuộc chiến, đã hy sinh vì trúng mảnh đạn khi đang
cười. Và anh đang nằm chết đằng kia, vẫn cười. Anh nằm đó suốt cả ngày, và rồi
1 ngày nữa. Không ai muốn chôn anh, mọi người đều tỏ ra lười biếng vì mặt đất
đóng băng cứng như đá. Anh đã có những người đồng chí tồi, họ không muốn chôn
những người chết! Họ bỏ những người chết lại mà đi, không có đội chôn cất nào,
chẳng ai quan tâm vụ đó. Tôi báo cáo với sở chỉ huy tiền phương về việc này
bằng 1 bức điện mã hóa. Bọn dân Châu Á đáng ghét này mới nhẫn tâm làm sao! Làm
sao người ta có thể để những lính dự bị tiến ra chiến trường hay các lực lượng
tăng cường đi qua những vùng chiến địa cũ giữa những xác chết không được chôn
cất. Ai có thể đọc được điều gì đang diễn ra trong tâm hồn những người đang
tiến lên để thay chỗ những kẻ đang nằm khắp mặt tuyết kia?
Cuộc hành quyết 1 kẻ phản bội. Khi bản án
còn đang được tuyên, lính công binh đã đào cho hắn 1 cái huyệt bằng cuốc chim.
Đột nhiên hắn nói: “Bước sang bên đi, các đồng chí. 1 viên đạn lạc có thể trúng
vào các anh”.
“Tháo ủng ra”, họ nói với hắn. Hắn tháo
chiếc ủng thứ nhất rất khéo léo bằng ngón cái chân kia, chiếc ủng còn lại hơi
mất thời gian 1 chút, hắn phải nhảy lò cò mất 1 lúc.
Từ tính dị thường của khu vực Kursk là 1
vấn đề với các chi đội pháo binh và hỏa tiễn - nó làm đảo lộn la bàn và các
thiết bị khác. Từ tính dị thường này đã chơi cho các pháo đội hỏa tiễn Katyusha
1 vố, khiến những dàn Katyusha chơi cho cánh bộ binh 1 trận. Chúng đã bắn trúng
vào tuyến đầu quân ta.
Buổi sáng, người ta đặt 1 cái bàn trải khăn
đỏ trên đường làng phủ tuyết. Lính tăng trong lữ đoàn của Khasin tập hợp thành
hàng và buổi lễ trao huân chương bắt đầu. Tất cả những người được tặng thưởng
huân chương đều đã chiến đấu liên tục trong thời gian dài. Họ đứng thành hàng
trông như 1 hàng công nhân xưởng nấu luyện gì đó: mặc áo khoác rách rưới, quần
áo bóng dầu mỡ, họ có những đôi bàn tay lao động đen nhẻm và những khuôn mặt
thợ thuyền điển hình. Mọi người xếp hàng bước tới bàn nhận huân chương, tuyết
rơi dày khiến bước chân họ nặng nề và lạch bạch. “Chúc mừng anh được nhận phần
thưởng Nhà nước cao quý này!”.
“Phục vụ Liên Xô!”, họ trả lời bằng giọng
khàn khàn của người Nga, người Ukraina, người Do Thái, người Tatar, người
Gruzia. Đó chính là tinh thần Quốc tế Lao động thời chiến.
Đêm xuống chúng tôi nói chuyện trong tình
trạng không được tỉnh táo lắm với Kozlov, chỉ huy tiểu đoàn bộ binh cơ giới.
Anh kể tôi nghe về người anh hùng đã nhận 2 huân chương lúc sáng mà tôi đang để
mắt đến, chỉ huy trinh sát lữ đoàn, theo anh thì người này chẳng phải là anh
hùng gì. Điều đó làm tôi bị shock vì tôi không thể tưởng tượng còn ai anh hùng
hơn người tôi vừa nhìn thấy lúc sáng trên đường làng.
Kozlov đưa cho tôi 1 cái huân chương chữ
thập sắt mà anh ta đã lấy từ xác 1 tên sĩ quan Đức. Tên sĩ quan nằm đó, Kozlov
kể, hắn bị thương nặng, đang lờ đờ và có cả trăm thùng đựng băng đạn tiểu liên
xung quanh. Những người lính bắn hắn và tìm thấy 1 tấm bưu thiếp khiêu dâm trong
túi hắn.
Sáng ra, Kozlov và Bukovsky quyết định thi
bắn súng ngắn. Họ bước ra sau 1 gian nhà kho và đính tấm bia bắn lên 1 cây lê
già. Họ nhìn tôi 1 cách thương hại và ban ơn - 1 kẻ thường dân chẳng có tí kinh
nghiệm nào. Có lẽ hoàn toàn do ngẫu nhiên, tất cả các phát đạn của tôi đều bắn
trúng hồng tâm. Những tay cựu binh - Kozlov và Bukovsky - không bắn trúng bia
dù chỉ 1 phát. Điều này tôi nghĩ không phải do ngẫu nhiên.
Trong izba, Khasin đang đứng, vây quanh là
ban tham mưu, đôi mắt ốc nhồi của ông tối sầm, mũi ông khoằm và 2 má xanh rì
râu mới cạo. Trông ông như 1 người Ba Tư. Tay ông di trên bản đồ trông như móng
vuốt của 1 loài ác điểu khổng lồ. Ông giải thích cho tôi về cuộc đột kích vừa
qua của lữ đoàn tăng. Ông rất thích từ “vòng cua” và dùng từ này suốt: “Những
chiếc tăng đang di chuyển theo đường vòng cua”.
Tại sở chỉ huy tiền phương tôi được nghe kể
lại rằng gia đình của Khasin đã bị giết ở Kerch, tại đó bọn Đức đã tiến hành 1
vụ thảm sát thường dân. Hoàn toàn tình cờ, Khasin xem những tấm ảnh chụp các
xác chết trong hố chôn tập thể và nhận ra vợ con ông. Tôi đang nghĩ xem ông có
cảm giác gì khi dẫn những chiếc xe tăng vào trận đánh? Thật khó có thể đánh giá
chính xác con người này vì còn có 1 nữ bác sĩ trẻ ở cùng ông trong izba của ban
tham mưu, cô ta đang ra lệnh cho ông với vẻ thô tục và xấc xược. Mọi người đều
nói cô ta không chỉ điều khiển viên đại tá mà còn điều khiển cả lữ đoàn tăng
của ông. Cô ta xía vào mọi mệnh lệnh và thậm chí còn sửa cả bản danh sách những
người xứng đáng trao huân chương gửi lên cấp trên.
Các cuộc phỏng vấn binh sĩ tiểu đoàn bộ
binh cơ giới:
Mikhail Vasilievich Steklenkov, thân hình
gầy gò, tóc vàng, sinh năm 1913, bỏ học năm lớp 5 để đi làm.
“Chúng tôi chẳng bao giờ cảm thấy buồn
chán, chúng tôi ngồi cùng nhau ca hát, chẳng có lúc nào để buồn cả! Ai nấy quên
đi bản thân khi nghĩ về quê hương. Bọn Đức đầu độc cha tôi bằng khí độc trong
cuộc Chiến tranh Đế quốc (WW1). Tôi được gửi tới trường Quân - Chính ở Ivanovo
hôm 23/7. Chuông báo động vang lên, các học viên xếp hàng và chúng tôi được
nhận những gì chúng tôi nghĩ là mình xứng đáng, và chúng tôi lên đường.
Họ hỏi tôi: “Sao mày lúc nào cũng có vẻ
sung sướng thế?”. Tại sao mà tôi phải buồn nhỉ? Bà chủ nhà hỏi: “Sao mày cứ hát
mãi thế? Chúng ta đang trong thời chiến cơ mà!”. Tôi trả lời: “Nhưng giờ chính
là lúc tốt nhất để hát”.
Tôi có 1 kíp pháo thủ thật là dũng cảm, họ
sẽ không bao giờ rời khẩu pháo. Tôi nằm xuống và quan sát xem có máy bay ném
bom không. Tôi sẵn sàng trườn đi nếu cần... Chỉ khi nào lấy thuốc lá chúng tôi mới
phải chạy... Tôi phụ trách 1 khẩu 45mm chống tăng. Bắn thẳng bằng khẩu này thật
thú vị...
Có cái gì còn sống được sau cuộc chiến này?
Nếu tôi còn sống, tôi sẽ về nhà, còn nếu không thì cũng có gì là quá đặc biệt
đâu? Tôi đã không có thời gian lấy vợ trước khi cuộc chiến bắt đầu. Khi nào
chúng tôi không còn phải chiến đấu nữa tôi sẽ bắt đầu cảm thấy nhàm chán”. Anh
chàng này có những vết phát cước vì lạnh ở cả tay lẫn chân nhưng không hề nói
gì về điều đó.
“Tôi chẳng sợ gì những viên đạn - quỷ bắt
nó đi - thậm chí nếu nó có giết chết tôi. Chúng tôi bắn, và tôi cảm thấy ổn”.
Ivan Semyonovich Kanaev, sinh năm 1905 ở ở
Ryazan, đã lập gia đình và có 4 con.
“Tôi đi nghĩa vụ ngày 3/7. Tôi đang chẻ củi
thì bưu tá mang lệnh động viên tới. Chúng tôi ca hát, uống rượu và tránh làm
những điều gở. Tôi được huấn luyện ở Dashki để trở thành 1 lái xe. Mẹ và vợ tôi
đã đến thăm tôi ở đó. Các vị chỉ huy rất tốt và chấp thuận cho tôi đi nghỉ
phép. Tôi đã có 6 ngày phép.
Khi chúng tôi được đưa đến sát mặt trận thì
thấy sợ. Tôi cảm thấy ổn hơn ngay khi trận đánh bắt đầu. Tôi xung trận như
người ta vào việc, trong 1 nhà máy chẳng hạn. Mới đầu thì kinh thật, nhưng giờ
tôi chẳng còn sợ những viên đạn nữa. Phải là 1 quả đạn cối hay bom mới quật ngã
được tôi. Tôi cũng đã tham gia 1 cuộc tấn công giáp lá cà bằng lưỡi lê nhưng
bọn Đức không chờ đợi điều đó. Chúng tôi hét “Ura!” và chúng bật dậy bỏ chạy.
Thật tốt nếu có được 1 đồng đội vui nhộn,
anh ta khơi mào những cuộc trò chuyện hoặc hát hỏng theo cách rất buồn cười.
Khẩu súng trường này là vũ khí cá nhân của
tôi, nó không bao giờ làm tôi thất vọng. Tôi đã đánh rơi nó xuống bùn ở
Bogdukhanovka. Tôi nghĩ nó sẽ hỏng mất, nhưng không, ơn Chúa, nó vẫn hoạt động
được.
Giờ tôi đã bớt thấy nhớ nhà, chỉ có điều
tôi muốn thấy mặt lũ con, nhất là đứa út. Tôi chưa bao giờ gặp lại chúng. Thực
ra thì tôi cũng nhớ quê, tôi có 1 người bạn, Selidov, chúng tôi đã nhập ngũ và
chiến đấu bên nhau từ ngày đầu.
Chúng tôi đã hành quân 50km trong đúng 1
ngày. Điều này không quá khó khi chân cẳng mọi người đều tốt.
Túi đồ cá nhân của tôi: trước hết là ít
bánh mì để ăn, 1 quyển sổ, 1 bộ đồ lót, xà cạp dự trữ. Chúng tôi kiếm được 1 ít
chiến lợi phẩm ở Petrishchevo. Có đủ thứ, đủ cho thậm chí cả đến đời cháu chắt
tôi, nhưng tôi chẳng lấy gì. Tôi cần chúng làm gì? Dù sao thì tôi cũng sẽ bị
giết thôi. Tôi đã có thể chọn lấy hàng tá đồng hồ đeo tay ấy chứ. Điều đó có
thể là do bản tính của tôi, tôi cảm thấy ghê tởm khi phải chạm vào những thứ tư
trang của quân địch. Các đồng đội sẵn sàng sờ vào chúng nhưng cá nhân tôi sợ
cầm đến những thứ đó.
Những cỗ xe tăng địch áh? Sao cơ? Tất nhiên
tôi đã nhìn thấy chúng.
Trận chiến mặt đối mặt. 1 tên Đức làm tôi
bị thương và tôi giết hắn. Hắn đã nhảy vọt tới và tôi nghĩ tôi muốn để hắn sống
nên hô: “Halt!” (Giơ tay lên). Hắn bắn vào tôi làm tôi bị thương ở tay. Tôi
ngắm bắn, hắn ngã xuống. 1 phụ nữ mang cho tôi 1 nồi sành đầy sữa. Tôi dùng nốt
chỗ băng cá nhân để băng vai cho 1 cậu bé bị thương.
Đừng bao giờ bỏ chạy dưới hỏa lực súng cối.
Nếu bạn bỏ chạy, đó sẽ là dấu chấm hết cho bạn! Khi 1 tên địch bắn bạn bằng
súng máy, hắn thường không bắn chính xác cho lắm. Bạn có thể nằm xuống rồi chạy
tới 1 vị trí khác. Khi hắn ngừng, xông lên! Nếu bạn bỏ chạy hắn sẽ hạ bạn!
Máy bay á, bạn có thể làm gì à? Tất cả sẽ
tản ra. Nhưng pháo kích bằng súng cối thì tôi thấy thật đáng sợ, đó là vũ khí
hiệu quả nhất của địch.
Hồi còn ở nhà tôi đã từng sợ cả tiếng cót
két phát ra từ bản lề cửa, còn bây giờ tôi chẳng sợ gì nữa. Ở Petrishchevo, tôi
đã hạ 1 tên lính súng máy Đức khiến hắn lộn từ trên mái nhà xuống. Chúng tôi
đang xông lên thì phải nằm xuống. Tôi thấy rất lạnh và phải giãy giãy đôi chân.
Aiiee, aiiee, tôi chết cóng mất. Tôi ngắm bắn bằng khẩu súng trường. Hắn câm
họng tức thì. Sau đó tôi kiểm tra lại thì thấy viên đạn găm đúng chân mày hắn. Tôi
đã hạ được độ 15 tên địch.
Thời tiết thực sự tốt để xung trận ở
Morozovka. Địch đang rút lui và quân ta đang truy kích. Tôi có phải là kẻ đến
xâm lược chúng đâu? Chúng tôi đang chiến đấu trên quê hương mình.
Đã nghe nhiều về dân địa phương chưa, thật
là 1 lũ bần tiện, ai mà tha thứ cho họ được cơ chứ? 1 phụ nữ đã hỏi xin và tôi
đưa cho bà ta kim chỉ của tôi. Trong 1 trận đánh tôi bị mất dây buộc áo khoác,
tôi còn giữ 1 cái sơ cua nhưng chẳng có gì để khâu nó lại trong khi trong túi
vẫn còn đầy cúc áo.
Chốt hạ là quân ta sẽ đi đến chiến thắng,
chỉ là tôi không biết bằng cách nào. Địch đã không thắng được dạo mùa hè phải không?
Chúng là những chiến binh giỏi, nhưng hèn.
Anh biết không, tôi đã từng bị thương ở chỗ
khó nói, và tôi sợ sẽ có điều gì đó mất mát khi trở về với vợ. Bác sĩ khám cho
tôi và bảo: “Thằng khốn này may nhá! Mọi thứ vẫn ổn!”.
Thật tốt nếu xung trận vào lúc bình minh.
Nó giống như lúc bạn đi làm vậy. Trời còn hơi tối nhưng mọi người vẫn nhìn rõ
mọi thứ nhờ những viên đạn vạch đường, và đến khi quân ta xông vào làng thì
trời đã sáng rõ.
Tôi đã mất sự thèm muốn phụ nữ. Ah, nhưng
tôi thích ngắm những đứa bé, dù chỉ 1 ngày, và sau đó tôi sẽ lại chiến đấu cho
đến ngày cuối cùng.
Hồi còn ở làng chúng tôi có khi phải lao
động nặng nhọc còn hơn ở đây. Chỉ khi có thử thách gay go nào đó thì cuộc sống
mới khó khăn hơn hồi ở làng. Ở đây tôi đã trở thành 1 kẻ to mồm. Ai cũng phải
ngủ trong tiếng đại bác và cối bắn. Ai cũng có thể ngáy ngay trên mặt đất, giữa
bãi chiến trường. Tôi đã phải chịu cái rét ghê người của mùa đông năm nay.
1 người lính có những nghĩa vụ đạo đức: ai
cũng từng phải lôi không chỉ người bị thương mà cả người chết trong trận đánh.
Khi tôi bị điếc tai trong 1 trận đánh, 1 anh lính đồng đội đã tới giúp tôi và
dẫn tôi ra khỏi chỗ đánh nhau”.
“Những viên đạn không trúng được vào những
người dũng cảm”, Kanaev nói. Tất cả những người khác đã nằm xuống, nhưng anh ta
vẫn đứng. “Hỡi các binh sĩ, theo tôi!”. Ở gần Bogodukhov anh ta đã dẫn đầu 1
đội xung phong. Anh ta không phải người hèn. “Đừng lo, đồng chí chính uỷ!”. Anh
ta kêu lên. “Chúng tôi không có ai bị thương”.
Đối chiếu với những gì đại úy Kozlov nói:
“Cần phải rất can đảm để ngắm và bắn trong
1 trận đánh. 60% quân ta chưa từng bắn phát nào trong các trận đánh*. Chúng tôi
chiến đấu nhưng phải cảm ơn những tay đại liên, tiểu đoàn cối và sự can đảm của
vài người đơn lẻ. Tôi đề nghị làm sạch những khẩu súng trường trước mỗi trận
đánh và kiểm tra lại sau đó. Nếu ai không bắn - hắn được xem như đào ngũ.
Tôi không ngại phải nói rằng chúng tôi chưa
từng tham chiến 1 trận giáp lá cà bằng lưỡi lê nào. Chỉ nhìn là biết, chúng tôi
làm gì có lưỡi lê. Thực tế tôi sợ mùa xuân hơn. Bọn Đức có thể sẽ bắt đầu thử
tấn công lại khi thời tiết ấm lên”.
*[Việc Kozlov tin rằng phần lớn binh sĩ không
hề bắn trong mỗi trận đánh cũng giống với học thuyết gây tranh cãi “tỷ lệ bắn”
của Thống chế S. L. A. Marshall trình bày trong cuốn “Men Against Fire” (1947).
Marshall cho rằng từ 75% đến 85% binh sĩ trong trận chiến không hề sử dụng vũ
khí của mình để bắn vào đối phương. Các căn cứ trong nghiên cứu của Marshall đã
bị Giáo sư Roger Spiller nghi ngờ trong 1 bài báo ấn hành vào mùa đông năm 1988
trên tờ RUSI Journal, nhưng cơ bản học thuyết này có lẽ vẫn rất đúng]
Nỗi lo sợ của Đại úy Kozlov là rất thực
tế. Hitler đang chuẩn bị 1 cuộc tổng tấn công về phía nam nhằm chiếm vùng dầu
mỏ Caucasus, trong khi đó Stalin lại tin rằng Wehrmacht sẽ tấn công Moscow lần
nữa. Cuộc tấn công hè 1942 của quân Đức, vì sự cố chấp mù quáng của Hitler, đã
dẫn tới trận chiến Stalingrad.
12
“Sự thật tàn nhẫn của chiến tranh”
Vasily Grossman viết cho cha đầu tháng 3
về hiệu ứng mất phương hướng trong mùa đông thời chiến.
Đôi khi con có cảm giác mình đã mất quá
nhiều thời gian đi loanh quanh trên những chiếc xe tải, ngủ trong chuồng gia
súc hoặc những ngôi nhà cháy dở, như thể con chưa từng sống kiểu sống nào khác
thế này. Hay kiểu sống khác đó chỉ là 1 giấc mơ? Con đã đi liên miên suốt mùa
đông, đã nhìn thấy quá nhiều thứ đủ cho cả 1 đời người. Con đã trở thành 1
người lính thực thụ. Con biết chắc giọng nói đã trở nên khàn đục vì makhorka và
cái lạnh, và vì 1 số lý do tóc trên thái dương bên phải của con đã bạc trắng.
Hôm sau ông lại viết.
Mùa đông đã trở lại nơi chúng con đang ở,
cái lạnh thật khốc liệt... Và con thèm được sưởi ấm dưới ánh nắng. Con phát mệt
vì cứ phải lấy tay sờ hết mũi đến tai để xem chúng có còn ở chỗ cũ không hay
rụng mất rồi. Mặt khác con đã sụt được 16kg, đó là điều rất tốt. Cha có nhớ cái
bụng béo ị của con không?
Trong chuyến trở về Moscow đầu tháng 4,
Grossman tới gặp Ortenberg. Ortenberg viết về cuộc nói chuyện giữa 2 người không
lâu sau đó:
“Vasily Grossman tới gặp tôi và nói không
rào trước đón sau: “Tôi muốn viết 1 cuốn tiểu thuyết”. Anh ta thông báo luôn
trước khi tôi có cơ hội trả lời: “Tôi sẽ cần 2 tháng nghỉ phép để viết nó”. Tôi
không có gì lo lắng với yêu cầu của anh ta, dù rõ ràng là anh ta chờ đợi điều
đó. Lúc này đang là quãng thời gian tạm lắng ở mặt trận và tôi chấp thuận yêu
cầu của anh”.
Grossman viết cho cha mình ngay sau đó.
Con đã được cho nghỉ 2 tháng để làm công
việc sáng tạo, từ 10/4 đến 10/6. Con đang sướng điên người, cảm thấy mình chỉ
giống như 1 cậu học trò. Chuyến trở về Moscow lần này gây cho con ấn tượng mạnh
- thành phố, những phố xá và quảng trường, tất cả chúng giống như khuôn mặt
những người bạn thân quen.
Con đã làm vài việc để nâng cao năng lực
tài chính của mình: Con đã ký hợp đồng với 1 nhà xuất bản cho cuốn sách nhỏ về
những câu chuyện ngắn và bài viết ngoài mặt trận của con. Hôm nay con sẽ gửi
cha ít tiền... Căn hộ của con thật lạnh lẽo. Zhenni Genrikhovna đã quá yếu.
Con không đi bất cứ đâu trong thời gian lưu
lại đây. Tổng biên tập đã chất cả đống việc lên người con và con ngồi làm việc
cả ngày lẫn đêm. Thực ra điều đó cũng không tệ lắm vì những người ở ban biên
tập khá nồng hậu, họ đã mời con ăn kasha tại đó. Con đã trở nên rất dị ứng với
thức ăn ngoài mặt trận.
Con sẽ viết 1 cuốn tiểu thuyết trong thời
gian lưu lại Chistopol. Con đang không được khỏe cho lắm, quá mệt mỏi và ho
nhiều. Con bị cóng khi bay qua mặt trận trên 1 chiếc máy bay mở toang cửa.
Grossman đã không phung phí chút thời
gian nào để bố trí chuyến đi tới Chistopol. Ở đó dù lại được sống bên vợ, ông
vẫn làm việc nhiều giờ mỗi ngày để viết cuốn tiểu thuyết về năm 1941 thảm hoạ,
cuốn sách mà ông quyết định lấy tên là “Nhân dân bất diệt”. Cuốn sách rút tỉa
từ những ghi chép ngoài mặt trận của ông đã cực kỳ thành công với độc giả là
những người lính Hồng quân. Grossman, 1 trí thức Do Thái đến từ 1 thế giới
khác, đã không chỉ chứng minh lòng can đảm của mình ngoài mặt trận mà trên tất
cả là tính chính xác và lòng nhân ái trong những quan sát của ông. Mặc dù chưa
hoàn thành toàn bộ công việc viết sách vất vả đó, Grossman đã nóng lòng trở lại
mặt trận. Thực tế ông đã viết cho cha từ Chistopol ngày 15/5 rằng ông sẽ đi
trong tuần đầu tiên của tháng 6.
Chiến sự lại bắt đầu ngoài mặt trận, con
nghe radio suốt. Mặt trận là nơi có câu trả lời cho mọi câu hỏi và mọi số phận.
3 ngày trước đó, Nguyên soái Timoshenko
đã mở cuộc tấn công với 640.000 quân vào mấu lồi Barvenkovo ở phía nam Kharkov.
Cuộc tấn công này đã trở thành thảm họa. Lúc này Cụm Tập đoàn quân Nam của
Wehrmacht đang chuẩn bị mở Chiến dịch Fridericus, bước đệm cho cuộc tổng tấn
công mùa hè mang tên Chiến dịch Blue nhằm mục tiêu là Stalingrad và hướng tới Caucasus.
Kết quả là cuộc tấn công thiếu sáng tạo của quân Soviet đã đẩy bản thân họ vào
vị trí giữa cái búa là Tập đoàn quân Thiết giáp 1 của Kleist và cái đe là Tập
đoàn quân 6 của tướng Paulus. 2 Tập đoàn quân Soviet đã bị bao vây tiêu diệt
gần như hoàn toàn trong có hơn 1 tuần. Quân Đức bắt sống gần 250.000 tù binh.
Khao khát được ra mặt trận của Grossman xuất hiện nhanh và cũng tan biến nhanh
chóng, ông quay lại với công việc viết tiểu thuyết.
Ở đây con đang rất tập trung vào công việc
(ông viết cho cha ngày 31/5). Hình như con chưa bao giờ làm việc chăm chỉ đến
thế trong đời... Hôm kia con đã đọc cho Aseev nghe những gì con viết và anh ấy
rất thích nó.
Đáng tiếc là hạn phép của con sắp hết, con
đang rất mệt, con đã vắt kiệt bản thân cho công việc viết lách. Tuy nhiên hoàn
toàn bất ngờ, con đã nhận được 1 bức điện cực kỳ hào phóng từ tay Tổng biên tập
độc ác của con, ông ta viết rằng ông ta không phiền nếu con kéo dài thời gian
nghỉ phép để tiếp tục công việc tại Chistopol. Với sự cho phép này hầu như chắc
chắn con sẽ ở lại đây thêm 7 - 10 ngày so với hạn phép. Con đang viết về cuộc
chiến trong giai đoạn từ mùa hè đến mùa thu năm 1941.
1 điều khác nữa là con đang rất khổ sở vì
thiếu tiền... con đã viết thư gửi về Moscow cho tất cả các nhà xuất bản của con,
nhưng chưa 1 ai trong lũ chó má đó gửi cho con dù chỉ 1 kopeck.
Con thường nghĩ tới Katyusha. Con rất muốn
nhìn thấy nó... chắc giờ nó lớn lắm rồi. Con đã nhận được 2 bức thư của nó và
qua những bức thư đó con cảm thấy nó không nhớ con lắm; chúng đúng là những bức
thư lạnh lùng.
Nhiều đêm con ngồi dưới gốc cây táo, lúc
này nó đang trổ hoa, và nhìn những ô cửa sổ sáng đèn của những ngôi nhà. Chúng
thật bình yên. Điều đó làm con ngạc nhiên. 1 viên tướng tên là Ignatiev từng
nói phóng viên là những người dũng cảm nhất trong chiến tranh vì họ phải rời
hậu phương để ra mặt trận rất nhiều lần, đó là khoảnh khắc khó chịu nhất, lúc
mà 1 con sơn ca biến thành 1 cái máy bay.
Con nhận được 1 tấm card từ Ủy ban Di tản
nói rằng Mẹ không nằm trong danh sách những người đã được sơ tán. Con đã biết
trước rằng Mẹ không thoát được nhưng trái tim con vẫn co lại khi đọc những dòng
chữ đó.
Cuối cùng thì Grossman đã không cần đến
thời gian kéo dài phép mà Ortenberg đã chấp thuận cho ông. Ông giao bản thảo
ngày 11/6 và viết cho cha ngày hôm sau:
Mọi thứ có vẻ ổn với cuốn tiểu thuyết của
con. Tổng biên tập đọc nó hôm qua và nhiệt liệt tán thưởng. Đêm qua ông ấy gọi
con đến và ôm chặt lấy con. Ông ấy nói rất nhiều những lời tán dương và hứa sẽ
đăng trên tờ Krasnaya Zvezda mà không cắt cúp gì hết. Cuốn tiểu thuyết này rất
dài... con đang lo không hiểu người đọc sẽ tiếp nhận nó như thế nào... Dù sao,
việc xuất bản cuốn tiểu thuyết sẽ làm khả năng tài chính của con tăng tiến vượt
bậc. Con hy vọng cha sẽ có thể tự đọc nó trong tương lai gần. Con rất vui nếu
được như vậy. Cha phải cố tăng cân đi chứ gầy quá rồi đấy, ông già khốn khổ ạ.
Cùng lúc đó, Grossman viết cho vợ ở
Chistopol những điều đã nói trong bức thư gửi cha nhưng kèm thêm vẻ hãnh diện:
Giờ anh đã là cây đinh của ban biên tập.
Tổng biên tập cho gọi anh lên cả chục lần mỗi ngày. Anh ngủ ngay tại cơ quan,
đọc các bản in thử từ 2 - 3h sáng.
Ortenberg cũng viết: “Sau đúng 2 tháng,
Vasily Semyonovich giao cho tôi cuốn “Nhân dân bất diệt”, 1 bản thảo dày khoảng
200 trang. Tôi đọc nó, không còn lời gì để nói, tôi đọc mà không thể đặt nó
xuống được. Không 1 tác phẩm nào thuộc thể loại này được viết kể từ khi chiến
tranh bắt đầu. Tôi quyết định đăng tải nó không chậm trễ. Chương đầu tiên được
đưa cho người sắp chữ. Khi 1 trang gồm 3 cột đã sẵn sàng, tôi bắt đầu đọc bản
in thử. Grossman đứng cạnh tôi theo dõi từng cử động với vẻ ganh tị. Anh ta sợ
tôi có thể sẽ sửa chữa những đoạn không cần thiết”.
Ngày 14/7, Grossman viết cho cha trong
tâm trạng hết sức kích động:
Krasnaya Zvezda đã bắt đầu đăng dài kỳ cuốn
tiểu thuyết của con... con gửi điện chuyển tiền cho cha 400 rúp từ hôm kia! Con
sẽ ở Moscow thêm 3 tuần hoặc 1 tháng, đó là thời gian cuốn tiểu thuyết của con
sẽ được đăng nhiều kỳ trên báo.
Ngày 12/8, Ortenberg viết: “Hôm nay chúng
tôi đăng chương cuối cùng cuốn tiểu thuyết “Nhân dân bất diệt” của Vasily
Grossman. Cuốn truyện đã được đăng suốt 18 số báo và cứ sau mỗi số sự thích thú
của độc giả lại tăng lên. Trong 18 ngày đó, thực ra là đêm, tôi đứng với tác
giả tại bàn mình để đọc bản in thử từng chương sách sẽ được xuất bản tiếp theo.
Không có mâu thuẫn nào với Vasily Semyonovich. Chỉ đến khi kết thúc cuốn tiểu
thuyết mới nổ ra cuộc tranh luận gay gắt vì lý do nhân vật chính, I.
Babadzhanyan, bị giết. Khi tôi đọc bản thảo và khi đọc bản in thử chương cuối,
tôi đã hỏi tác giả chẳng lẽ không thể cải tử hoàn sinh cho nhân vật chính,
người đã được độc giả hết sức yêu mến à? Vasily Semyonovich trả lời: “Tôi phải
căn cứ theo sự thật tàn nhẫn của chiến tranh”.
Thực tế, Grossman đã đối mặt với vấn đề
hết sức tế nhị, điều mà tất cả các tiểu thuyết gia đều ngại, thậm chí gần như không
bao giờ làm, là để nhân vật chính trong tiểu thuyết giữ đúng tên nguyên mẫu.
Babadzhanyan không hề bị giết như Grossman nói, nhưng người trong tương lai sẽ
trở thành vị tướng xe tăng này đã tha thứ cho anh chàng tiểu thuyết gia vụ bịa
ra cái chết của ông.
Trong khi đó ở Moscow, chỉ có rất ít
người có vẻ đã để ý đến mối nguy đang xuất hiện ở phía nam khi các tập đoàn
quân của Hitler tiến đến sông Đông và hướng thẳng về Caucasus. Bức thư của
Grossman gửi vợ ngày 22/7 cho thấy ngay cả những người vừa có mặt tại khu vực
đó trở về Moscow cũng chưa để ý đến nguy cơ.
Hôm qua Kostya Bukovsky trở về từ
Stalingrad bằng đường không, và anh đã tổ chức 1 “lễ đón tiếp”. Bọn anh uống và
ca hát... Tvarkovsky đọc 1 chương tuyệt vời trong tác phẩm mới của anh ta, “Vasily
Tyorkin”. Mọi người đã rơi nước mắt*.
*[Tvardovsky được biết đến nhiều nhất với tác
phẩm “Vasily Tyorkin”, câu chuyện kể về 1 người lính nông dân lạc quan đã luôn
luôn tìm được cách để sống sót. Nhân vật hư cấu này bắt đầu xuất hiện trong các
bài báo của Tvardovsky suốt từ thời chiến tranh Xô - Phần và trở thành người
anh hùng dân gian trong cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, nhờ đó Tvardovsky đã
thêm 1 lần nữa nhận Giải thưởng Stalin năm 1946]
Chỉ 3 tuần sau, ngày 19/8, Grossman viết
cho cha như sau:
Con sẽ ra mặt trận trong vài ngày nữa. Chắc
cha sẽ rất vui nếu nhìn thấy con được Hồng quân chào đón thế nào sau khi xuất
bản cuốn tiểu thuyết. Lạy Chúa, con rất tự hào về bản thân và rất xúc động.
Cuốn tiểu thuyết đã được đánh giá tốt ở mọi cấp độ, từ cấp cao nhất trong quân
đội đến những người lính trơn. Cha thân yêu, tâm trạng con đang tốt hơn bao giờ
hết. Con đã thành công và được thừa nhận, nhưng vẫn có 1 cảm giác hết sức, hết
sức nặng nề sâu trong tâm hồn. Ước muốn lớn nhất của con là giúp đỡ được tất cả
những người con yêu quý, để mọi người được đoàn tụ. Con luôn bị dằn vặt với suy
nghĩ về số phận của Mẹ.
Con đã nhận được 1 bức thư của Yura, con
trai Vadya. Nó đang ở mặt trận, là 1 trung úy. Nó đã đánh nhiều trận và đã từng
bị thương.
Em họ của Grossman, Yura Benash, cũng
sắp được chuyển tới Stalingrad, nơi Grossman cũng đang hướng tới.
13
Đường tới Stalingrad
Trong khi Grossman vẫn còn đang viết dở
cuốn “Nhân dân bất diệt”, Bộ tổng tham mưu Đức đã chuẩn bị các kế hoạch cho
cuộc tổng tấn công mùa hè của Hitler, Chiến dịch Blue. Trong bản kế hoạch gần
giống như việc mở lại Chiến dịch Barbarossa này, Hitler tính sẽ hướng về phía
Caucasus để chiếm vựa dầu ở đó. Hắn cho rằng việc kiểm soát nguồn dầu mỏ sẽ cho
phép hắn cự nhau được với “Tam Cường”, giờ đều đã đứng về phe đối địch. Tuy
nhiên vào ngày 12/5, 6 ngày trước khi cuộc tấn công của quân Đức dự kiến sẽ bắt
đầu, Nguyên soái Timoshenko đã mở chiến dịch tấn công vào nam Kharkov như đã
nói trong chương trước. Stavka (Tổng hành dinh - Bộ chỉ huy tối cao Nga) hy
vọng sẽ tái chiếm được thành phố. Cuộc tấn công của quân đội Soviet tuy thế đã
thất bại thảm hại. Quân Đức đang tập trung với số lượng lớn tại khu vực này đã
phản ứng nhanh chóng với tình hình mới dẫn tới 1 thảm họa khác là cuộc bao vây
5 ngày sau đó khi Tập đoàn quân 6 Đức của Tướng Paulus khép miệng túi trong đó
có hơn 3 Tập đoàn quân Soviet. Tin tức về thảm họa này đã gây shock, đặc biệt
là với Grossman, ông đã ở khu vực này trong 1 thời gian dài và đã từng gặp
nhiều người có tham gia vào trận đại bại này.
1 kết quả tuy ngoài lề nhưng quan trọng
của trận đánh này là đòn đánh chính của Chiến dịch Blue bị hoãn lại đến cuối
tháng 6. Các sĩ quan tham mưu Đức cùng toàn bộ các bản kế hoạch về cuộc tấn
công xuống phía nam đã bị bắn hạ vì viên phi công chở họ lạc hướng sang vùng do
quân Soviet kiểm soát. Nhưng Stalin không chịu tin vào các chứng cứ thu được,
ông nghĩ rằng đó chỉ là 1 trò lừa đảo, giống như ông đã từng không tin vào các
lời cảnh báo trước Chiến dịch Barbarossa. Stalin cho rằng Hitler sẽ 1 lần nữa
đánh thẳng vào Moscow. Tuy nhiên điều này diễn ra không lâu trước khi Stalin
nhận thức được sự cố chấp của mình dẫn tới cái gì. Các Phương diện quân Tây Nam
và Nam của Timoshenko vừa phải nhận 1 đòn nặng nề gần Kharkov đã rút lui 1 cách
thiếu tổ chức. Tập đoàn quân 6 của Paulus đã đánh vào chỗ khúc ngoặt lớn của
sông Đông, đồng thời 3 Tập đoàn quân khác - Thiết giáp 1, Thiết giáp 4 và Tập
đoàn quân 17 Đức - áp sát vùng hạ lưu sông Đông để tiến về Caucasus.
Stalin bắt đầu hoảng. Ngày 19/7 ông lệnh
cho Ủy ban phòng thủ Stalingrad lập tức chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu cho thành
phố. Thật không thể tưởng tượng được là quân Đức có thể tới sông Volga, tấn
công vào thành phố mang tên mình, nơi ông đã được ủng hộ và đánh bóng tên tuổi
nhờ lãnh đạo cuộc phòng thủ thành phố trong thời Nội chiến, khi đó thành phố có
tên cũ là Tsaritsyn.
Trong khi đó Hitler bắt đầu can thiệp
vào việc lập kế hoạch của Bộ Tổng tham mưu Đức.
Theo cách thông thường, nhiệm vụ của Tập
đoàn quân 6 của Paulus là tiến thẳng về Stalingrad, nhưng không chiếm nó. Kế
hoạch này chỉ đơn thuần nhằm mục đích bảo vệ cánh trái dọc theo sông Volga của
Chiến dịch Blue trong khi mũi nhọn chính nhằm về phía nam tới Caucasus. Nhưng
kế hoạch này đã nhanh chóng bị thay đổi, Tập đoàn quân 6 được 1 phần Tập đoàn
quân 4 Thiết giáp hỗ trợ phải chuyển hướng khỏi Caucasus để thực hiện mệnh lệnh
đánh chiếm thành phố mang tên Stalin.
Ngày 28/7, ngay sau khi quân Đức chiếm
Rostov và 3 tập đoàn quân Đức vượt sông Đông hướng về Caucasus, Stalin ra mệnh
lệnh nổi tiếng số 227, thường được biết với tên Mệnh lệnh “Không lùi 1 bước”.
Bất cứ ai rút lui mà không có lệnh hoặc đầu hàng sẽ bị coi là “phản bội Tổ quốc”.
Con gái của Grossman sau này nghe được cuộc tranh cãi sau giữa các biên tập
viên của tờ Krasnaya Zvezda. “Khi mệnh lệnh nổi tiếng được ban hành cho phép xử
bắn ngay tại trận, Ortenberg nói với cha tôi, Pavlenko và Aleksei Tolstoy*, 3
người lúc đó đều tình cờ có mặt tại Ban biên tập: “Ai trong các anh có thể viết
1 câu chuyện về đề tài này?”. Cha tôi trả lời ngay không suy nghĩ: “Tôi sẽ không
viết bất cứ cái gì theo kiểu đó”. Điều này làm Pavlenko điên tiết, ông ta vặn
vẹo người, rít lên như 1 con rắn mà nói: “Anh là đồ ngạo mạn, Vasily
Semyonovich ạ, đúng là đồ kiêu căng!”. Nhưng Tolstoy, người đã chỉ đứng đó mà không
tham gia vào cuộc cãi vã, đã nhanh chóng viết 1 câu chuyện về 1 tên phản bội
chó má, hắn đã bỏ chạy khỏi Hồng quân, trốn vào 1 ngôi nhà và giết những đứa
trẻ trong đó”.
*[Aleksei Nikolaevich Tolstoy (1882 - 1945),
nhà văn và nhà viết kịch, có họ với Leo Tolstoy nhưng xa lạ với việc ỷ lại vào
danh tiếng gia đình. Ông đi theo cách mạng từ trước WW1, đến năm 1923 mới trở
về Liên Xô sau khi được giới chức Soviet tâng bốc và đảm bảo về mặt chính trị.
Tác phẩm lớn nhất của ông là Sử thi Peter I (Piốt Đại đế), ông cũng viết tiểu
thuyết khoa học viễn tưởng. Sự nghiệp và tính mạng của ông vẫn được đảm bảo
trong thời kỳ Đại Khủng bố năm 1938 nhờ cuốn tiểu thuyết hèn hạ “Khleb” ca ngợi
Stalin trong cuộc phòng thủ Tsaritsyn thời Nội chiến, thành phố sau này đổi tên
thành Stalingrad. Trong thời gian chiến tranh ông viết cuốn “Ivan Grozny” với 2
phần cùng nhiều “bài viết yêu nước” như bài viết kể trên]
Cuộc rút lui của các tập đoàn quân
Soviet diễn ra trong hỗn loạn. Hàng nghìn mạng sống đã bị phung phí trong những
cuộc phản công vô ích. Nhiều người bị vây bên bờ sông Đông, 60km về phía tây
Stalingrad, đã chết đuối khi cố thoát ra. Grossman sau đó phỏng vấn nhiều người
đã có mặt trong thảm họa.
Đây là 1 ghi chép của Grossman thu được
từ cuộc phỏng vấn Vassily Georgevich Kuliev, 1 phóng viên quân đội 28 tuổi,
từng là Đoàn viên Komsomol phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong, anh này đã tự
chỉ định mình làm chính trị viên của 1 nhóm.
Chúng tôi rút lui khỏi chiến trường dưới
hỏa lực cối và súng máy. Đến trang trại Markovsky, chúng tôi nằm dán mình dưới
1 con hào dưới hỏa lực khủng khiếp và sau đó luồn qua vòng vây. Tôi tự chỉ định
mình làm chính trị viên 1 nhóm 18 người. Chúng tôi nằm trên 1 cánh đồng lúa mì.
Bọn Đức xuất hiện, 1 tên tóc đỏ quát: “Rus, uk vekh!”*. Chúng tôi nã mấy loạt
tiểu liên làm 4 tên Đức ngã lộn từ trên ngựa xuống rồi đánh ra, sử dụng 1 khẩu
tiểu liên và 1 khẩu súng máy. Có khoảng 25 tên Đức, 16 trong số 18 người chúng
tôi đã thoát được.
*[Tiếng Nga bồi nói theo giọng Đức, có nghĩa
là: “Bọn Nga, giơ tay lên!”]
Đêm xuống, chúng tôi đi bộ qua cánh đồng
lúa mì. Lúa đã chín rục và kêu sột soạt khiến bọn Đức nã súng máy về phía chúng
tôi... Sau đó tôi tập hợp 16 người lại và dùng la bàn định hướng tránh các con
đường và làng mạc trên đường. Chúng tôi đã mất 1 đêm nằm trên bờ cao sông Đông*.
Chúng tôi buộc chăn lại với nhau làm 1 sợi thừng để kéo những người bị thương
qua sông, nhưng nó không đủ dài. Tôi đề nghị cả bọn bơi qua sông. Chúng tôi bỏ
tất cả giấy tờ vào trong mũ và đạn vào 1 cái túi. Tôi đã bị đuối sức khi bơi
được nửa đường và phải bỏ cái túi còn cuốn sổ ghi chép để trong mũ thì vẫn giữ
được”.
*[Có 1 hiện tượng địa vật lý không thể giải thích
được xảy ra với các con sông lớn ở Nga chảy về hướng nam, đặc biệt là sông
Volga và sông Đông, theo đó chúng có bờ tây rất cao và bờ đông bằng phẳng.]
Quân Đức trước hết quét sạch các binh sĩ
Soviet còn trên bờ tây sông Đông, sau đó tướng Paulus tái bố trí đội hình để
chuẩn bị cho bước tiến tiếp theo. Sáng sớm ngày 21/8, bộ binh Đức dùng xuồng
xung phong vượt sông Đông và chiếm nhiều đầu cầu trên bờ đông. Công binh nhanh
chóng vào việc và đến trưa hôm sau nhiều cầu phao cho phép xe tăng đi qua đã
được bắc qua “Sông Đông êm đềm”. Các đơn vị thiết giáp nhanh chóng vượt sông
lấp đầy đầu cầu.
Chủ nhật 23/8/1942, Sư 16 Thiết giáp Đức
dẫn đầu cuộc tấn công xuyên qua thảo nguyên và tới được sông Volga sát phía bắc
Stalingrad chiều tối cùng ngày. Trên đầu, các máy bay ném bom của Phi đoàn Không
quân 4 do tướng Wolfram von Richthofen chỉ huy nghiêng cánh chào các lực lượng
dưới mặt đất. Phía sau những chiếc máy bay là Stalingrad đổ nát dưới những trận
bom rải thảm chia làm nhiều đợt. Trong ngày hôm đó và 3 ngày tiếp theo, khoảng
40.000 thường dân được cho biết là đã chết trong thành phố bị đốt cháy.
Hôm đó cũng là ngày Grossman theo lệnh
của Ortenberg rời thủ đô Soviet tới Stalingrad để thông tin về trận chiến đang
đến gần.
Tôi rời Moscow bằng ô tô ngày 23/8. Thợ máy
trưởng của garage ban biên tập đã bỏ nhiều thời gian chuẩn bị cho cỗ xe của
chúng tôi vượt quãng đường cả nghìn km từ Moscow tới Stalingrad. Tuy nhiên, khi
vừa rời khỏi Moscow được 3 km chúng tôi đã phải dừng lại. Cả 4 bánh xe đều xì
hơi cùng lúc. Trong khi lái xe Burakov tỏ ra rất ngạc nhiên vì sự cố này và bắt
đầu vá lốp 1 cách chậm rãi, cánh phóng viên chúng tôi tiến hành phỏng vấn người
dân địa phương thuộc khu vực Moscow. Thật ra là 1 cô gái đang đứng bên đường.
Cô ta có khuôn mặt rám nắng, mũi khoằm và đôi mắt xanh tinh nghịch.
“Em có thích các đại tá không?”.
“Sao tôi phải thích các vị đó?”.
“Thế các trung úy với những khối vuông trên
cầu vai thì sao?”.
“Các trung úy không phải loại ưa thích của
tôi. Tôi chỉ thích các chú lính trơn”.
Mặc dù chuyến nam du rất gấp gáp,
Grossman vẫn không quên ghé thăm điền trang của Leo Tolstoy, nơi lần trước ông
đã tới ngay trước khi nó bị tướng Guderian chiếm hồi tháng 10 năm ngoái.
Yasnaya Polyana. 83 tên Đức đã được chôn
ngay cạnh Tolstoy. Chúng đã được chôn xuống rồi lại bị quật lên vì 1 hố bom
Đức. Hoa trước nhà nở thật đẹp, giờ đang là mùa hè ấm áp. Cuộc sống trông thật
ngọt ngào và bình yên.
Mộ Tolstoy. Lại hoa, ong vo ve trên những
cánh hoa, những chú côn trùng có cánh này lượn khắp xung quanh mộ. Và ở Yasnaya
Polyana, khu vườn lớn đã chết vì giá rét, tất cả cây cối đều chết, những cây
táo đứng đó xám xịt, vô tri giác, giống như những cây thập giá trên nấm mộ.
Con đường cái màu xanh xám. Những ngôi làng
giờ trở thành những vương quốc của đàn bà. Họ lái máy kéo, gác kho và chuồng
ngựa, xếp hàng mua vodka. Những cô gái ngà ngà say hát ông ổng - họ đang ngắm 1
người bạn gái sắp rời làng đi lính. Những người phụ nữ mang trên vai toàn bộ
gánh nặng công việc. Họ đang nắm giữ 1 khối lượng công việc khổng lồ và gửi bánh
mì, máy bay, vũ khí, đạn dược ra chiến trường. Họ đang nuôi sống và trang bị
cho chúng tôi. Và chúng tôi, cánh đàn ông, thực hiện phần tiếp theo của công
việc. Chúng tôi chiến đấu! Nhưng chúng tôi chiến đấu không được tốt lắm. Chúng
tôi đã rút về Volga. Những người phụ nữ nhìn thấy nhưng không nói gì, không 1
ánh mắt trách móc, không 1 lời sỉ vả. Họ có đang nuôi mối bất bình không? Hay
họ hiểu rõ gánh nặng chiến tranh, thậm chí là 1 cuộc chiến thất bại?
Cô chủ nhà nơi chúng tôi nghỉ qua đêm là
người tinh nghịch. Cô ta thích những câu đùa ngu ngốc: “A, giờ đang là chiến
tranh”, cô nói. “Chiến tranh làm mọi thứ bị tịt”. Cô nhìn Burakov hau háu, mắt
láo liên. Burakov là 1 anh chàng đẹp trai. Burakov ra vẻ nghiêm trang, anh đang
bối rối. Rồi cô bật cười và bắt đầu “nói chuyện như những người trong gia đình”.
Cô không quan tâm đến việc đổi chút bơ lấy 1 cái áo hay mua nửa lít vodka của
lính tráng.
Cô chủ nhà nơi chúng tôi nghỉ đêm tiếp theo
là người sạch sẽ. Cô dị ứng với bất kỳ lời tục tĩu nào. Đêm xuống, trong bóng
tối cô kể cho chúng tôi nghe 1 cách thành thật về gia đình và công việc. Cô lôi
đám gà qué lên cho chúng tôi xem, cười nói về chuyện chồng con và chiến tranh.
Và mọi người đều khâm phục sự trong sáng của cô tự đáy lòng.
Cuộc sống của những người phụ nữ này sẽ ra
sao? Ở hậu phương và tiền tuyến là 2 thái cực, 1 bên sạch sẽ và trong sáng, bên
kia thì tăm tối, thế giới của lính. “A, giờ đang là chiến tranh”, người ta nói
thế. Nhưng PPZh là tội lỗi lớn nhất đối với chúng tôi.
PPZh là tiếng lóng chỉ “vợ hờ ngoài mặt
trận” do nếu nói đầy đủ nó là “pokhodno polevaya zhena”, hơi giống với PPSh,
loại tiểu liên tiêu chuẩn của Hồng quân. Vợ hờ có thể là những y tá trẻ hoặc nữ
binh sĩ tại các sở chỉ huy - thường là điện đài viên hoặc văn thư - các cô gái
này thường đội 1 chiếc mũ beret lật ra sau gáy thay vì mũ pilotka đội từ trước
ra sau. Hầu như tất cả họ đều buộc phải trở thành vợ hờ của các sĩ quan cao
cấp. Grossman cũng ghi nguệch ngoạc vài dòng chua chát về chủ đề này, có lẽ để
dùng cho những câu chuyện sau này.
Phụ nữ - PPZh. Ghi chép về Nachakho, phụ
trách hành chính của đơn vị hậu cần. Cô đã khóc cả tuần rồi đến với ông ta.
“Ai kia?”.
“PPZh của tướng quân”.
“Và chính ủy cũng có 1 cô”.
Trước trận đánh, lúc đó là 3h sáng.
“Tướng quân đâu?”. Ai đó hỏi.
“Đang ngủ với ả cave của ông ta”, lính gác
thì thào.
Những cô gái đó đã từng muốn trở thành 1 “Tanya”,
hay Zoya Kosmodemyanskaya*.
*[Zoya Kosmodemyanskaya, 1 nữ sinh 16 tuổi
người Moscow, đã chiến đấu trong 1 nhóm du kích sau lưng địch tại tỉnh Tambov,
lấy bí danh là “Tanya”. Cô bị bọn Đức bắt, tra tấn và hành hình tại làng
Petrishchevo ngày 29/11/1941. Trước khi bị chúng treo cổ trên đường làng, cô đã
nói trong nước mắt: “Chúng mày sẽ không bao giờ treo cổ hết được chúng tao. Các
đồng đội sẽ trả thù cho tao”. Cô được truy tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô.
Nhiều năm sau, câu chuyện về sự anh hùng của cô bị vấy bẩn vì lời kể của những
người dân địa phương trách cô đã đốt nhiều ngôi nhà theo 1 mệnh lệnh tàn nhẫn
của Stalin. Mệnh lệnh này nhằm phá hủy mọi chỗ trú ẩn để khiến bọn Đức chết
rét, mặc dù những người dân thường phải chịu chung số phận còn nhiều hơn].
“Thế cô kia thì là PPZh của ai?”.
“Của 1 ủy viên Hội đồng Quân sự”.
Bên cạnh những cô gái đó còn hàng chục
nghìn phụ nữ mặc quân phục đang làm việc hết mình mà vẫn giữ được phẩm giá.
Chuyện về 1 viên tướng đã thoát khỏi vòng
vây, dắt theo 1 con dê với 1 sợi thừng. Vài sĩ quan nhận ra ông. “Ông đang đi
đâu vậy, đồng chí Tướng quân?”. Họ hỏi. “Thế các anh định đi đường nào?”. Tướng
Efimov cười với vẻ nhạo báng. “Con dê này sẽ cho tôi biết phải đi đường nào”.
Krasivaya Mecha - thật là 1 nơi đẹp không
thể tả. Tiếng than khóc vang lên suốt đêm từ chỗ 1 con bò cái, trong ánh sáng
xanh của vầng trăng vàng. Con bò đã ngã xuống 1 con hào chống tăng. Đám phụ nữ
khóc lóc: “Thế là mất 4 đứa trẻ rồi”*. Trong ánh trăng xanh, 1 người đàn ông
đang cầm dao chọc tiết bò. Sáng ra, 1 cái vạc lớn được đun sôi sùng sục, ai nấy
đều có khuôn mặt phè phỡn, mắt đỏ ngầu và mí mắt căng mọng.
*[Thực ra họ đang than vãn cho 4 đứa trẻ sẽ bị
thiếu sữa]
Những người phụ nữ gày gò đầu trùm khăn
đang lao động trên đường, chất đất lên những chiếc xe cút kít gỗ, san lấp những
chỗ không bằng phẳng bằng cuốc chim và xẻng.
“Các bà các cô từ đâu đến thế?”. Chúng tôi
hỏi.
“Chúng tôi đến từ Gomel”.
“Chúng tôi đã có mặt trong trận đánh gần
Gomel”.
Chúng tôi nhìn nhau mà chẳng nói gì thêm,
rồi lại phóng xe đi. Đây có lẽ là 1 điềm báo, cuộc gặp gỡ này diễn ra gần làng
Mokraya Olkhovka, chỉ cách sông Volga có 40km*.
*[ Đây là khu vực phía tây thành phố Kamyshin
trên sông Volga, cách Stalingrad 200km về phía bắc theo đường quốc lộ]
Phụ nữ trong làng. Giờ đây toàn bộ gánh
nặng công việc chất hết lên lưng họ. Nyushka vẫn có vẻ cứng rắn, tinh nghịch và
lả lơi. “A, giờ đang là chiến tranh”, cô nói. “Tôi đã phục vụ 18 thằng đàn ông
kể từ ngày chồng tôi ra đi. Chúng tôi có 1 con bò cái và 3 phụ nữ nhưng chỉ
mình tôi vắt được sữa của nó. Nó chẳng chịu cho 2 mụ kia làm gì với nó cả”. Cô
cười. “Bây giờ gạ gẫm 1 phụ nữ còn dễ hơn 1 con bò”. Cô ngoác miệng cười, đề
nghị tặng chúng tôi tình yêu của cô theo cách thật là chân phương và dễ nghe.
Đất Mẹ chúng ta mới mênh mông làm sao.
Chúng tôi đã phóng xe suốt 4 ngày. Múi giờ đã thay đổi, giờ chúng tôi đã ở múi
giờ sớm hơn 1h. Thảo nguyên đã khác, những con chim cũng khác: diều hâu, cú,
ưng. Đã thấy cả dưa hấu và dưa. Nhưng nỗi đau mà chúng tôi thấy ở đây cũng vẫn
thế.
Làng Lebyazhye. Những ngôi nhà cao được sơn
các phòng bằng sơn dầu. Chúng tôi tỉnh dậy, không gian yên ắng, buổi sáng trời
u ám, rồi có mưa. Khoảng cách từ đây tới sông Volga là 15km. Sự bình thản và
yên tĩnh giả tạo của ngôi làng thật đáng sợ.
Sông Volga. Vượt sông trong tiết trời trong
sáng. Con sông khổng lồ chảy chậm rãi, hùng vĩ. Nói ngắn gọn, đó là Volga. Có 1
chiếc xe trên phà chất đầy bom cho máy bay. Máy bay địch đang oanh tạc. Tiếng
tạch tạch của những loạt súng máy. Và sông Volga vẫn chảy chậm rãi, vô tư lự.
Những đứa trẻ vẫn đang thả câu dưới chiếc phà đang bị đạn xuyên lỗ chỗ.
Có nhiều sân bay trong khu vực này,
chúng trở nên quan trọng khi trận Stalingrad diễn ra. 1 trong số chúng vốn là 1
cánh đồng trồng dưa nằm bên 1 cái chợ vẫn tiếp tục được mở, mặc cho máy bay Đức
bắn phá. Liên Xô đã nhận được 1 số lượng lớn trang thiết bị chiến tranh từ Mỹ
theo thỏa ước Lend - Lease, bao gồm những chiếc xe Jeep Willy và máy bay
Douglas DC-3 “Dakota”, người Nga gọi loại máy bay này là “Duglas”.
Đến nơi. Tiếng động cơ gầm rú hỗn loạn, nào
Cobra, nào Yak, nào Hurricane, 1 chiếc Duglas to lớn xuất hiện, bay 1 cách nhẹ
nhàng và êm ái. Đám chiến đấu cơ đang quần đảo điên cuồng đằng sau chiếc
Duglas. Chiếc Duglas đang tìm chỗ hạ cánh, mọi người nhảy nhót khắp nơi. Chiếc
Duglas hạ cánh, theo sau và xung quanh là đám chiến đấu cơ. Cảnh tượng thật là
huy hoàng, như xem 1 cuốn phim (với hậu cảnh là thảo nguyên và sông Volga).
Lính tráng xem cảnh tượng này và bàn luận
về nó. 1 người nói: “Trông cứ như đàn ong. Sao chúng nó (đám chiến đấu cơ) cứ
bu vào thế nhỉ?”.
“Chắc để bảo vệ ruộng dưa”.
Người thứ 3 nhìn chiếc Duglas vừa mới xuất
hiện nói: “Chắc hạ sĩ của đại đội ta sắp bắt kịp chúng ta”.
Hành khách trên chiếc Duglas dĩ nhiên
quan trọng hơn nhiều, thậm chí có thể chính là tướng Georgi Zhukov, người đã
bay tới đây ngày 28/8 theo lệnh của Stalin để giám sát công cuộc phòng thủ
thành phố*. “Có vấn đề gì với họ?”, Stalin quát vào telephone với tướng
Aleksandr Vasilevsky, đại diện đầu tiên của Stavka tới Stalingrad**. Ông đang
rất giận dữ với các chỉ huy quân đội địa phương. “Chẳng lẽ họ không nhận thức
được rằng đây không chỉ là thảm họa đối với Stalingrad? Chúng ta có thể mất con
đường thủy quan trọng và ngay sau đó là dầu mỏ!”.
Grossman nghỉ đêm cuối cùng ở Zavolzhye.
*[Tướng (sau này là Nguyên soái) Georgi
Konstantinovich Zhukov (1896 - 1974), trung sĩ kỵ binh trong WW1, bị thương ở
Tsaritsyn (sau này là Stalingrad) năm 1919. Năm 1939, ông là người thắng trận
Khalkin-Gol chống Nhật Bản trong cuộc chiến ở Viễn Đông. Năm 1941, Zhukov chịu
trách nhiệm phòng thủ Leningrad và sau đó vạch kế hoạch cho trận Moscow]
**[Tướng (sau này là Nguyên soái) Aleksandr
Mikhailovich Vasilevsky (1895 - 1977), con trai 1 thầy tu, từng là sĩ quan quân
đội Sa Hoàng trong WW1. 1 sĩ quan tham mưu sáng chói trong việc lập kế hoạch,
ông thoát khỏi cuộc thanh trừng mặc dù có xuất thân tư sản. Ông là người tham
mưu cho Molotov trong cuộc viếng thăm Berlin năm 1940, 1 cố gắng bảo vệ Hiệp
ước Xô-Đức nhưng thất bại. Khi quân Đức tiến về Moscow, Vasilevsky tiếp bước
Zhukov trở thành 1 trong những cố vấn chính của Stalin và được chỉ định làm đại
diện Stavka tại những điểm nóng như Stalingrad vào cuối tháng 8/1942]
Nghỉ đêm trong nhà của bí thư RAIKOM (Tỉnh ủy).
Ông kể chuyện nông trang tập thể, chuyện những người đứng đầu nông trang đã
mang lúa mạch vào sâu trong thảo nguyên và sống ở đó như những ông hoàng, xơi
thịt bê, uống sữa, mua bán các kiểu. (Giá 1 con bò cái giờ lên tới 40.000 rúp).
Cánh phụ nữ đang nói chuyện trong bếp căng
tin RAIKOM: “Ôi tay Hitler này, hắn đúng là quỷ Satan! Thế mà chúng ta đã từng
gọi mấy anh cộng sản là Satan”*.
*[Thật là 1 ghi chép khinh suất, nếu bị 1 kẻ
chỉ điểm báo cáo có thể dẫn tới nhiều năm cải tạo trong trại Gulag, giống như
các báo cáo quá rõ ràng từ Ủy ban Phòng thủ Stalingrad vậy]
Đất đai vùng Volga (phía bờ đông) này thật
bụi bậm, thảo nguyên có mầu nâu. Trong mùa thu khốn khổ này cỏ, lau lách và
ngải đắng mọc tùm lum. Cỏ bò cả lên mặt đường như những con rắn. Thấy có cả
chim hồng tước và lạc đà. Tiếng lạc đà kêu ầm ĩ. Mặt trời mọc xuyên qua lớp
khói mù mịt màu xanh xám. 1 nửa bầu trời bị khói che phủ, khói từ Stalingrad.
Trận oanh tạc Stalingrad ngày 23/8 đã
làm cháy kho xăng dầu trong nhiều ngày, tạo ra những cột khói đen có thể nhìn
thấy từ rất xa.
“Máy bay Đức trên đầu ta!”. Ai đó kêu lên.
Mọi người vẫn ngồi yên vị.
“Nó đang quay lại!”. Mọi người lao khỏi
izba nhìn quanh nhớn nhác.
Ông cụ chủ izba nói: “Tôi có 4 con trai
đang tham chiến và 4 con rể, 4 cháu trai nữa. 1 thằng con tôi đã hoàn thành
nghĩa vụ của nó, người ta đã chuyển giấy báo tử của nó cho tôi”.
Nhân dân ta mới tốt làm sao. Tôi không hiểu
sao mỗi người đều đủ sức chịu đựng gánh nặng khủng khiếp này. Những ngôi làng
trống rỗng 1 cách thảm thương. Các cô gái phóng đi trên những chuyến ô tô, họ
vừa đi vừa khóc, mẹ của họ cũng đang khóc, vì các cô con gái của họ đang tòng
quân.
1 bà già đi tuần đêm để gác kho thóc của nông
trang tập thể. Bà vũ trang bằng 1 cái quai nồi, khi ai đó đến gần, bà quát: “Đứng
lại! Ai đó? Tôi sẽ bắn đấy!”.
1 lần nữa, nhìn qua thảo nguyên Volga
trải dài đến Kazakhstan, Grossman lại liên tưởng đến sự mênh mông của đất nước
ông. Chưa bao giờ kích thước khổng lồ của Liên Xô lại được xem là công cụ phòng
ngự quan trọng như lúc này.
Cuộc chiến đã lan tới biên giới Kazakhstan,
hạ nguồn sông Volga, tạo nên 1 cảm giác đáng sợ về 1 mũi dao đang đâm sâu vào
cơ thể đất nước. Tướng Gordov từng chiến đấu ở tây Belorussia nay lại đang chỉ
huy quân đội tại Volga*. Cuộc chiến đã lan tới Volga.
*[Tướng Vasily Nikolayevich Gordov (1896 -
1950), chỉ huy Tập đoàn quân 64 trong cuộc rút lui vượt sông Đông, trở thành
tổng tư lệnh Phương diện quân Stalingrad trong thời gian rất ngắn rồi được
tướng Yeremenko thay thế. Bị bắt năm 1947 trong cuộc Tiểu Thanh trừng và bị
hành quyết vì tội phản quốc năm 1950]
Grossman cuối cùng đã tới được điểm đến
của cuộc hành trình khi Tập đoàn quân 6 và 1 phần Tập đoàn quân 4 Thiết giáp
Đức đã áp sát vùng ngoại ô phía bắc, tây và nam thành phố.
Stalingrad đã bị đốt trụi. Lẽ ra tôi đã
phải viết rất nhiều nếu muốn mô tả điều đó. Stalingrad đã bị thiêu trụi.
Stalingrad giữa 1 đống tro tàn. Thành phố chết. Người dân phải sống trong hầm.
Mọi thứ đang bốc cháy. Những bức tường nhà nóng bỏng như thân thể những người
bị chết vì sốt cao chưa kịp lạnh đi.
Những tòa nhà lớn, đài tưởng niệm, công
viên, biển báo ngã tư, hàng đống dây rợ, 1 chú mèo ngủ trên bậu cửa sổ, hoa và
cỏ mọc trong bồn, 1 lán gỗ vốn dùng để bán nước có ga, kỳ diệu thay những thứ
đó vẫn nguyên vẹn giữa hàng nghìn tòa nhà lớn đã cháy và đổ nát. Thành phố
trông giống như Pompeii, chìm trong thảm họa vào 1 ngày khi mà mọi thứ vẫn đang
phát triển hưng thịnh. Tàu điện và ô tô không có kính. 1 tòa nhà đã cháy trụi
chỉ còn tấm biển đồng tưởng niệm: “I. V. Stalin đã nói chuyện tại đây năm 1919”*.
*[Thành phố Tsaritsyn đã được đổi tên thành
Stalingrad để vinh danh cuộc phòng thủ được tô vẽ quá mức do Stalin đứng đầu
chống lại các cuộc đột kích cướp phá của lực lượng Bạch Vệ trong thời kỳ Nội
chiến Nga]
Tòa nhà bệnh viện nhi có bức tượng chim
bằng thạch cao trên mái. 1 cánh chim đã bị gãy lìa, cánh còn lại vẫn vươn cao.
Tòa nhà Cung Văn hóa cháy thâm đen lại, 2 bức tượng khỏa thân trắng muốt vẫn
đứng trước mặt tiền đen sì.
Những đứa trẻ đi lang thang, nhiều đứa vừa
đi vừa cười. Nhiều người dân đang trong tình trạng mất trí.
Hoàng hôn trên quảng trường. 1 vẻ đẹp ghê
sợ và quái đản: ánh sáng hồng của bầu trời xuyên qua hàng trăm nghìn cửa sổ và
mái nhà trống hoác. 1 tấm poster khổng lồ có màu sắc rất thiếu thẩm mĩ ghi dòng
chữ: “Con đường sáng”.
1 cảm giác bình thản. Thành phố đã chết sau
khi trải qua biết bao đau đớn và giờ đây nhìn giống khuôn mặt của 1 người chết
sau cơn bệnh khủng khiếp nhất để rồi tìm thấy cõi bằng an vĩnh cửu. Lại bom,
bom rơi xuống 1 thành phố chết.
Mặc dù phần lớn đàn ông đã bị điều động
ra ngoài thành phố để phục vụ chiến tranh, số lượng thường dân tại Stalingrad
vẫn phình ra vì dòng người tị nạn đến từ châu thổ sông Đông. Grossman thử phỏng
vấn vài người trong số họ, trong đó có 1 bà cụ và 1 phụ nữ trẻ hơn tên là
Rubtseva đến từ 1 nông trang tập thể.
“Chồng bà đâu?”.
“Không, đừng hỏi”, Seryozha, con trai bà
thở dài. “Chú sẽ làm mẹ cháu đau khổ đấy”.
“Anh ấy đã hoàn thành nghĩa vụ của mình
trong chiến đấu”, bà mẹ trả lời. “Anh ấy hi sinh hồi tháng 2”. Bà đã nhận được
giấy báo tử. Câu chuyện của bà về những lính Hồng quân hèn nhát: “1 chiếc máy
bay Đức lao tới như 1 mũi tên. Đúng lúc có thể bắn nó thì tất cả những “người
hùng” quân ta lại nằm rạp xuống cỏ. Tôi chửi họ: “A, chúng mày là bọn khốn!”.
1 lần, vài người lính áp giải 1 tù binh Đức
đi qua làng. Tôi hỏi hắn: “Mày tham chiến từ bao giờ?”. “Từ tháng 1”, hắn trả
lời. “Rồi có phải mày đã giết chồng tao không?. Tôi giơ tay, nhưng người vệ
binh không để tôi đánh hắn. “Thôi nào”, tôi bảo, “để tôi cho nó 1 trận”. Và anh
cảnh vệ trả lời: “Không có luật nào cho phép điều đó”. “Cứ để tôi đánh hắn
chẳng cần luật lệ gì sất, rồi tôi sẽ đi ngay”. Anh ta không chịu.
Đương nhiên ai đó vẫn có thể sống được dưới
ách phát xít, nhưng đó không phải kiểu sống của tôi. Chồng tôi đã bị giết. Giờ
tất cả những gì tôi còn là thằng Seryozha này. Nó sẽ trở thành 1 người vĩ đại
dưới chế độ Soviet. Dưới tay bọn Đức nó có thể chết như 1 con vật.
Những người bị thương đã lấy của chúng tôi
nhiều thứ, chúng tôi cũng không thể giữ chúng thêm. Họ đào sạch khoai tây, vặt
hết cà chua và bí ngô, họ quét sạch cả nhà tôi - khăn choàng, khăn tắm, chăn.
Họ còn thịt cả con dê nữa, nhưng ai mà chẳng phải thông cảm với họ khi thấy
tình cảnh tương tự. Nếu 1 người bị thương đến với bạn và khóc, bạn sẽ cho họ
bữa tối và khóc cùng họ”.
Bà già nói: “Bọn ngu độn đó đã để quân địch
tiến tới được trái tim của đất nước, sông Volga. Họ đã cho chúng 1 nửa nước
Nga. Thật đấy, đương nhiên là bọn Đức đã thu được vô số máy móc”.
Khi đến thăm Traktorny, nhà máy sản xuất
máy kéo lớn ở phía bắc Stalingrad, Grossman đã được nghe về cuộc tấn công của
Sư 16 Thiết giáp Đức hôm 23/8 qua lời của 1 viên trung tá có cái tên kỳ cục là
German (tức là Đức), chỉ huy 1 trung đoàn phòng không.
Đêm 23/8, 80 xe tăng Đức tiến vào Traktorny
thành 2 hàng dọc cùng với nhiều chiến xa và bộ binh. Trong trung đoàn của
German có nhiều cô gái trẻ, trực tổng đài, trắc thủ, quân báo, vân vân và vân
vân. 1 cuộc oanh tạc dữ dội diễn ra cùng lúc với đà tiến của xe tăng. 1 số pháo
đội nhằm bắn vào xe tăng, số khác bắn máy bay. Khi những chiếc tăng tiến thẳng
tới vị trí pháo đội của đại úy Skakun, anh đã nổ súng vào chúng. Pháo đội của
anh sau đó bị máy bay địch tấn công, anh lệnh cho 2 khẩu pháo phòng không tiếp
tục bắn tăng, 2 khẩu còn lại bắn máy bay. Sau đó không còn liên lạc gì với pháo
đội này nữa. “Thế đấy, chắc là họ đã bị hạ”, trung đoàn trưởng nghĩ bụng. Sau
đó ông nghe 1 tiếng súng gầm lên, rồi lại im lặng. “Thôi xong, giờ thì họ đã
phải dừng lại!”, ông lại nghĩ vậy. Súng lại nổ lần nữa. Chỉ trong đêm 24/8 đó
cả pháo đội đã chỉ còn lại 4 người lính trở về. Họ kéo Skakun theo bằng 1 tấm
vải, anh ta bị thương rất nặng. Những cô gái đều đã hi sinh bên súng.
Pháo đội của Golfman thì chiến đấu suốt 2
ngày bằng vũ khí cướp được của địch: “Các anh là cái giống gì thế, bộ binh hay
pháo binh?”.
“Chúng tôi là cả 2”.
Cả 2 phe đều đều sử dụng vũ khí và xe cộ
chiến lợi phẩm, điều đó gây nên nhiều sự lộn xộn.
1 lữ đoàn tăng hạng nhẹ do trung tá Gorelik
chỉ huy đã đánh vào khu vực nhà máy sản xuất máy kéo, bất thần 1 số xe tăng ta
nổ tung. “Bọn Đức!”.
“Bọn Đức nào?”. Chiếc xe tăng dẫn đầu hàng
quân Đức là 1 chiếc KV*.
*[Loại xe tăng Soviet tiêu chuẩn vào năm 1942
là T34, tăng hạng trung, nhưng vẫn còn 1 số tăng KV hạng nặng tham chiến. KV là
viết tắt của Kliment Voroshilov, bạn chí cốt của Stalin đã từng làm Bộ trưởng
Quốc phòng thời chiến tranh Xô-Phần]
1 đơn vị nhỏ phòng không được lệnh rút lui
nhưng vì không thể di chuyển pháo nên nhiều người đã ở lại. Chỉ huy của họ,
trung úy Trukhanov, đã đứng thay vị trí pháo thủ và bắn trực xạ vào quân địch.
Anh đã hạ được 1 chiếc tăng và sau đó tự sát.
Với lữ đoàn của Gorelik. Mọi người không
hình dung được tầm quan trọng của các sự kiện xảy ra trong ngày 23/8. Lữ đoàn
đã bị thiệt hại vì không được cảnh báo trước. Không huân chương nào được trao
sau trận đánh. Xe công vụ của chỉ huy lữ đoàn bị lấy đi vì ông ta cũng đã bị 1
cơn sốt thương hàn đánh quỵ.
Sarkisyan. Anh chàng này không tới
Stalingrad hôm chủ nhật vì qua 1 phụ nữ quen được trong làng, anh ta phát hiện
bia sẽ được chuyển tới đó. Anh đã tự làm mình mắc kẹt trong guồng máy quân sự
Đức như 1 mẩu thép lọt vào cỗ máy. Có lẽ anh đã làm Hitler phải mất ngủ vài
ngày: quân đội của hắn đã không giữ được nhịp độ tiến công! Mà tốc độ thì gần
như là điều quan trọng nhất.
Chắc Grossman đang kể lại trận đánh
trong 2 ngày 23 và 24/8 do đại úy Sarkisyan và các khẩu đội pháo phòng không
của anh tiến hành, phần lớn pháo thủ là các cô gái trẻ vốn là học sinh sinh
viên Stalingrad. Bằng sự can đảm kỳ lạ, họ đã chống trả Sư 16 Thiết giáp Đức
cho đến khi toàn bộ 37 vị trí đều bị xe tăng Đức tiêu diệt. Sarkisyan cũng như
đại tá German đã kể lại trận đánh cho Grossman, nhấn mạnh việc “các cô gái không
chịu trốn xuống hầm”, và chiến đấu trực diện với những cỗ thiết giáp Đức. Tuy
nhiên vấn đề thực sự mà tướng Von Wietersheim của Quân đoàn 14 Thiết giáp Đức
phải đối mặt lại là chuyện thiếu hụt nhiên liệu.
Sử dụng phối hợp những quan sát của bản
thân với lời kể của những người được phỏng vấn, Grossman sau này đã mô tả 1
cách giàu hình ảnh về cuộc rút lui cuối tháng 8 từ sông Đông về sông Volga khi
các sở chỉ huy của các đơn vị rút lui thuộc tập đoàn quân 62 và 64 đã tập hợp
được về Stalingrad.
Đó là những ngày khó khăn ác liệt... các
tập đoàn quân đang rút lui, khuôn mặt ai nấy đều u ám. Bụi phủ lên trang phục
và vũ khí, bụi chui vào nòng súng, phủ đầy trên những tấm bạt bọc thùng chứa
đầy tài liệu của các sở chỉ huy, trên cổ áo đen bóng của những nhân viên đánh
máy, trên hòm xiểng và những khẩu súng trường xếp lộn xộn trên những cỗ xe ngựa
kéo. Bụi khô xám chui cả vào lỗ mũi và cổ họng mọi người, làm cho môi khô nẻ.
Đó là thứ bụi đáng sợ, bụi của cuộc rút
lui. Nó ăn sạch niềm tin của con người, làm tiêu tan hơi ấm trong những trái
tim, tạo thành 1 đám mây tối tăm trước mắt những người lính pháo thủ. Có những
lúc nó làm người ta quên đi bổn phận, sức mạnh và cả vũ khí, và 1 cảm giác u
tối xâm chiếm họ. Những cỗ xe tăng Đức đang gầm rú chạy trên đường. Những chiếc
máy bay ném bom bổ nhào Đức vẫn đang lao xuống những cây cầu vượt sông Đông
suốt ngày đêm. Bọn Messer này rít lên như những cỗ xe hàng. Khói, lửa, bụi và
cái nóng khủng khiếp. Trong những ngày đó, gương mặt của những người lính đang
hành quân nhợt nhạt như khuôn mặt những thương binh đang nằm trên những chiếc
xe tải 1,5 tấn rung bần bật. Trong những ngày đó, người ta mang vũ khí mà đi
với vẻ mặt như than như trách, trông chẳng khác gì những con bù nhìn rơm, mình
quấn băng rướm máu, mong chờ những chuyến xe cứu thương mang đi. Quân đội vĩ
đại của 1 đất nước vĩ đại đang rút lui.
Những đơn vị đầu tiên của các tập đoàn quân
đó đã rút về tới Stalingrad. Những chiếc xe tải chở theo những người bị thương
gương mặt xám xịt, những chiếc xe đi đầu thành xe nát bươm, lỗ chỗ vết đạn và
mảnh đạn, những chiếc Emka công vụ thủng toác kính chắn gió, xe nào cũng mắc
đầy những mẩu cỏ khô và lau sậy, phủ đầy bụi bậm và bùn đất, vượt qua những phố
xá tao nhã của thành phố, vượt qua những khung của sổ sáng lấp lánh của các cửa
hàng, vượt qua những kios sơn sáng màu bán nước có ga và sirô, vượt qua những
hiệu sách và cửa hàng đồ chơi. Và hơi thở của chiến tranh đã đến với thành phố,
xuyên thấu tim gan nó.
Cũng phải nói thành thật. Trong những ngày đầy
lo lắng đó, khi tiếng nổ của các trận đánh có thể nghe được từ ngoại ô
Stalingrad, khi đêm đến người ta có thể nhìn thấy rocket bay ngang qua bầu
trời, ánh sáng xanh lợt của đèn phòng không cắt ngang dọc, khi những chiếc xe
tải đầu tiên, biến dạng vì mảnh đạn, chở theo những người bị thương và đồ đạc
của các sở chỉ huy xuất hiện trên các con phố, khi các trang đầu báo chí loan
tin về mối nguy hiểm sống còn đối với đất nước, nỗi sợ hãi tìm được con đường
len vào những trái tim, và nhiều con mắt dõi qua sông Volga. Có vẻ như những
người này không phải là kẻ phải bảo vệ sông Volga mà là sông Volga sẽ phải bảo
vệ họ. Mọi người bàn tán rất nhiều về việc sơ tán thành phố, về tình hình giao
thông, về các chuyến tàu tới Saratov và Astrakhan; bề ngoài có vẻ như họ lo
lắng cho số phận thành phố, trong khi thực tế họ làm cho việc phòng thủ thành
phố thêm khó khăn vì những biểu hiện dù câm lặng của họ, nỗi sợ hãi và lo lắng
của họ cho thấy rằng họ nghĩ Stalingrad sẽ phải đầu hàng.
14
Những trận đánh tháng 9
Thành phố Stalingrad có chiều dài khoảng
40km chạy dọc theo bờ tây con sông Volga vĩ đại. Sau cuộc đột kích bất ngờ của
Quân đoàn 14 Thiết giáp Đức vào điểm cực bắc thành phố ngày 23/8, đà tiến của
Tập đoàn quân 6 Đức vào thành phố chậm lại. Stavka dưới sức ép khủng khiếp của
Stalin lúc này đang nóng giận cực độ, đã ra lệnh tấn công xuyên thảo nguyên về
phía bắc để đánh váo sườn trái Quân đoàn 14 Thiết giáp. Cuộc tấn công vội vàng
và thiếu chuẩn bị này đã dẫn tới những thiệt hại to lớn về người và trang thiết
bị nhưng đã làm Paulus phải dè chừng và chuyển sự chú ý của Luftwaffe (Không
quân Đức) ra khỏi thành phố, đồng thời cho Stavka có thêm thời gian để chuyển
gấp các lực lượng dự bị ra mặt trận.
Trên hướng tây nam, 1 phần Tập đoàn quân
4 Thiết giáp của tướng Hoth vẫn không ngừng tiến về phía Stalingrad, mặc cho
Yeremenko đã tập trung được những mảnh vụn của lực lượng do ông chỉ huy về vị
trí này. “Ủy viên Hội đồng Quân sự” của Yeremenko, tức người đứng đầu các Chính
trị viên là Nikita Khrushchev, người từng phụ trách việc sơ tán ngành công
nghiệp Soviet khỏi Ukraina (*).
*[Nikita Sergeyevich Khrushchev (1894 - 1971), 1 chính ủy trong cuộc
Nội chiến Nga, gia tăng thế lực bằng cách ủng hộ Stalin chống lại Trotsky. Ông
phụ trách phần lớn công việc xây dựng đường tàu điện ngầm Moscow và đóng vai
trò là 1 trong những người đứng đầu cuộc đánh trí thức Ukraina trong thời kỳ
Đại Thanh trừng. Năm 1939, ông trở thành Chủ tịch ĐCS Ukraina và đến năm 1941
tổ chức cuộc sơ tán các nhà máy về phía đông khi quân Đức xâm lược. Sau chiến
tranh và sau cái chết của Stalin năm 1953, ông đã đứng đầu 1 việc táo bạo là
chống Beria và nắm quyền lực. Ông đã lên án Stalin tại Đại hội Đảng lần thứ 20
năm 1956 nhưng những cố gắng của ông trong việc mở rộng tự do lại trái ngược
với 1 số hành động khác ví dụ như cuộc đàn áp những người Hungary nổi dậy năm
1956]
Grossman sau đó đã vượt sông Volga để
gặp Yeremenko và Khrushchev tại sở chỉ huy mới của Phương diện quân Stalingrad.
Những bộ phận còn lại của Tập đoàn quân
62 và Tập đoàn quân 64 cuối cùng đã rút hết qua thảo nguyên sông Đông về đến
thành phố trong tình trạng kiệt quệ và mất tinh thần. Ngày 12/9, Tập đoàn quân
62 thu hẹp vành đai phòng thủ còn 3km chiều sâu ở điểm cực nam thành phố và
15km ở ngoại ô phía bắc. Đến cuối tháng, vành đai phòng thủ thu lại chỉ còn 1
dải đất ở phần phía bắc thành phố dài khoảng 20km với chiều sâu từ 1 - 5km.
Do không có 1 thứ gì tương tự như nhật
ký nên rất khó để theo sát được sự di chuyển của Grossman. Tuy nhiên có thể suy
luận từ những cuốn sổ ghi chép của ông rằng ban đầu ông đã lưu trú tại Dubovka,
1 địa điểm nằm trên bờ tây sông Volga cách cực bắc Stalingrad gần 40km về phía
thượng nguồn. Bờ tây con sông dốc đứng và đôi khi có những vách đá nhỏ, cao hơn
bờ đông bằng phẳng rất nhiều. Tư tưởng xuyên suốt của những tên xâm lược Đức là
tiến tới sông Volga, “trái tim của nước Nga”, để tạo nên tâm trạng thất bại
trong nhiều người như Grossman đã gặp trong nhiều ghi chép của ông.
Giờ thì không còn chỗ nào mà rút lui nữa,
mỗi bước lùi giờ đây đều có thể là 1 sai lầm vô cùng tai hại. Người dân sống
trong các làng bên bờ sông Volga cảm thấy điều đó, các chiến sĩ đang phòng thủ
Volga và Stalingrad cũng vậy.
Cảm giác vui sướng và đau khổ diễn ra cùng
lúc khi ngắm nhìn dòng sông đẹp nhất thế giới này. Những cành cây rủ bóng xuống
những dòng suối màu xanh xám, những cầu tàu đứng nhô ra, những lọn khói nhẹ bay
ra từ những ống khói... Khắp mọi nơi, cả ở bờ sông nữa, là những chiến hào,
boongke và hào chống tăng. Chiến tranh đã lan tới sông Volga.
Chúng tôi ở trong nhà của 1 kulak (địa chủ)
đã bị trưng thu. Chỉ thỉnh thoảng chúng tôi mới bất ngờ bắt gặp bà chủ nhà quay
lại, có Chúa mới biết là từ đâu. Bà ta theo dõi chúng tôi suốt ngày đêm nhưng không
nói gì. Bà đang chờ đợi. Và chúng tôi cứ sống trong cái nhìn chòng chọc của bà
ta.
1 bà già ngồi suốt đêm dưới 1 nhánh hào. Cả
Dubovka này đều ngồi dưới những nhánh hào. 1 chiếc Kerosinka* đang bay trên
đầu, nó lắc lư, nhấp nháy đèn** và thả vài trái bom nhỏ.
*[Kerosinka (tức là đèn dầu hay bếp dầu) là
tên lóng loại máy bay 2 tầng cánh bọc vải bạt Polikarpov U-2 vốn thường chỉ
dùng để bay huấn luyện hay phun thuốc trừ sâu. Chúng bị gọi là kerosinka vì có
thể bắt cháy rất nhanh. Tại Stalingrad, chúng thường được lái bởi những cô gái
trẻ từ 18 - 20 tuổi. Họ bay vượt qua chiến tuyến trong đêm, tắt máy rồi thả
những trái bom nhỏ vào chiến tuyến Đức. Những quả bom này không có hiệu quả mấy
nhưng đó là chiến thuật gây lo lắng và mất tinh thần quân Đức. Bọn Đức gọi
những chiếc máy bay này là “máy xay café” và những nữ phi công trẻ là “phù thuỷ
đêm”]
**[Chắc để thông báo cho các binh sĩ Hồng quân
trên tiền tuyến không bắn vào họ]
“Bà già đâu?”.
“Dưới hào ấy”, 1 ông già cười nói. “Thỉnh
thoảng bà ấy thò đầu lên nhìn quanh như suslik*
rồi lại thụt xuống”.
*[Suslik: chuột hay sóc sống ở thảo nguyên]
“Với chúng ta thế là hết. Thằng Hitler lừa
đảo đã đến được trái tim của đất nước ta”.
1 chú lính mang cây súng trường chống tăng
đang lùa 1 đàn cừu lớn xuyên qua thảo nguyên.
Trong bài viết tiếp theo, Grossman xuất
hiện ở gần thành phố hơn, tại 1 địa điểm gần Rynok, ngoại ô phía bắc thành phố.
Ở đây có những công viên và vườn tược đầy trái chín hiện lên trước mắt những
tên lính Sư 16 Thiết giáp Đức như thể Vườn Địa Đàng, chúng đã phải vượt thảo
nguyên suốt 2 tháng vừa qua dưới ánh nắng chói chang.
Máy bay gầm rú suốt đêm trên đầu chúng tôi,
bầu trời vang động cả ngày lẫn đêm như thể chúng tôi đang ngồi dưới những nhịp
của 1 cây cầu khổng lồ. Cây cầu này xanh sáng vào ban ngày, xanh thẫm vào ban
đêm, có hình vòng cung và bao phủ bằng những vì sao - và những hàng xe tải 5
tấn đang rầm rập qua cầu.
Các hỏa điểm nằm ở bờ bên kia sông Volga,
nơi trước đây là 1 viện điều dưỡng, trên 1 vách đá dựng đứng. Dòng sông màu
xanh và hồng, rộng như biển. Trong những vườn nho, dưới những cây dương là các
pháo đội được ngụy trang bằng lá nho. Trên những chiếc ghế dài dành cho người
đi nghỉ mát, 1 trung úy đang ngồi trước 1 cái bàn nhỏ. Anh ta hô: “Pháo đội,
bắn!”.
Xa xa là thảo nguyên. Không khí thổi từ
sông Volga mát rượi, mang hơi ấm của thảo nguyên. Những chiếc Messer đang bay
trên đó, 1 lính canh hô: “Chú ý trên không!”. Không khí trong sạch thoảng hương
ngải đắng.
Những người bị thương quấn đầy băng rướm
máu đang đi bộ dọc bờ sông Volga, ngay sát mép nước. Nhiều người cởi trần
truồng ngồi trong ánh hoàng hôn màu hồng của Volga để bắt rận trong đồ lót.
Những chiếc xe đầu kéo gầm rú, phanh ken két trên lớp sỏi bờ sông. Rồi sau đó
là những ánh sao đêm. Ai nấy đều có thể nhìn thấy 1 ngôi nhà thờ màu trắng ở
phía xa, trên bờ Volga.
1 buổi sáng lạnh và trong lành ở Dubovka. 1
tiếng nổ, cửa kính vỡ loảng xoảng, bụi vữa bốc mù mịt. Những tiếng gào thét và
khóc than vang lên bên dòng Volga. Bọn Đức đã ném bom giết chết 7 phụ nữ và trẻ
em. 1 cô gái mặc bộ áo váy màu vàng sáng hét lên: “Mẹ ơi, mẹ ơi!”.
1 người đàn ông đang khóc như phụ nữ. 1
cánh tay của vợ anh đã bị tiện phăng. Vợ anh vẫn đang nói 1 cách bình tĩnh với
giọng thều thào. 1 phụ nữ bị bệnh thương hàn trúng mảnh đạn vào bụng, cô vẫn
chưa chết. Những cỗ xe ngựa phóng đi, máu từ chúng nhỏ tong tỏng. Và những
tiếng gào khóc đang lan khắp Volga.
Grossman đã được lệnh rời bờ đông, hay
bờ trái, qua thành phố đang bốc cháy bên bờ tây. Các điểm vượt sông được Sư 10
Bộ binh NKVD kiểm soát chặt chẽ để bắt những kẻ đào ngũ và cả để ngăn dân
thường tháo chạy khỏi thành phố. Stalin cho rằng sự hiện diện của thường dân
trong thành phố sẽ buộc binh sĩ Soviet chiến đấu quyết liệt hơn để bảo vệ nó.
Grossman được Kapustyansky, 1 phóng viên khác của tờ Krasnaya Zvezda, hỗ trợ đã
vượt sông Volga bất chấp nguy hiểm do Luftwaffe (Không quân Đức) liên tục tấn
công các điểm vượt sông.
Cuộc vượt sông đáng sợ, thật sự là sợ.
Chiếc phà chật cứng ô tô, xe ngựa và hàng trăm con người bị mắc cạn. 1 chiếc
Ju-88 từ trên cao phóng bom xuống. 1 cột nước khổng lồ màu trắng và xanh dựng
lên. Cảm giác thật là sợ. Chẳng có 1 khẩu súng máy nào trên phà, không 1 khẩu
súng phòng không nào dù là loại nhỏ. Con sông Volga lại lặng câm, tinh sạch mà
đáng sợ như 1 đoạn đầu đài.
Thành phố Stalingrad những ngày cuối tháng
8, đầu tháng 9 và sau khi bị đốt cháy. Để vượt qua sông tới Stalingrad, việc
đầu tiên là chúng tôi uống thật nhiều rượu táo trong 1 nông trang tập thể trên
bờ trái để lấy dũng khí.
Những chiếc Messer đang quần thảo trên sông
Volga, khói phủ mờ mặt sông, những hộp khói được đốt liên tục để ngụy trang cho
các phương tiện vượt sông.
Thành phố chết, thành phố cháy. Trên quảng
trường Liệt sĩ, bia tưởng niệm ghi: “Cho những người vô sản Đỏ Tsaritsyn đã
chiến đấu vì tự do và hy sinh do bàn tay của bọn tay sai Wrangel năm 1919”.
Những người dân sống trong 1 ngôi nhà đã
cháy trụi đang ăn shchi (súp bắp cải truyền thống Nga) trên bậc cửa, họ ngồi ăn
ngay trên đống tư trang cá nhân. 1 cuốn sách tựa đề “Tội ác và Trừng phạt” nằm
trên mặt đất gần đấy. Kapustyansky nói với những người đó: “Cả các anh nữa, các
anh cũng đã phạm tội ác và bị trừng phạt”*.
“Chúng tôi bị trừng phạt, nhưng không phạm
tội ác”, 1 cô gái trả lời.
*[Tựa gốc: “Униженные и оскорбленные” truyện
của Fyodor Dostoevsky viết năm 1861, nguyên nghĩa là “Bị tổn thương và bị lăng
nhục”. VN dịch là “Tội ác và Hình
phạt”]
2 phóng viên đi xa về phía tây vùng
ngoại ô Stalingrad nơi các quân đoàn cánh phải của Tập đoàn quân 6 Đức do
Paulus chỉ huy đang hội quân với Tập đoàn quân 4 Thiết giáp của Hoth tiến từ
phía tây nam tới. Ở phía này quân Đức có 9 sư đoàn, mạnh hơn hẳn 40.000 quân
Soviet đã kiệt sức của các Tập đoàn quân 62 và 64 đang rút lui về thành phố.
Varapanovo, nơi đây có những chiến hào cũ
đã mọc đầy cỏ dại. Những trận đánh ác liệt nhất thời Nội chiến đã từng diễn ra
ở đây, và giờ 1 lần nữa kẻ địch mạnh chưa từng thấy lại tấn công trực diện vào
chỗ này.
Tuy vậy, trong phần lớn thời gian lưu
lại đây Grossman và Kapustyansky đã ở trong thành phố. Họ được nghe về những
tiểu đoàn công nhân đầu tiên đã được lập trong nhiều nhà máy. Chúng nằm dưới sự
chỉ huy của Đại tá Sarayev, Sư trưởng Sư 10 NKVD. Cú sốc của cuộc tấn công là 1
thử thách lớn với hầu hết các cấp quân đội từ trên xuống dưới, vì vậy NKVD và
Đoàn Thanh niên Komsomol đã siết chặt đội ngũ để ngăn không cho ai bỏ chạy. Các
Ctrị viên kể cho 2 phóng viên chuyện về quyết tâm của các binh sĩ.
1 người lính đã bắn 1 đồng đội, anh này
đang kéo 1 người bị thương khỏi trận địa thì giơ tay hàng. Sau đó người lính đó
đã tự mang người bị thương về. Cha của người lính này khi chia tay đã đưa cho
anh chiếc khăn mà mẹ anh đã thêu khi còn con gái và 4 chiếc huân chương chữ
thập mà ông có được trong WW1.
Đêm ở Stalingrad. Xe cộ chờ đợi tại điểm
vượt sông. Bóng đêm bao trùm. Lửa cháy ở phía xa xa. 1 tốp quân tăng cường vừa
vượt sông Volga đang từ từ di chuyển lên triền sông. 2 người lính đi bộ sau
chúng tôi, tôi nghe thấy 1 người nói: “Ai thích 1 cuộc sống dễ dàng thì hãy
sống gấp”*.
*[Có nghĩa là “Hãy nắm lấy mọi thứ có thể
trong cuộc đời khi còn cơ hội”]
Grossman đã sử dụng 1 số ghi chép nói
trên như 1 nguyên liệu cho bài viết của ông đăng trên tờ Krasnaya Zvezda số ra
ngày 6/9.
Chúng tôi tới Stalingrad ngay sau 1 trận
oanh kích. Lửa khói vẫn còn đây đó. 1 đồng chí người Stalingrad đi cùng chúng
tôi chỉ cho xem căn nhà đã cháy của anh. “Đây là Nhà Thiếu nhi”, anh ta nói.
“Còn chỗ này vốn đặt tủ sách của tôi, chỗ làm việc của tôi ở góc kia, chỗ có
cái tẩu thuốc móp méo đấy. Nơi đó là bàn làm việc của tôi”. Có thể nhìn thấy
khung của những cái giường trẻ con dưới đống gạch vụn. Tường nhà vẫn còn ấm
giống như thân thể 1 người vừa mới chết chưa kịp lạnh đi.
Những bức tường và hàng cột của Cung Văn
hóa Khoa học Tự nhiên phủ đầy bồ hóng sau vụ cháy còn 2 bức tượng khỏa thân
trước tiền sảnh vẫn trắng muốt. Những con mèo Sibêri béo mượt đang ngủ trên
khung cửa sổ các ngôi nhà trống. Gần bức tượng Kholzunov, mấy đứa trẻ đang thu
nhặt mảnh bom và mảnh đạn pháo phòng không. Trong buổi tối yên ắng đó, hoàng
hôn màu hồng tuyệt đẹp nhìn thật u buồn khi xuyên qua hàng trăm ô cửa sổ trống
hoác.
Nhiều người đã sớm làm quen được với điều
kiện thời chiến. Các chuyến phà chuyển quân vào thành phố thường xuyên bị máy
bay địch tấn công. Các thủy thủ lái phà vừa ăn dưa hấu vừa quan sát bầu trời. 1
chú bé đang chăm chú nhìn chiếc phao của cần câu cá, chân đu đưa. 1 bà già đang
ngồi trên 1 chiếc ghế dài đan bít tất trong khi súng máy và súng phòng không
vẫn nổ từng loạt xung quanh.
Chúng tôi tới 1 ngôi nhà đổ. Những người
sống trong nhà đang ăn tối quanh chiếc bàn làm từ những tấm gỗ đặt trên mấy cái
hộp. Lũ trẻ thổi shchi (xúp bắp cải) nóng trong bát.
Đối với các nhà cầm quyền Soviet, có vẻ
như cách duy nhất để cứu Stalingrad là mở các cuộc tấn công liên tục vào cánh
bắc Quân đoàn 14 Thiết giáp Đức. Tuy nhiên dù có tới 3 Tập đoàn quân Bộ binh
tham chiến là Cận vệ 1, 24 và 66, cơ hội của họ vẫn rất nhỏ, kể cả trong trường
hợp họ có quân số vượt trội so với đối phương. Quân Soviet thiếu đạn, đặc biệt
là đạn pháo, và phần lớn là sĩ quan và binh lính dự bị.
Những lệnh đốc thúc được Stalin ra trong
lúc giận dữ đã dẫn tới tình trạng cực kỳ hỗn loạn. Các sư đoàn trở nên lúng
túng sau khi tiến ra khỏi đầu mối đường sắt Frolovo, phía bắc khúc uốn sông
Đông, vì không biết mình được phối thuộc vào Tập đoàn quân nào hay mình sẽ đi
đâu. Luftwaffe tha hồ bắn phá họ trên thảo nguyên mênh mông, trong khi đó những
lính tăng Đức được huấn luyện hơn hẳn đã khiến cho cuộc chiến trở nên không cân
sức. Grossman đã ở Dubovka, gần với khu vực đã diễn ra những cuộc tấn công xấu
số đó.
Các sư đoàn đang di chuyển, gương mặt của
mọi người diễu qua, công binh, pháo binh, xe tăng. Họ đi suốt ngày đêm. Những
gương mặt, lại những gương mặt, tất cả đều có vẻ nghiêm trọng, đó là gương mặt
của những người bất hạnh.
Trước khi cuộc tiến quân bắt đầu, người vô
sản Lyakhov, lính tiểu đoàn bộ binh cơ giới lữ đoàn tăng, viết cho các vị chỉ
huy của mình: “Hãy để cho đồng chí Stalin biết rằng tôi xin hiến dâng mạng sống
vì lợi ích của Đất Mẹ, và vì Stalin. Và tôi không hề hối tiếc dù chỉ 1 giây.
Nếu tôi có 5 mạng sống, tôi cũng hiến dâng tất cả ko do dự. Hãy gửi lời chào
tốt đẹp nhất tới đồng chí ấy hộ tôi”.
Grossman rất thích thú với những lời càu
nhàu hàng ngày của cánh lính tráng. Trong trường hợp sau đây, 1 người lính đã
nói về thảo nguyên rộng lớn nơi 1 phi công Luftwaffe có thể dễ dàng phát hiện 1
cái bếp dã chiến và sau đó chuyển sang 1 đề tài khác cũng rất được lính tráng
quan tâm: ủng.
“Người ta chết phần lớn chỉ vì những cái
bếp. Các hạ sĩ quan đã “ăn đòn đủ” lúc đang chờ thức ăn bên bếp, vì thế thường
người ta chỉ xuất hiện khi đã có thức ăn sẵn sàng. Tôi cũng rất khó chịu với
đôi ủng này. Tôi đã phải cuốc bộ với những vết rộp rướm máu. Tôi lấy nó từ 1
người chết vì chẳng còn cách nào khác, nhưng nó quá nhỏ so với chân tôi”.
“Cánh lính trẻ chúng tôi chẳng bao giờ nhớ
nhà, thường chỉ những lính già mới vậy... Hạ sĩ Đại đội 4 là Romanov đã bỏ rơi
chúng tôi ngoài chiến địa. Đám lính trẻ chúng tôi đã được dạy dỗ chu đáo, chúng
tôi chịu đựng tất cả 1 cách kiên nhẫn, nhưng cánh lính già thì cảm thấy tệ hơn
nhiều”.
Grossman hay đi với 1 lính Hồng quân tên
là Gromov, xạ thủ súng trường chống tăng, ở tuổi 38 ông là 1 thứ đồ cổ xuất
hiện giữa đám lính trẻ mới nhập ngũ. Theo lời kể của Ortenberg, Grossman đã lưu
lại 1 tuần trong 1 đơn vị chống tăng. “Anh ta không hề trở thành 1 người xa lạ
trong gia đình của những người lính chống tăng này”, Ortenberg viết. Ortenberg
khẳng định sự tín nhiệm đối với Grossman khi viết về ông, có lẽ do nhân vật
Gromov trong tác phẩm của Grossman sau này được hoan nghênh nhiệt liệt, nhất là
bởi Ilya Ehrenburg. Đây là câu chuyện về Gromov trong những ghi chép của
Grossman:
“Khi bạn bắn nó, bạn sẽ thấy 1 ánh chớp
nhoáng lên trên chiếc thiết giáp. Phát đạn nổ inh tai, vì vậy phải mở miệng khi
bắn. Tôi đang nằm thì nghe tiếng thét: “Chúng đến!”. Phát đạn thứ 2 của tôi bắn
trúng chiếc tăng. Bọn Đức bắt đầu gào lên thảm thiết. Chúng tôi nghe tiếng
chúng kêu rất rõ. Tôi không hề thấy sợ tí nào, tinh thần tôi dâng cao. Đầu
tiên, có 1 chút khói bốc ra, rồi có tiếng lách tách và ngọn lửa bùng lên.
Evtikhov cũng bắn trúng 1 chiếc ô tô, ngay giữa thân, và bọn Fritz (Đức) kêu
mới khiếp chứ!”. (Đôi mắt xanh của Gromov hấp háy sáng trên khuôn mặt khắc khổ).
“Số 1 mang súng trường chống tăng. Số 2 mang 30 viên đạn súng chống tăng, 100
viên đạn súng trường thường, 2 lựu đạn chống tăng và súng trường. Tiếng nổ khi
bắn khẩu súng trường chống tăng thật kinh dị, mặt đất cứ rung lên”.
“Thương vong của chúng tôi chủ yếu do chúng
tôi phải tự đi lấy bữa sáng và bữa tối. Chúng tôi chỉ có thể đi vào ban đêm. Có
nhiều vấn đề với những cái đĩa, vì vậy chúng tôi phải chứa đồ ăn vào xô”.
“Quân ta thường nằm nghỉ ban đêm và tiến
quân ban ngày. Mặt đất phẳng lì như 1 cái mặt bàn”.
Những ghi chép nói trên, bao gồm cả
những lời của Gromov, đã được đưa vào 1 bài báo trên tờ Krasnaya Zvezda, bài
báo này đã gây ấn tượng mạnh với Ehrenburg và những người khác.
Khi hành quân, xương vai của những người
lính mang súng trường chống tăng đau nhức và cánh tay họ tê dại. Với 1 khẩu
súng trường chống tăng, thật khó để nhảy qua 1 chướng ngại vật hay đi bộ trên
mặt đất trơn. Sức nặng của khấu súng làm bạn đi chậm lại và đảo lộn óc thăng
bằng của bạn.
Những người lính sử dụng súng trường chống
tăng bước từng bước nặng nhọc, trông hơi giống người bị thọt chân - 1 bên người
họ bị sức nặng của khẩu súng đè xuống. Gromov lòng tràn đầy tức giận y như 1
người khó tính, người vì chiến tranh mà phải rời bỏ ruộng đồng, nhà cửa, vợ
con. Đó là nỗi tức giận của anh chàng Thomas hay nghi ngờ sau khi tận mắt chứng
kiến những trở ngại lớn lao đối với người của mình... Những bức tường trắng ám
khói đen và bụi vàng xám dựng lên trước mặt và sau lưng những người lính súng
trường chống tăng, chúng thường bị gọi là “đồ chết tiệt”... Gromov nằm dưới 1
nhánh hào, giữa 1 địa ngục ồn ã bởi hàng ngàn thứ tiếng động, ngủ lơ mơ và duỗi
đôi chân mỏi mệt: đó là sự nghỉ ngơi của 1 người lính bình thường và khắc khổ.
“Tôi bắn vào chiếc tăng 1 phát nữa”, Gromov
nói. “Và tôi thấy trước hết là tôi đã bắn trúng nó. Tôi thở phào. Ngọn lửa xanh
phụt ra từ tấm giáp như 1 tia chớp. Tôi hiểu ngay viên đạn chống tăng của tôi
đã xuyên vào trong xe và tạo ra ngọn lửa xanh đó. Rồi có 1 chút khói bốc lên.
Bọn Đức trong xe bắt đầu gào thét. Tôi chưa từng nghe tiếng người nào thét lên
kiểu đó, và ngay sau đó trong xe có tiếng nổ lách tách. Chiếc tăng cứ kêu lách
tách, lách tách. Rồi đạn trong xe bắt đầu nổ. Và sau đó là ngọn lửa bùng lên,
bốc cao lên trời. Chiếc tăng vậy là rồi đời”.
Trung đoàn trưởng Savinov, khuôn mặt tốt
bụng đặc Nga, mắt xanh, da rám nắng đỏ au, trên mũ sắt có 1 vết đạn lõm sâu.
“Khi viên đạn bắn trúng tôi”, Savinov nói, “tôi ngất xỉu và nằm thẳng cẳng mất
15 phút. 1 tên Đức đã làm tôi choáng”.
Ngay cả thường dân cũng bị 2 phía bắt
làm 1 số việc khi 2 bên đều nhận thấy đây có thể là trận đánh then chốt của cả
cuộc chiến.
Những gián điệp. 1 cậu nhóc 20 tuổi có thể
báo nơi đặt sở chỉ huy quân Đức nhờ vào những đường dây thông tin, bếp và sự đi
lại của các giao liên. Bọn Đức đã nói với 1 phụ nữ: “Nếu mày không đi và trở về
đây, chúng tao sẽ bắn 2 con gái của mày”.
Phía Soviet tỏ ra quyết liệt hơn đối thủ
khi buộc quân sĩ tham gia tấn công. Mệnh lệnh số 227 của Stalin - “Không lùi 1
bước” - chỉ thị cho mỗi chỉ huy tập đoàn quân tổ chức “từ 3 đến 5 đơn vị chặn
hậu được trang bị tốt (với khoảng 200 người mỗi đơn vị) bố trí ở tuyến 2 để
“chiến đấu chống lại sự hèn nhát” bằng cách bắn hạ bất cứ binh sĩ nào định bỏ
chạy”. Ở khu công nghiệp phía bắc Stalingrad, Grossman đã tới gặp Đại tá S. F.
Gorokhov, người sau này chỉ huy Lữ đoàn 142.
Sau cuộc xung phong thứ 7, Gorokhov nói với
chỉ huy đơn vị chặn hậu: “Nào, bắn vào lưng người khác thế là đủ rồi đấy. Hãy
tiến lên và tham gia xung phong”. Viên chỉ huy đơn vị chặn hậu và người của ông
ta tham gia vào cuộc xung phong, và bọn Đức bị đánh bật.
Sức phòng thủ của Stalingrad được tăng
cường bởi thứ kỷ luật sắt máu nhất. Khoảng 13.500 binh sĩ đã bị hành quyết
trong 5 tháng chiến đấu, phần lớn là trong những ngày đầu khi nhiều đơn vị tan
vỡ. Grossman được nghe về những “hành vi bất thường”, ngôn ngữ hành chính Soviet
để chỉ việc “phản bội Tổ quốc”, 1 loại tội phạm có định nghĩa rất rộng.
Một hành vi bất thường. Bản án. Hành quyết.
Người ta lột quần áo rồi chôn anh ta. Đến đêm anh ta trở lại đơn vị trong bộ đồ
lót dính đầy máu. Anh ta lại bị bắn.
Đây có thể là 1 trường hợp khác, nhưng
nó gần giống những gì xảy ra ở Sư 45 Bộ binh khi đội hành quyết gồm các đặc vụ
NKVD phối thuộc vào Sư đoàn đã không giết chết 1 người đã bị kết án tử hình, có
lẽ do rượu đã làm họ mất khả năng ngắm bắn*. Người lính này, giống như nhiều
người khác, bị kết án tử hình vì tự gây thương tích. Sau khi bắn anh ta, đội
hành quyết chôn xác vào 1 hố đạn pháo gần đó, người bị bắn sau đó đã tự chui
lên và quay lại đại đội của mình chỉ để rồi lại bị xử bắn lần nữa. Thường thì
những người bị kết án sẽ bị buộc cởi hết quần áo trước khi bị bắn để người khác
khi được phát lại bộ quân phục này sẽ không ngã lòng trước những vết đạn lỗ
chỗ.
*[Sư 45 Bộ binh chuyển thành Sư 74 Bộ binh Cận
vệ ngày 1/3/1943 để tưởng thưởng cho những đóng góp của họ tại Stalingrad. Sư
đoàn nằm trong đội hình Tập đoàn quân 62, sau này là Tập đoàn quân 8 Cận vệ cho
đến hết chiến tranh]
1 số tướng lĩnh Soviet không ngần ngại
đánh cả các thuộc cấp có địa vị cao dù tệ đánh lính của sĩ quan và hạ sĩ quan
là 1 trong những đặc tính đáng ghét nhất của quân đội thời Sa hoàng.
Cuộc nói chuyện giữa Đại tá Shuba và
Tarasov với chỉ huy Tập đoàn quân:
“Cái gì?”
“Xin cho tôi nói lại lần nữa...?”
“Cái gì?”
“Xin cho tôi nói lại lần nữa...?”
“Ông ấy đấm giữa mồm Shuba. Tôi (chắc là
Tarasov) vẫn đứng nguyên, cố thụt lưỡi vào sâu và nghiến chặt 2 hàm răng vì tôi
sợ cắn phải lưỡi hay ra khỏi đây mà không còn cái răng nào”.
Trong thời điểm khủng hoảng này của cuộc
chiến, Grossman ghi lại trong các cuốn sổ nhiều câu chuyện về thói quan liêu
trong quân đội và chính quyền Soviet.
Các đơn vị xe tăng ta đã bị máy bay đánh
bom suốt 3 ngày, suốt thời gian đó các bức điện báo cáo về tình trạng trên còn
bận di chuyển giữa các mắt xích khác nhau trong hệ thống chỉ huy.
1 sư đoàn bị bao vây, đồ tiếp tế được thả
dù xuống, nhưng sĩ quan phụ trách hậu cần không muốn cấp phát thực phẩm vì không
có người ký hóa đơn.
1 sĩ quan chỉ huy trinh sát không thể cho
phép làm điều gì đó nếu không có nửa lít vodka hay tệ hơn là không có thứ anh
ta cần là 1 tấm lụa giá 80 rúp 50 kopeck.
Thông tin được nhắc đi nhắc lại: Yêu cầu
các phi vụ đánh bom.
1 chiếc máy bay bốc cháy, phi công muốn bảo
toàn nó nên không chịu nhảy dù. Anh ta đưa được chiếc máy bay về sân bay. Người
anh cháy sém, chiếc quần cũng cháy. Tuy vậy tay sĩ quan hậu cần từ chối cấp
quần mới cho anh vì chưa đủ thời hạn ngắn nhất để được phép đổi đồ cũ lấy đồ
mới. Thói quan liêu này phải vài ngày sau mới chấm dứt.
1 chiếc Yu-53 chứa đầy nhiên liệu bốc cháy
trong 1 đêm quang đãng. Phi công nhảy dù.
Stalin vô cùng giận dữ khi nghe được vào
ngày 3/9 rằng Stalingrad đã bị bao vây trên bờ tây Volga. Đối với tướng
Yeremenko, Tư lệnh Phương diện quân Stalingrad, và Nikita Khrushchev, đại biểu
Hội đồng Quốc phòng kiêm chỉ huy chính trị, câu hỏi then chốt là ai sẽ được
trao trách nhiệm phòng thủ thành phố. Ứng cử viên cho trọng trách này sẽ phải
tiếp quản Tập đoàn quân 62 đang trong tình trạng mất tinh thần và thiệt hại
nặng, tập đoàn quân này đã bị cắt rời khỏi đơn vị bạn ở phía nam là Tập đoàn
quân 64 vào ngày 10/9.
Ngày hôm sau, 11/9, sở chỉ huy của
Yeremenko đặt dưới hệ thống hầm ngầm qua đèo Tsaritsa đã nằm dưới tầm hỏa lực
bắn thẳng của địch. Tổng biên tập của Grossman, Ortenberg, đã cùng với nhà văn
Konstantin Simonov tới sở chỉ huy này hôm đó. Họ đã nói chuyện với Khrushchev đang
trong tình trạng “thảm hại” vì nhận ra rằng thật khó để châm thuốc hút dưới
đường hầm này vì thiếu không khí. Khi Ortenberg và Simonov tỉnh dậy vào sáng
hôm sau, họ nhận thấy sở chỉ huy đã chuyển đi nơi khác khi họ đang ngủ. Stalin,
vẫn đang trong tâm trạng tức tối, đã bị buộc phải chấp thuận cho Yeremenko rút
sở chỉ huy Phương diện quân Stalingrad qua bên kia sông Volga. Tướng Vasily
Chuikov, 1 chỉ huy cứng rắn và không khoan nhượng, được triệu đến nắm quyền chỉ
huy Tập đoàn quân 62 vẫn còn trên bờ tây*.
*[Tướng Vasily Ivanovich Chuikov (1900 - 1982) chỉ huy Tập đoàn quân
4 trong cuộc xâm lược Ba Lan năm 1939, sau đó chỉ huy Tập đoàn quân 9 trong
chiến tranh Xô - Phần. Từ năm 1940 - 1942, ông là tùy viên quân sự tại Trung
Quốc. Sau trận Stalingrad, Tập đoàn quân 62 do ông chỉ huy được chuyển thành
Tập đoàn quân 8 Cận vệ và ông tiếp tục chỉ huy nó trên suốt các chặng đường
chiến tranh cho đến thắng lợi cuối cùng tại Berlin, nơi ông đã tiếp nhận Văn
bản Đầu hàng từ tướng Đức Hans Krebs. Từ năm 1949 đến 1953 ông là Tham mưu
trưởng các lực lượng vũ trang Soviet tại Đông Đức, từ 1960 - 1961 ông là Thứ
trưởng Bộ Quốc phòng]
Grossman sau này đã phỏng vấn tất cả
những nhân vật liên quan nói trên.
Khrushchev - Mệt mỏi, tóc bạc trắng, béo
phị. Trông hơi giống Kutuzov. Yeremenko - Đã từng bị thương 7 lần trong cuộc
chiến này.
Yeremenko nhất định đòi được chọn
Chuikov.
“Chính tôi đã tiến cử Chuikov. Tôi biết ông
ấy, ông ta chưa hề biết sợ... Tôi biết Chuikov từ hồi còn hòa bình, tôi thường
hạ ông ấy trong những cuộc thao diễn. “Tôi biết cậu dũng cảm thế nào”, tôi nói
với ông ta, “nhưng tôi không cần kiểu can đảm đó. Đừng ra những quyết định vội
vàng như kiểu anh vẫn làm”.
Theo lời Chuikov, cuộc nói chuyện với
Yeremenko và Khrushchev đã diễn ra như sau:
“Yeremenko và Khrushchev nói với tôi:
“Anh phải bảo vệ bằng được Stalingrad. Anh
cảm thấy sao?”.
“Rõ!”.
“Không, thế chưa đủ cho 1 lời tuân lệnh,
anh nghĩ thế nào về lệnh này?”.
“Nó có nghĩa là chết. Theo lệnh này chúng
tôi sẽ đánh đến chết”.
Trong cuốn Hồi ký viết thời Khrushchev
nắm quyền, Chuikov kể lại cuộc nói chuyện này hơi khác:
“Đồng chí Chuikov”, Khrushchev nói, “đồng
chí hiểu nhiệm vụ của mình như thế nào?”.
“Chúng tôi sẽ bảo vệ thành phố hoặc chết
trong khi thi hành nhiệm vụ”, Chuikov trả lời.
Yeremenko và Khrushchev nhìn Chuikov và bảo
ông đã hiểu nhiệm vụ của mình rất chính xác.
Như ta thấy sau này, Grossman đã trở nên
vỡ mộng sau khi chứng kiến sự kiêu căng và đố kỵ của các tướng lĩnh chỉ huy
Stalingrad sau trận đánh, tất cả họ đều cho rằng vai trò của mình trong trận
đánh đã không được đánh giá đúng mức. Yeremenko đã công khai khoác lác về bản
thân và cố gắng hạ thấp Khrushchev.
“Tôi đã từng là cai đội trong cuộc Đại
chiến trước và hạ được 22 tên Đức... Có ai lại muốn chết? Chẳng ai háo hức với
chuyện giết chóc... Vậy mà tôi đã phải ra những quyết định tàn nhẫn như thế
này: “Xử bắn ngay tại chỗ!”.
“Khrushchev đề nghị chúng tôi nên đặt mìn
thành phố. Tôi gọi điện thoại cho Stalin về việc đó. “Để làm gì?” Stalin hỏi.
“Tôi sẽ không để cho Stalingrad đầu hàng”,
tôi nói. “Tôi không muốn đặt mìn thành phố”.
“Sau đấy nói với Khrushchev là cút cha hắn
đi”, Stalin trả lời”. (Nguyên văn: fuck off)
“Chúng ta phải chân thành cảm ơn pháo binh
và những người lính. Các pháo đài của họ thật là tệ hại”.
Sự thiếu hụt các công trình phòng thủ
tại Stalingrad là vấn đề duy nhất được tất cả các chỉ huy cao cấp đồng ý.
Chuikov phát hiện ra rằng các chiến lũy có thể bị xô đổ dễ dàng chỉ bằng xe
tải. Gurov chỉ huy Chính trị Tập đoàn quân 62 nói rằng chẳng có 1 pháo đài nào
tồn tại trong thực tế, và Tham mưu trưởng Krylov thì nói những cái được gọi là
pháo đài đó thật nực cười. “Trong việc phòng thủ Stalingrad”, Chuikov sau này
kể với Grossman, “các viên sư trưởng trông cậy vào máu hơn là vào dây thép gai”.
Chuikov đã trở thành người mà Grossman
hiểu rất rõ trong suốt cuộc chiến, viên tướng này cũng thích giảng giải về kinh
nghiệm trước đây của ông và vai trò của ông ở Stalingrad. “Tôi đã chỉ huy 1
trung đoàn khi còn ở tuổi 15”, ông kể cho Grossman về thời ông tham gia Nội
chiến Nga. “Tôi cũng từng là chỉ huy nhóm cố vấn cho Tưởng Giới Thạch”, Chuikov
nói thêm khi đang kể về năm 1941. Ông không đề cập đến chuyện việc ở Trung Quốc
chứ không có mặt trong mùa hè thảm họa khi cuộc chiến bắt đầu là 1 may mắn lớn.
Tập đoàn quân của Chuikov không chỉ mất
tinh thần và thiệt hại nặng. Chỉ còn lại dưới 20.000 người, Tập đoàn quân này
yếu hơn hẳn đối phương cả về quân số lẫn trang bị tại các khu vực then chốt ở
trung tâm Stalingrad. Tại đây quân Đức có 4 sư bộ binh, 2 sư thiết giáp và 1 sư
cơ giới đánh từ phía tây tới nhằm hướng sông Volga. 2 mục tiêu then chốt của
chúng là Mamaev Kurgan, 1 chiến lũy thời cổ của người Tartar nằm trên đồi cao
102m (thường gọi là Điểm cao 102), và bến phà qua sông Volga nằm ngay gần Quảng
trường Đỏ (của Stalingrad). Chuikov tới bến phà này vào đêm 12/9 ngay sau khi
được Yeremenko và Khrushchev bổ nhiệm làm chỉ huy Tập đoàn quân 62.
Nhờ ánh sáng từ những ngôi nhà đang
cháy, ông tới được Mamaev Kurgan nơi sở chỉ huy Tập đoàn quân 62 vừa được thiết
lập tạm thời. Tình hình đã trở nên tuyệt vọng hơn cả những gì ông từng lo sợ.
“Tôi nhìn Mamaev Kurgan mà như trong mơ”, Chuikov sau này kể với Grossman như
vậy.
Dưới quyền chỉ huy của ông lúc này chỉ
còn 1 đơn vị duy nhất chưa bị sứt mẻ là Sư 10 Bộ binh NKVD của Đại tá Sarayev,
nhưng các đơn vị của nó nằm rải rác và Sarayev, 1 sĩ quan nằm trong hệ thống
ngành dọc của NKVD, không sẵn sàng đưa người của mình nằm dưới sự quản lý của
Hồng quân. Gurov, chỉ huy Chính trị Tập đoàn quân của Chuikov, đã phê phán kịch
liệt sư đoàn NKVD này.
“Sư đoàn của Sarayev nằm rải rác trên toàn
mặt trận và vì thế trên thực tế chẳng chịu sự quản lý nào. Sư đoàn của Sarayev
đã không hoàn thành nhiệm vụ. Nó chẳng bảo vệ các vị trí phòng thủ đã được
giao, cũng không giữ gìn được trật tự trong thành phố”.
Trong những năm trước, chẳng viên chỉ
huy quân đội nào đủ can đảm đối mặt với 1 sĩ quan của Beria. Nhưng Chuikov đang
đối mặt với thảm họa rồi, ông không e ngại chuyện đó nữa. Hiển nhiên ông đã đe
dọa Sarayev về cơn giận dữ của Stalin nếu thành phố thất thủ sẽ dẫn đến điều
gì. Sarayev đã tuân lệnh và bố trí 1 trong các trung đoàn của mình án ngữ trước
bến phà sống còn theo đúng chỉ thị.
Chỉ sau này Grossman mới phát hiện
Chuikov cũng là 1 viên chỉ huy sẵn sàng nện thuộc cấp khi nổi điên. Thực ra
Chuikov là người tàn nhẫn, sẵn sàng hành quyết từ 1 lữ trưởng không hoàn thành
nhiệm vụ đến 1 lính trơn lùi bước trong trận đánh, nhưng lòng dũng cảm của ông
thì khỏi phải bàn.
“1 chỉ huy cần phải hiểu rằng thà mất đầu
còn hơn cúi người tránh 1 viên đạn Đức. Binh lính sẽ ghi nhận những điều đó”.
“Nhiệm vụ đầu tiên là phải làm cho các chỉ
huy dưới quyền thấm nhuần tư tưởng rằng con quỷ không quá đáng sợ như cách nó
được vẽ ra”.
“Trước hết là bạn đã ở đây, và chẳng có
đường nào thoát trừ phi bạn mất đầu hay mất chân... Mọi người đều biết ai quay
đầu chạy sẽ bị bắn tại chỗ. Cái đó còn đáng sợ hơn bọn Đức nhiều... Vâng, cũng
còn nhiệt huyết Nga nữa. Chúng tôi đã chọn 1 chiến thuật phản công. Chúng tôi
tấn công lại khi chúng đã mỏi mệt vì tấn công chúng tôi”.
Trong các cuốn hồi ký của mình, Chuikov
thẳng thắn thừa nhận khi bảo vệ Stalingrad ông đã tuân theo nguyên tắc “Thời gian là
xương máu”. Ông phải ngăn quân Đức lại bằng mọi giá và điều đó có nghĩa là ném
các trung đoàn và sư đoàn vừa mới tới vào các trận đánh ác liệt trong thành phố
ngay khi họ vừa đặt chân sang bờ đông và họ phải sẵn sàng xung trận khi vẫn còn
ở trên phà qua sông.
Cuộc tổng tấn công vào thành phố của Tập
đoàn quân 6 Đức mở màn ngay trước bình minh ngày 13/9. Chuikov thậm chí không
đủ thời gian để gặp các chỉ huy đơn vị trong đội hình Tập đoàn quân vì Sư 295
Bộ binh Đức đã tiến thẳng đến Mamaev Kurgan. 2 sư bộ binh khác nhằm hướng nhà
ga trung tâm và bến phà. Chuikov có lẽ chỉ có thể quan sát những gì đang diễn
ra từ dưới hào bằng kính tiềm vọng.
Tối hôm đó, Tổng hành dinh của Quốc
trưởng (Führer) chúc mừng Sư 71 Bộ binh Đức đã tiến thành công vào trung tâm
thành phố. Stalin tại Kremlin cũng nghe được tin này khi Yeremenko gọi điện
thoại thông báo đồng thời cảnh báo rằng 1 cuộc tấn công lớn khác có lẽ sẽ được
quân Đức tiếp tục tiến hành vào ngày mai. Stalin quay sang nói với tướng
Vasilevsky. “Lệnh cho Sư 13 Cận vệ của Rodimtsev ngay lập tức vượt sông Volga
và tìm xem còn đơn vị nào khác có thể gửi tiếp đi không”. Zhukov lúc này đang ở
đó nghiền ngẫm bản đồ khu vực chiến sự cũng được lệnh bay trở lại Stalingrad
ngay lập tức. Không ai còn nghi ngờ rằng thời điểm khủng hoảng đã đến.
Sở chỉ huy Tập đoàn quân của Chuikov giờ
lại hóa thành nằm ngay trên tuyến đầu sau cuộc tấn công hôm trước vào Mamaev
Kurgan. Vì vậy sớm hôm sau sở chỉ huy phải chuyển về phía nam, tới đường hầm
qua đèo Tsaritsa nơi Yeremenko và Khrushchev vừa rời khỏi. Gurov nói với
Grossman: “Khi chúng tôi rời khỏi Điểm cao 102, chúng tôi mơ hồ cảm thấy đó là
điều tồi tệ nhất. Chúng tôi không rõ tất cả sẽ kết thúc như thế nào”.
Trận đánh ngày 14/9 diễn ra 1 cách tồi
tệ đối với phía phòng thủ. Sư 295 Bộ binh Đức chiếm đồi Mamaev Kurgan đúng như
Chuikov đã lo ngại, nhưng mối đe dọa lớn nhất đến từ trung tâm thành phố, nơi 1
trong các trung đoàn NKVD của Sarayev bị ném vào 1 cuộc phản công đánh vào nhà
ga trung tâm. Trong ngày hôm đó nhà ga này đã đổi chủ nhiều lần.
1 sự kiện nổi bật tạo nên huyền thoại
Stalingrad sau này là cuộc vượt sông Volga dưới làn đạn của Sư 13 Bộ binh Cận
vệ do tướng Aleksandr Rodimtsev chỉ huy*. Sư đoàn này đã nhanh chóng kiệt sức
bởi cuộc vận động chiến này.
Grossman mô tả lại cuộc tiến quân và
cuộc đổ bộ lên bờ sông Volga qua lời kể của những người tham gia.
*[Sư 13 Bộ binh Cận vệ được thành lập ngày
19/1/1942 từ Sư 87 Bộ binh. Tướng Aleksandr Ilyich Rodimtsev (1905 - 1977) đã
từng được tặng Sao Vàng Anh hùng Liên Xô cho thành tích khi làm cố vấn quân sự
trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha, đặc biệt là cho những đóng góp của ông trong
Trận Guadalajara năm 1937, trong trận này các sư đoàn áo đen của Mussolini đã
bị đánh cho thua chạy tán loạn]
Con đuờng ngoặt về hướng tây nam và chúng
tôi bắt đầu gặp những cây thích và liễu. Những vườn táo trĩu quả trải ra xung
quanh. Và khi sư đoàn đi về phía Volga, chúng tôi nhìn thấy những đám khói đen
bốc cao. Không ai có thể nhầm lẫn nó với bụi, đám khói hung hãn, chuyển động
nhanh, lấp lánh ánh lửa và đen như hỏa ngục: đó là khói từ những kho nhiên liệu
đang cháy bốc lên từ khu vực phía bắc thành phố. 1 mũi tên lớn đóng trên cành
cây ghi “Điểm vượt sông”, nó chỉ thẳng ra sông Volga... Sư đoàn không thể đợi
tới đêm để vượt sông. Mọi người nhanh chóng tháo các bọc chứa vũ khí đạn dược,
cả các bọc đường và xúc xích nữa.
Chiếc sà lan lắc lư trên sóng, các chiến sĩ
sư đoàn bộ binh cảm thấy hoảng vì thấy quân địch ở khắp nơi, trên trời, bờ bên
kia, trong khi họ phải đối đầu với chúng mà không có cảm giác thoải mái vì được
dẫm chân lên mặt đất. Không khí trong vắt đến phát sợ, bầu trời trong xanh đến
phát sợ, mặt trời sáng rực rỡ 1 cách không thương xót còn mặt nước trôi bên
dưới thì có vẻ quỷ quyệt và rất thiếu tin cậy. Chẳng ai cảm thấy mừng vì không
khí trong lành được, hơi mát của con sông như chọc vào lỗ mũi làm người ta phát
bực, hơi thở mềm mại và ẩm ướt của Volga chạm vào làm những con mắt đỏ vằn máu.
Các chiến sĩ trên các con phà, sà lan và xuồng máy đều im lặng. Ôi trời, sao
lại có thứ không khí ngột ngạt và những đám rác dày đặc trên mặt sông thế này
nhỉ? Tại sao thứ khói xanh từ các hộp tạo khói ngụy trang lại trong veo thế
nhỉ? Mọi cái đầu đều quay hết bên này đến bên kia với vẻ lo lắng. Mọi người đều
liếc nhìn lên bầu trời.
“Nó đang bổ nhào, quân chấy rận!”. Ai đó
hét lên.
Bất thần, 1 cột nước cao màu xanh nhạt vọt
lên cách chiếc sà lan độ 50m. Ngay sau đó là 1 cột nước nữa dựng lên rồi vỡ tan
ra gần hơn nhiều, rồi cột thứ 3. Bom nổ ngay trên mặt nước, mặt sông Volga sủi
ngầu bọt. Đạn bắt đầu bắn trúng thành sà lan, những người bị thương bật khóc
khe khẽ dù đã cố giấu việc bị thương đó, sau đó là những phát đạn súng trường
rít trên mặt nước.
1 khoảnh khắc khủng khiếp khi 1 viên đạn
pháo lớn bắn trúng sườn 1 chiếc phà nhỏ. Ánh chớp lửa nhoáng lên, khói đen trùm
lên chiếc phà, rồi sau đó mới nghe thấy tiếng nổ, ngay tiếp theo là tiếng thét
thất thanh như thể tiếng thét đó sinh ra từ tiếng nổ vậy. Hàng nghìn người đã
nhìn thấy những chiếc mũ sắt xanh của những người đang bơi quanh những mảnh gỗ
vụn dập dềnh trên mặt nước.
Chuikov đã nói với Rodimtsev ai vượt
được sang bờ tây trong chiều ngày 14/9 sẽ được nhận huân chương, đây là 1 hành động
cực kỳ liều lĩnh vì quân của Rodimtsev sẽ phải bỏ lại toàn bộ trang thiết bị
nặng, chỉ mang theo lựu đạn và vũ khí cá nhân. Rodimtsev đã kể lại chuyện này
cho Grossman trong giai đoạn sau của trận đánh.
“Chúng tôi bắt đầu vượt sông vào 17h00 ngày
14/9, chuẩn bị vũ khí ngay trong lúc hành tiến. 1 chiếc sà lan bị phá hủy (vì
bom) khi đang vượt sông; 41 người chết còn 20 người sống sót”.
Đã có rất nhiều bài viết về cuộc đổ bộ
lên bờ sông Volga của Sư 13 Bộ binh Cận vệ, họ đã lao thẳng vào quân Đức khi chúng
đã tiến chiếm được 1 đoạn bờ sông dài khoảng 200m. Nhưng Grossman còn được nghe
về 1 nhiệm vụ đặc biệt giao cho 1 nhóm nhỏ gồm 6 chiến sĩ của sư đoàn.
Trung úy công binh Chermakov, các trung sĩ
Dubovy và Bugaev cùng 3 lính Hồng quân Klimenko, Zhukov và Messereshvili nhận
lệnh cho nổ tòa nhà kiên cố Ngân hàng Nhà nước. Mỗi người mang theo 25kg thuốc
nổ, họ đã sang được bờ bên kia và cho nổ tung tòa nhà.
Chắc hẳn đã có những biểu hiện hèn nhát
trong cuộc vượt sông này nhưng các báo cáo chính thức của phía Soviet luôn lấp
liếm chuyện đó.
7 binh sĩ người Uzbek đã bị tuyên án tự gây
thương tích cho bản thân. Tất cả đều bị bắn.
Kỳ công của Sư 13 Bộ binh Cận vệ đã thu
hút sự chú ý lớn lao của giới truyền thông Soviet và cả thế giới. Rodimtsev đã
khiến Chuikov ghen tức phát điên khi trở thành vị anh hùng nổi tiếng thế giới.
Grossman tuy vậy lại quan tâm tới lòng dũng cảm của những người lính và sĩ quan
cấp thấp hơn là những cuộc kèn cựa giữa các cấp chỉ huy. Ông đã thuyết phục
được sở chỉ huy sư đoàn của Rodimtsev trao cho mình những báo cáo từ cấp dưới
và ông đã mang theo chúng trong ba lô suốt cuộc chiến tranh. Ông đã trích lại
các báo cáo này trong bài viết “Tsaritsyn-Stalingrad” và trong cuốn tiểu thuyết
“Vì Chính Nghĩa” (For a Just Cause).
Báo cáo
Thời gian: 11h30, 20/9/1942
Gửi: Đại úy Cận vệ Fedoseev - Tiểu đoàn
trưởng tiểu đoàn 1.
Xin báo cáo tình hình như sau: quân địch
định bao vây đại đội tôi bằng cách tung 1 số lính trang bị tiểu liên đánh vào
sau lưng chúng tôi. Tuy nhiên mọi cố gắng của chúng đều thất bại mặc dù quân
chúng đông hơn nhiều. Các binh lính và sĩ quan của tôi đã thể hiện lòng can đảm
và chủ nghĩa anh hùng khi đối mặt với bọn chó phát xít. Bọn Fritz sẽ không bao
giờ thành công chừng nào chưa dẫm được lên xác tôi. Các chiến sĩ Cận vệ không
bao giờ rút lui. Nhiều binh lính và sĩ quan đã hy sinh như những người anh hùng
nhưng quân địch đã không thể phá vỡ được tuyến phòng ngự quân ta. Hãy để cả
nước biết rằng Đại đội 3 Bộ binh thuộc sư 13 Bộ binh Cận vệ sẽ không để 1 tên
chó má nào vượt qua được chừng nào Đại đội trưởng còn sống. May ra chúng sẽ chỉ
qua được khi nào Đại đội trưởng chết hay bị thương nặng. Hiện Đại đội trưởng
Đại đội 3 đang bị stress, cảm thấy không được khỏe, tai điếc đặc, chóng mặt,
chảy máu cam và cụt cả 2 chân. Mặc dù vậy những chiến sĩ Cận vệ, cụ thể ở đây
là các Đại đội 2 và 3, sẽ không rút lui. Chúng tôi sẽ chết như những người anh
hùng vì thành phố của Stalin. Hãy để đất nước Soviet hóa thành mồ chôn quân
địch. Đại đội trưởng Đại đội 3 Kolaganov đã tự tay giết 2 tên lính súng máy
Fritz, chiếm được khẩu súng máy và các giấy tờ mà chúng tôi trình sở chỉ huy
tiểu đoàn kèm theo đây.
Kolaganov (đã ký)
Tập đoàn quân 62 trong tình trạng thua
kém triền miên về mặt lực lượng so với đối phương đã cố gắng làm những gì tốt
nhất có thể, họ đã đã thiết lập được 1 vành đai phòng thủ nhỏ chưa từng thấy
dọc theo bờ tây Volga. Rodimtsev nói với Grossman: “Chúng tôi chiến đấu mà không
có lực lượng dự bị. 1 tuyến phòng thủ mỏng dính, đó là tất cả những gì chúng
tôi có”.
Yeremenko cũng nói: “Tôi đang vã mồ hôi
hột đây, bọn Đức ép rất mạnh mà quân ta thì được bố trí 1 cách thật là ngu
ngốc. Tôi lúc nào cũng cảm thấy nóng ran người mặc dù vốn rất khoẻ mạnh. Chúng
tôi vừa mới cho quân ăn ngay trong trận đánh xong. Thế đấy”.
Gurov chỉ huy Chính trị Tập đoàn quân 62 chỉ
ra 1 thực tế: “Có những ngày chúng tôi phải chuyển đi tới 2.000 - 3.000 người bị thương”.
Krylov tham mưu trưởng Tập đoàn quân 62
thì nói về phương thức điều hành trận đánh của quân Đức.
“Chúng tin rằng sử dụng hỏa lực vượt trội
sẽ làm quân ta choáng váng. Những trang bị nặng của chúng tỷ lệ nghịch với khả
năng của những lính bộ binh Đức bình thường. Các sĩ quan chỉ huy cấp trung của
quân Đức hoàn toàn thiếu khả năng sáng tạo.
“Những ngày đầu tháng 9 đặc biệt khó khăn,
mọi thứ bắt đầu trở nên hỗn loạn. Vào các buổi tối tôi có thể phải tự mình đi
truyền lệnh cho các binh sĩ còn ban ngày tôi chỉ làm cái việc đếm từng phút chờ
đến khi đêm xuống”.
Người Đức biết rất rõ rằng điều cần
thiết duy nhất là phải phá vỡ chiến tuyến của Tập đoàn quân 62 dọc theo sông
Volga, sử dụng cả pháo binh lẫn Luftwaffe. Đó là lý do dẫn tới vô số cuộc tấn
công qua lại để giành giật Mamaev Kurgan, ngọn đồi mà từ đó có thể bắn thẳng
tới bất kỳ vị trí nào trên mặt đất bằng phẳng xung quanh. Các binh sĩ vận tải đường
sông mà trong đó rất nhiều người vốn là dân thuyền chài Volga đã phải đối mặt
với nguy hiểm nhiều không kém các frontoviki (lính tuyến đầu) trên bờ tây.
Sĩ quan phụ trách bến phà, trung tá
Puzyrevsky, đã ở đây từ 2 tuần nay. Người tiền nhiệm của ông, đại úy Eziev, đã
hy sinh vì sà lan trúng bom. Perminov, chỉ huy quân lực, đã ở đây được 57 ngày.
Tiểu đoàn phó Ilin đã được máy bay đem đi sau khi bị thương nặng. Smerechinsky
là sĩ quan phụ trách bến phà trước Eziev cũng đã hy sinh. Tiểu đoàn trưởng, người
đã chỉ huy việc thiết lập điểm vượt sông Volga này, hy sinh vì trúng mảnh bom.
Sholom Akselrod, chỉ huy trung đội kỹ thuật, hy sinh vì sà lan trúng thủy lôi.
Politruk (Chính ủy) Samotorkin bị thương vì mìn, politruk Ishkin bị 1 quả đạn
pháo tiện mất 1 chân.
Đối với các đơn vị tăng cường đang được
tập trung ở phía đối diện bờ tây, 1.300m nước bề rộng con sông đủ để làm bất cứ
ai cũng phải kinh. Nhưng Chuikov với kiểu bông đùa quái ác đặc trưng đã chỉ ra
rằng vượt sông mới chỉ là bắt đầu.
“Khi tiến vào đây, các binh sĩ thường bảo: “Ta
đang vào địa ngục”. Và sau khi đã ở đây 1 - 2 ngày, họ nói: “Không, đây không
phải địa ngục, đây là nơi còn tệ hơn địa ngục gấp 10 lần”. Điều đó tạo nên lòng
căm thù cao độ đến mức phi nhân tính nhằm vào bọn Đức. Vài lính Hồng quân được
giao áp giải 1 tù binh nhưng hắn đã không bao giờ đến được đích, tên tù binh
xấu số đã chết vì sợ hãi. “Mày có muốn uống chút nước sông Volga không?”. Họ
hỏi, rồi ấn mặt hắn xuống nước 10 - 12 lần”.
Sự đau khổ có vẻ đã trở thành số phận
của toàn nhân loại. Cuối tháng đó, Grossman nhận được thư vợ, Olga Mikhailovna,
kể về cái chết vì bom của Misha, con riêng của bà. Ông đã viết 1 bức thư trả
lời vụng về hy vọng làm nhẹ bớt sự tuyệt vọng của vợ.
Vợ của anh, những gì tốt đẹp nhất của anh.
Hôm nay anh đã nhận được thư em mà ai đó vừa mang từ Moscow tới, nó làm anh đau
đớn sâu sắc. Đừng để tinh thần suy sụp nhé Lyusenka. Đừng tuyệt vọng nhé. Có
rất nhiều điều đau khổ xung quanh ta, anh đã thấy nó rất nhiều. Anh đã từng
thấy những bà mẹ mất chồng và 3 con trong cuộc chiến này. Anh đã thấy nhiều
người vợ mất chồng, mất con. Anh đã thấy những phụ nữ có con nhỏ bị chết trong
các trận oanh tạc, và tất cả những phụ nữ đó đều không để mình tuyệt vọng. Họ
vẫn làm việc, trông đợi chiến thắng, họ không để mất tinh thần. Họ đã tiếp tục
sống dù điều đó rất khó khăn. Hãy mạnh mẽ như họ, người yêu của anh, giữ
vững... Em còn có anh và Fedya, em còn tình yêu và cuộc sống của em có ý nghĩa
với nhiều người.
Anh đã được đề nghị tặng thưởng Huân chương
Sao Đỏ lần thứ 2 nhưng cũng như trước, điều đó chẳng có ý nghĩa gì. Anh đã lấy
1 bức thư từ 1 người lính đã hy sinh; nó được viết bằng nét chữ trẻ con nguệch
ngoạc, cuối thư là những lời sau: “Con nhớ bố rất nhiều. Hãy trở về thăm con,
con mong được nhìn thấy bố làm sao, dù chỉ 1h cũng được. Con đang viết bức thư
này mà nước mắt rơi. Bố, về thăm con đi”.
Grossman cũng viết cho bà vú già nói
tiếng Đức của mình, Zhenni Genrikhovna Henrichson, người mà nhiều năm sau ông
đã đưa vào cuốn tiểu thuyết “Cuộc đời và Số phận”.
Chắc bà đã biết về nỗi đau khủng khiếp:
Misha đã chết. Tai họa đã giáng xuống gia đình ta, Zhenni Genrikhovna ạ. Hãy
viết thư cho tôi theo địa chỉ mới: Binh trạm 28, Đơn vị 1, V. S. Grossman (Đừng
ghi nơi tôi ở trong mục địa chỉ). Bà có nghe gì về bố tôi không? Ông đang ở
đâu? Tôi không có địa chỉ để viết thư cho ông.
Grossman ở điểm này đã cho thấy ông không
hề biết gì về việc người cháu trai, Yura Benash, 1 trung úy trẻ đang ở
Stalingrad đã cố gắng liên lạc với ông sau khi đọc được những bài báo, đã hy
sinh trong 1 trận đánh.
15
Học viện Stalingrad
Chính Chuikov là người đã nghĩ ra thành
ngữ Học viện Stalingrad về Chiến tranh đường phố. Ý định của Chuikov là giữ
quân Đức trong tình trạng liên tục bận rộn. Ông lệnh cho binh sĩ đào hào gần vị
trí địch hết mức có thể vì điều này sẽ làm Luftwaffe, lực lượng nắm ưu thế
tuyệt đối vào ban ngày, khó khăn hơn trong việc phân biệt giữa 2 đạo quân đang
đối đầu nhau. Chuikov khoe với Grossman:
“Trong các trận không kích quân ta và quân
Đức nhiều khi chạy lao vào nhau và ẩn núp trong cùng 1 hố. Bọn Đức không thể
tấn công tuyến đầu quân ta từ trên không. Ở Nhà máy Tháng Mười Đỏ chúng đã tự
hủy diệt nguyên 1 sư đoàn của chính chúng”.
Grossman nhấn mạnh phương thức đánh áp
sát này trong 1 bài viết lúc gần kết thúc trận đánh.
Đôi khi các chiến hào của tiểu đoàn đào
cách quân địch chỉ 20m. Người lính gác có thể nghe thấy tiếng bước chân của
quân địch trong hào của chúng và tiếng chúng cãi nhau khi chia đồ ăn. Anh còn
có thể nghe thấy tiếng dậm chân của tên lính gác Đức trong đôi ủng rách của hắn
suốt đêm. Mọi thứ ở đây đều có thể là 1 vật chuẩn, mỗi hòn đá cũng có thể là 1
mốc giới.
Cách để tiêu hao dần quân Đức là tổ chức
những đợt tấn công đêm quy mô nhỏ khiến chúng không thể ngủ được và đâm ra sợ
bóng đêm, sử dụng những kỹ năng thợ săn của cánh lính gốc Sibêri. Các tay bắn
tỉa cũng là 1 vũ khí tinh thần lợi hại giúp nâng cao sĩ khí của quân đội
Soviet.
Chuikov có lẽ cũng là người sẵn sàng
phung phí mạng sống binh sĩ như các tướng lĩnh Soviet khác, đặc biệt là trong
những ngày đầu khi ông ra lệnh mở những đợt phản công nối tiếp nhau nhằm kìm
hãm đà tiến của quân Đức - nhưng ông cũng nhanh chóng nhận ra lợi điểm của lối
đánh áp sát, sử dụng những đơn vị nhỏ trang bị lựu đạn, tiểu liên, dao, xẻng đã
được mài sắc và súng phun lửa. Phương thức chiến đấu hung hiểm này thích hợp
với các cuộc đụng độ trong hầm ngầm, dưới cống rãnh và trong các đống đổ nát
của các công trình, nó được người Đức gọi là Rattenkrieg (Chiến thuật Chuột
cống). Sau đó Chuikov có kể với Grossman khi trận đánh vẫn còn đang diễn ra:
“Chiến đấu tại Stalingrad là 1 niềm tự hào
đối với mỗi người lính Nga. Các chiến sĩ ta đã chiếm và sử dụng vũ khí đạn dược
Đức, quân ta không chỉ chịu đựng các cuộc tấn công, quân ta còn phải tấn công
lại. Rút lui có nghĩa là tiêu. Nếu bạn lùi lại, bạn sẽ bị bắn. Ngay cả tôi nếu
làm thế, tôi cũng bị bắn... 1 người lính nếu đã qua được 3 ngày tại đây sẽ được
xếp vào diện kỳ cựu. Ở đây con người ta chỉ sống từng ngày. Các vũ khí cận
chiến chưa bao giờ được sử dụng như cách chúng được dùng ở Stalingrad... và
người của tôi không còn sợ xe tăng tí nào nữa, họ đều trở nên cực kỳ tháo vát,
ngay cả các giáo sư cũng không thể nghĩ ra nổi các mánh khóe như họ. Họ có thể
đào những cái hầm tốt đến mức bạn không hề phát hiện ra là có người trong đó dù
đang dẫm ngay trên đầu họ. Có khi lính của tôi ở ngay tầng trên, vài tên Đức ở
tầng dưới vặn máy hát, quân ta đục 1 lỗ trên sàn rồi bắn súng phun lửa qua
đó... Oh, xin báo cáo, thưa đồng chí, không hiểu gọi cái kiểu đánh này là gì
nữa!”.
Grossman bị mê hoặc vì cách mà những
người lính theo dõi, học hỏi và hoàn thiện các kỹ năng mới để diệt địch. Ông
đặc biệt quan tâm đến những người lính bắn tỉa và đã đi đến chỗ biết rất rõ 2
ngôi sao bắn tỉa của Stalingrad. Người thứ nhất là Vasily Zaitsev được lăng xê
thành ngôi sao sáng nhất của hệ thống tuyên truyền Soviet - trở thành nhân vật
do Jude Law đóng trong bộ phim “Enemy at the Gates” - vốn là 1 thủy thủ Hạm đội
Thái Bình Dương có căn cứ tại Vladivostok, trở thành lính Sư 284 gồm toàn dân
Sibêri do tướng Nikolai Batyuk chỉ huy*.
*[Sư 284 Bộ binh trở thành Sư 79 Bộ binh Cận vệ ngày 1/3/1943 để
tưởng thưởng cho những đóng góp của đơn vị này tại Stalingrad]
Người thứ 2 là Anatoly Chekhov, Grossman
đã làm phụ tá cho anh trong 1 vụ bắn tỉa để quan sát công việc của anh, là lính
Sư 13 Bộ binh Cận vệ do Rodimtsev chỉ huy. Có lẽ chính vì sự đố kỵ của Chuikov
với Rodimtsev mà những chiến công của Chekhov đã không được báo giới nhắc đến
nhiều như những chiến công của Zaitsev. Rodimtsev kể cho Grossman về Chekhov
khi 2 người gặp nhau vào tháng 10. “Lính Hồng quân Chekhov đã giết được 35 tên
phát xít trong chiến đấu. Tôi muốn cho anh ta nghỉ phép, anh ta đã giết được số
lính Đức đủ để thưởng phép đến hết đời”. Grossman sau đó đã đi phỏng vấn
Chekhov.
Anatoly Ivanovich Chekhov sinh năm 1923.
“Gia đình tôi chuyển tới Kazan năm 1931, tôi đã đi học tại đó trong 7 năm. Sau
đó bố tôi nghiện rượu và bỏ mẹ tôi cùng 2 người chị em gái. Tôi phải bỏ học mặc
dù là học sinh đứng đầu lớp. Tôi rất thích môn địa lý, nhưng tôi vẫn phải thôi
học... Có 1 thông báo xuất hiện vào ngày 29/3/1942, và tôi tình nguyện vào học
trường huấn luyện bắn tỉa. Thực ra tôi chưa từng bắn cái gì khi còn nhỏ, thậm
chí kể cả súng cao su. Kinh nghiệm bắn súng đầu tiên của tôi là lần bắn bằng
khẩu súng trường cỡ nòng nhỏ. Tôi đạt 9/50 điểm. Viên trung úy huấn luyện tỏ ra
rất giận dữ: “Mục tiêu quá dễ dàng nhưng cậu bắn quá tệ. Chúng tôi không thể
làm gì với cậu”. Nhưng tôi không mất tinh thần. Tôi bắt đầu học lý thuyết và
các loại vũ khí. Sau đó trước tiên tôi luyện bắn với 1 khẩu súng trường thích
hợp - nhắm vào ngực và vào đầu. Rồi tôi được cho 3 viên đạn và bắn trúng mục
tiêu. Từ đó tôi trở thành người bắn giỏi nhất trường. Tôi tình nguyện ra mặt
trận.
“Tôi muốn chính tay mình diệt địch. Đầu
tiên tôi nghĩ đến điều đó khi đọc báo, tôi muốn nổi tiếng. Tôi đã học cách phán
đoán khoảng cách bằng mắt, tôi không cần 1 dụng cụ quang học nào. Cuốn sách ưa
thích của tôi á? Thực ra tôi đọc không nhiều. Cha tôi nghiện rượu và ở gia đình
tôi mọi thứ đều tan hoang, thậm chí đôi khi tôi còn không phải làm việc nhà.
Tôi chẳng bao giờ có được góc của riêng mình.
“Tôi tham gia vào cuộc tấn công sáng ngày
15/9 đánh lên đồi Mamaev Kurgan... Tôi đã có cảm tưởng đây không phải là 1 cuộc
chiến, tôi thường dạy cho tiểu đội mình môn ngụy trang trên chiến địa và bắn.
Chúng tôi hét lên “Urra!” và chạy lên khoảng 200m. Sau đó súng máy địch khai
hỏa nhưng không làm chúng tôi dừng lại được. Tôi trườn đi như đã được dạy và bị
trượt 1 cái, tôi đã rơi vào 1 cái bẫy. Có 3 ổ súng máy và 1 chiếc xe tăng quanh
tôi. Tôi đã chọn cho mình 1 mục tiêu, vì vậy tôi không quay lại nhìn phía sau,
tôi biết tiểu đội sẽ không bỏ rơi tôi. Tôi bắn thẳng luôn ở khoảng cách chỉ 5m
vào mấy tên lính súng máy Đức đang nằm bên sườn và hạ cả 2 tên. Sau đó 3 khẩu
súng máy, 1 chiếc tăng và 1 khẩu cối bắt đầu bắn vào tôi cùng lúc. Tôi và 4
lính trong tiểu đội nằm dưới 1 hố bom từ 9h sáng tới 8h tối... Sau đó tôi được
thăng chức chỉ huy 1 trung đội cối.
“Khi tôi được giao 1 khẩu súng bắn tỉa, tôi
chọn vị trí trên tầng 5 của 1 tòa nhà. Có 1 bức tường và bóng của nó che chở
cho tôi. Khi mặt trời lên tôi trườn xuống tầng dưới. Từ đó tôi có thể nhìn thấy
ngôi nhà của bọn Đức cách đó chừng 100m, tại đó có những tên lính sử dụng tiểu
liên và lính súng máy, chúng ở đó suốt cả ngày, ngồi dưới tầng hầm. Tôi bò tới
đó vào 4h sáng, lúc đó trời bắt đầu hửng sáng. Tên Fritz (Đức) đầu tiên chạy ra
lấy nước cho chỉ huy rửa mặt. Mặt trời lúc này đang mọc, hắn chạy phía bên sườn
tôi. Tôi không nhìn nhiều vào mặt những tên Đức chạy ra mà chú ý đến quân phục.
Bọn chỉ huy mặc quần, jacket, đội mũ và không đeo thắt lưng, lính trơn đi ủng.
“Tôi ngồi trên bậc cầu thang, súng trường
đặt sau 1 lò nướng để khói sẽ được gió cuốn chạy dọc theo bức tường chờ đến khi
chúng đi ra. Tôi hạ 9 tên trong ngày đầu tiên và 17 tên trong 2 ngày. Chúng đưa
phụ nữ tới, tôi hạ luôn 2 người trong số 5 phụ nữ*. Sang ngày thứ 3 tôi nhìn
thấy 1 cái lỗ châu mai! 1 tên bắn tỉa. Tôi rình và bắn, hắn ngã xuống và gào
khóc bằng tiếng Đức. Bọn Đức phải dừng chuyển mìn tới và không thể đi lấy nước.
Tôi đã diệt được 40 tên Đức trong 8 ngày.
*[Không có phụ nữ phục vụ trong quân đội Đức
tại tiền tuyến, vì vậy chắc đó là những thường dân Nga được tuyển mộ hoặc bị
bắt buộc phục vụ cho quân Đức. Theo lệnh của Stalin, họ bị coi là phản quốc kể
cả do bị ép buộc mà phải phục vụ tại các hỏa điểm của quân Đức]
“Khi trời nắng, bóng của bức tường sẽ động
đậy nếu tôi di chuyển, vì vậy khi đó tôi không bắn. 1 tên bắn tỉa mới xuất hiện
bên 1 cửa sổ để mở... Tên bắn tỉa này đã dồn tôi đến tận chân tường, hắn đã bắn
tôi 4 lần, nhưng trượt. Tất nhiên phải bỏ vị trí này thì thật là tiếc. Vậy là
chúng đã không bao giờ uống nổi nước sông Volga. Chúng cần nước, tài liệu, đồ
ăn và đạn dược... riêng nước là chúng phải uống thứ nước bẩn thỉu chở bằng xe
lửa tới. chúng đi lấy nước bằng xô vào mỗi buổi sáng. Bắn 1 tên địch đang chạy
với tôi còn dễ hơn, dễ hơn cho cả tay tôi lẫn mắt tôi, hắn đứng yên bắn còn khó
hơn. Tên đầu tiên xuất hiện, hắn bước đi khoảng 5m. Tôi ngắm bắn hắn chệch 1
chút về phía trước, độ 4cm trước mũi hắn.
“Khi lần đầu tiên được giao khẩu súng bắn
tỉa, tôi đã không thể thuyết phục bản thân giết 1 mạng sống: 1 tên Đức đứng yên
1 chỗ nói chuyện suốt 4 phút, và tôi đã để hắn đi thoát. Khi tôi giết tên đầu
tiên, hắn ngã xuống ngay, 1 tên khác chạy ra cúi xuống tên vừa chết, tôi hạ
nốt... Khi giết người lần đầu cả người tôi run lên: người đàn ông đó chỉ muốn
ra lấy chút nước!... Tôi cảm thấy kinh hoàng: Mình đã giết 1 con người! Sau đó
tôi nhớ ra những người đó là ai và bắt đầu giết chóc chúng không áy náy.
“Tòa nhà đối diện đã sụp đổ chỉ còn lại từ
tầng 2 trở xuống. Vài tên Đức ngồi trên bậc cầu thang, số khác trên tầng 2. Đây
đó có những chiếc két sắt, tất cả tiền bên trong đã bị cháy*.
*[Trong bài báo trên tờ Krasnaya Zvezda,
Grossman đã thêm vào 1 số chi tiết: “Thỉnh thoảng mọi thứ bỗng trở nên câm
lặng, có thể nghe thấy cả tiếng những mảnh vữa rơi trong căn nhà đối diện nơi
bọn Đức đang đóng, nghe được tiếng chúng nói chuyện hoặc bước đi. Và thỉnh
thoảng bom đạn nổ dữ dội đến mức phải ghé vào tai đồng đội mà gào to hết mức có
thể, vậy mà đồng đội vẫn ra hiệu: “Tôi không thể nghe thấy gì hết”]
“Có vài cô gái đang sống trên đồi Kurgan.
Họ đốt lửa để nấu nướng. Mấy sĩ quan Đức trông chừng họ.
“Thỉnh thoảng bạn được nhìn thấy chuyện
này: 1 tên Fritz đang đi thì 1 con chó cách hắn 1 vài bước nhằm vào hắn mà sủa,
hắn bèn giết chết con chó. Nếu bạn nghe thấy tiếng chó sủa trong đêm thì có
nghĩa là bọn Fritz đang làm gì đó, đi lang thang chẳng hạn, và làm chó sủa.
“Tôi đã trở thành 1 thứ quái vật của loài
người: Tôi giết, tôi căm thù như thể đó là những việc bình thường trong đời.
Tôi đã giết bốn chục mạng người, 3 là bắn vào ngực, còn lại đều trúng đầu. Khi
bạn bắn, cái đầu hắn lập tức giật ra sau hoặc sang bên, hắn buông rơi vũ khí và
gục xuống... Pchelintsev cũng vậy, anh ta cũng đã rất lấy làm tiếc khi giết tên
thứ nhất và thứ 2, “Tôi phải làm sao đây?”.
“Tôi đã giết 2 sĩ quan, 1 trên đồi, tên còn
lại bên cạnh tòa nhà Ngân hàng Nhà nước. Hắn khoác áo trắng, tất cả đám lính Đức
đều dậm chân đứng nghiêm chào hắn. Hắn đang đi kiểm tra chúng, khi hắn muốn
băng qua phố tôi bắn hắn trúng giữa sọ, hắn ngã lăn ra ngay lập tức, giơ cả 2
chân đi giày sĩ quan lên.
“Thỉnh thoảng tôi rời khỏi hầm vào buổi
tối, nhìn quanh và trái tim ca hát. Tôi thích đi dạo độ nửa giờ trong thành phố
mà vẫn sống. Tôi đi ra và nghĩ: Sông Volga thật êm đềm, vậy sao những điều
khủng khiếp này lại xảy ra ở đây. Chúng tôi có 1 người là dân Stalingrad gốc,
tôi thường hỏi anh ta đâu là những câu lạc bộ, nhà hát và đi tản bộ bên bờ
Volga thì thế nào”.
Ban biên tập tờ Krasnaya Zvezda có lẽ
tin tưởng vào bài viết gửi theo đường điện tín nói trên hơn là bản thông cáo
báo chí dài 400 trang được gửi tới từ Stavka, Bộ Tổng tham mưu trực thuộc điện
Kremlin. Grossman đã thuyết phục được tổ điện báo viên của Phương diện quân
Stalingrad chuyển bài viết về Moscow. Họ đồng ý với lời yêu cầu giữa trận đánh
Stalingrad này vì người yêu cầu, tức là Grossman, đã chứng minh được ông quan
tâm đến những gì họ làm đến thế nào. Ortenberg là người đầu tiên nhận ra hiệu
quả và cả rủi ro trong các đề tài mà Grossman bỏ công viết ra. “Chắc chắn là
Grossman đã theo sát Chekhov”, Ortenberg viết, “và đã chia sẻ khó khăn nguy
hiểm với anh ta trong chiến đấu, Grossman đã thành công trong việc xây dựng 1
hình tượng chiến binh đầy ý nghĩa, đào sâu vào thế giới bên trong anh ta với
đầy đủ suy nghĩ cũng như tình cảm”.
Những chiến công của các tay bắn tỉa
được kể lại và khâm phục gần giống như với 1 cầu thủ bóng đá. Mỗi sư đoàn đều
tự hào về ngôi sao của mình, và những người lính Siberi trong Sư 284 Bộ binh
đều tin rằng họ có được ngôi sao sáng chói nhất, Vasily Zaitsev, trong đội hình
của mình. Tuy nhiên áp lực đối với bộ máy tuyên truyền phải thổi phồng thành
tích đạt được của những người dẫn đầu phong trào thi đua giết giặc trong trận
chiến đô thị này khiến những kết quả họ đạt được có phần hơi đáng ngờ.
Zaitsev là thứ cần được bảo tồn, các binh
sĩ sư đoàn nói về anh: “Zaitsev của chúng tôi là người khiêm tốn và cầu tiến.
Anh ấy đã giết 225 tên Đức”*. Các tay bắn tỉa khác do anh đào tạo được gọi là
“thỏ con”**. Batyuk nói: “Họ nghe lời anh ta ngoan ngoãn như những chú chuột
nhỏ. Khi anh ta hỏi: “Tôi nói có đúng không, các đồng chí?”. Mọi người đều trả
lời: “Vâng, thưa đồng chí Vasily Ivanovich”.
*[Không thể kiểm chứng được số thành tích của
các lính bắn tỉa Stalingrad, đặc biệt là của Zaitsev, vì chỉ có căn cứ là báo
cáo của chính họ. Zaitsev chỉ trở thành lính bắn tỉa từ ngày 21/10, hôm đó anh
ta liên tiếp bắn hạ được 3 tên địch. Đại tá Batyuk kể đã nhìn thấy việc đó và
ra lệnh cho anh làm lính bắn tỉa. Vì vậy làm thế nào mà Zaitsev đã đạt được
thành tích to lớn đến vậy khi mà giai đoạn ác liệt nhất của trận đánh đã qua là
điều rất khó nói]
**[“Zaitsev” tiếng Nga có nghĩa là thỏ rừng, vì
thế các tay bắn tỉa do Zaitsev đào tạo được gọi là Zaichata, tức là “Thỏ con”]
Có 1 đoạn văn ấn tượng trong sổ ghi chép
của Grossman dù nó khó được kiểm chứng:
Murashev và trực ban y tế Zaitsev bị kết án
tử hình. Murashev vì tự bắn vào tay còn người kia vì đã bắn 1 phi công nổi
tiếng khi anh ta bị rơi máy bay và phải nhảy dù. Cả 2 đều được giảm án, và giờ
cả 2 đều là những tay bắn tỉa hạng nhất ở Stalingrad. (Murashev mới có 19 tuổi).
Vasily Zaitsev là tay bắn tỉa nổi tiếng
duy nhất mang tên này ở Stalingrad và không có tài liệu nào khác cho biết anh
ta từng là trực ban y tế hay từng bắn hạ 1 “phi công nổi tiếng” đang nhảy dù.
Có lẽ Grossman là người duy nhất ghi chép lại câu chuyện này trước khi bộ máy
tuyên truyền Soviet viết lại về cuộc đời của Zaitsev thành 1 huyền thoại.
Giống như những tay bắn tỉa khác,
Zaitsev có vẻ tự hào khi trút hận thù lên bất kỳ phụ nữ Nga nào hợp tác với bọn
Đức.
Zaitsev đã bắn hạ 1 phụ nữ và 1 sĩ quan
Đức: “Chúng ngã đè lên nhau”.
Nhiều lính bắn tỉa hàng đầu tại
Stalingrad, bao gồm cả Chekhov và Zaitsev, đã báo cáo về các cuộc đọ sức tay
đôi với các tay bắn tỉa Đức. Không có gì ngạc nhiên là những cuộc chống bắn tỉa
này được xem như bằng chứng cho biết ai là người giỏi nhất.
1 cuộc đấu 1 chọi 1 giữa Zaitsev và 1 tên
bắn tỉa Đức: “Hắn đã hạ 3 người của ta. Hắn chờ đợi trong 15 phút nhưng phía
chiến hào quân ta vẫn không có ai xuất hiện, vì vậy hắn nhô người lên. Tôi nhận
thấy hắn vẫn để súng trên mặt đất, vì vậy tôi đứng thẳng dậy. Hắn nhìn thấy tôi
và chợt hiểu. Tôi siết cò!”.
Những cuộc đọ sức ngắn ngủi nhưng chết
chóc này có lẽ là 1 trong những thứ sau này được hệ thống tuyên tuyền Soviet ưa
thích sử dụng. Nó được bơm thổi lên đến mức như 1 câu chuyện sử thi trong
truyện dài về cuộc đấu tay đôi giữa Zaitsev và nhân vật không xác định “Thiếu
tá Koenig”, người đứng đầu “Trường bắn tỉa Berlin”, 1 ngôi trường cũng chưa
được xác định. Nhân vật này đã bay tới Stalingrad để truy tìm và tiêu diệt
Zaitsev, tuy nhiên không có ghi chép nào tương tự như vậy từ phía Đức. Lời kể
của Zaitsev rằng cả 2 người đã đứng thẳng lên cũng hết sức khó tin. Lính bắn
tỉa của cả 2 bên đều đi từng cặp, và 1 lính bắn tỉa sau khi giành thắng lợi
trong cuộc đối đầu mà lại tự cho phép mình có 1 cử chỉ khinh suất như vậy sẽ bị
bắn hạ ngay lập tức.
Tướng Chuikov được xem là người đã đánh
bóng câu chuyện này trong các cuốn hồi ký của ông, có lẽ ông là người muốn và
giỏi lăng xê huyền thoại này nhất, đặc biệt là do Zaitsev thuộc sư đoàn của
Batyuk chứ không phải sư của Rodimtsev. Câu chuyện đã khiến Grossman bị hấp dẫn
và có 1 chút thay đổi, ông đã viết lại nó trong cuốn “Cuộc đời và Số phận” dù
trong cuốn tiểu thuyết này hầu hết những gì ông viết về cuộc đụng độ giữa các
tay bắn tỉa đều giống với những ghi chép thời chiến của ông trong cuộc mít tinh
giữa các tay bắn tỉa. Cuộc đối đầu mà Zaitsev đã chỉ kể lại rất sơ sài trong
cuộc mít tinh này cuối cùng đã được Grossman viết trong cuốn tiểu thuyết là
diễn ra trong “vài ngày”. Grossman lần này đã viết theo đúng bài của hệ thống
tuyên truyền.
Các cuốn hồi ký sau này của Zaitsev
(đương nhiên hầu hết là viết với sự hỗ trợ của các chuyên gia tuyên truyền
Soviet) cũng kể lại 1 cách hấp dẫn như thế về cuộc đấu tay đôi kéo dài nhiều
ngày này, nhưng rút cục cũng thiếu sức thuyết phục. 1 chiếc máy ngắm Đức hiện
được trưng bày tại Bảo tàng Quân đội tại Moscow với tấm biển ghi “Lấy được từ
xác 1 thiếu tá Đức”. Tất cả chỉ là lời kể, chưa có bất cứ 1 báo cáo nào xác
nhận về cuộc đấu tay đôi nổi tiếng này được gửi từ bộ phận phụ trách Ctrị
Phương diện quân Stalingrad về Moscow trong thời gian trận đánh diễn ra, mặc dù
mọi chi tiết về các hoạt động của lính bắn tỉa đều được báo cáo để có thể sử
dụng cho mục đích tuyên truyền.
Đại tá Batyuk cũng tự hào không kém về các
ngôi sao khác của ông:
“Trong sư đoàn tôi, chúng tôi có tay bắn
tỉa giỏi nhất Phương diện quân Zaitsev; pháo thủ súng cối giỏi nhất Bezdidko,
pháo thủ chống tăng giỏi nhất Shuklin, chỉ huy pháo đội 2, anh ta đã hạ 14
chiếc tăng chỉ bằng 1 khẩu pháo đặt trong công sự. Trường hợp Bezdidko được
nhấn mạnh: “Anh ta bắn trúng mọi thứ bằng 1 khẩu cối vì anh ta cũng chỉ có mỗi
1 khẩu đó”.
“Ở đây ai cũng vui thích với tay xạ thủ cối
hạng nặng “bắn tỉa” huyền thoại Bezdidko. Khi bọn Đức pháo kích bằng súng cối
vào sở chỉ huy, sư trưởng bảo: “Ôi bọn chó đẻ, Bezdidko, sao ta không dạy chúng
cách bắn thế nào nhỉ?”. Và Bezdidko, người không bao giờ ngắm trượt, người có
khả năng bắn chính xác đến từng centimet, mỉm cười và nheo mắt ngắm. Anh chàng
Bezdidko có giọng nói du dương êm ái và nụ cười láu cá đặc Ukraina này đã được
ghi nhận là hạ 1.305 tên Đức trong sổ thành tích, anh ta thường trêu chọc
Shuklin, viên chỉ huy gầy nhẳng của Pháo đội 2”.
Bezdidko cũng xuất hiện trong buổi mít
tinh của các tay bắn tỉa được kể lại trong cuốn “Cuộc đời và Số phận” và đoạn
văn tả cuộc nói chuyện này hầu như không thay đổi gì so với ghi chép gốc.
“Thưa đồng chí đại tá, tôi đã hạ được 5 tên
Fritz hôm nay và dùng hết 4 quả đạn”.
“Bezdidko, nói cho mọi người nghe anh đã
phá hủy cái nhà thổ dã chiến của bọn Đức như thế nào”.
“Tôi chỉ coi nó như 1 boongke”, Bezdidko
khiêm tốn trả lời.
1 số cải tiến đã tỏ ra không được thành
công lắm. Zaitsev đã thử lắp ống ngắm bắn tỉa cho súng trường chống tăng, nghĩ
rằng có thể nhờ đó bắn trúng vào lỗ châu mai boongke địch, nhưng chất lượng đạn
thiếu ổn định khiến chẳng bao giờ có 2 viên đạn bắn được vào cùng 1 mục tiêu.
Grossman ghi lại 1 sáng kiến khác trong thực tế còn kém hoàn hảo hơn.
Suy nghĩ của các binh sĩ Hồng quân cuối
cùng xoay sang súng trường chống tăng... dùng 1 cái bánh xe, buộc chặt vào cọc
để có thể xoay 360 độ, họ đã bắn trúng 7 chiếc máy bay.
Đại úy tiểu đoàn trưởng Ilgachkin có 1 vấn
đề: không bao giờ có thể bắn trúng 1 chiếc máy bay bằng súng trường thường. Anh
ta bèn làm một tính toán lý thuyết dựa trên tốc độ giả định của đạn súng trường
chống tăng là 1.000m/giây, lập thành bảng, bổ sung thêm thông tin về những nơi
máy bay có thể bay qua, vị trí bắn và khoảng cách. Bảng làm xong anh ta lập tức
bắn trúng 1 chiếc máy bay. Sau đó anh đóng 1 cái cọc xuống đất để làm trục, đặt
lên đó 1 bánh xe và gắn khẩu súng trường chống tăng lên các nan bánh xe.
Batyuk cũng kể lại bọn Đức đã dùng radio
để than vãn hoặc đơn giản là đùa cợt như thế nào.
“Ê Rus (bọn Nga), ăn tối chưa?... Tao đã
xơi phó mát, tao cũng đã xơi cả trứng nữa, Rus ạh. Nhưng không phải là hôm nay,
hôm nay tao chưa ăn gì”.
“Ê Rus, tao đang định đi lấy nước. Có bắn
thì bắn vào chân tao nhé, đừng bắn vào đầu. Tao còn có con, tao còn có mẹ”.
“Ê Rus, chúng mày có muốn đổi 1 thằng Uzbek
lấy 1 thằng Rumani không?”*
*[Dân Uzbek có tiếng là những người lính kém
tin tưởng nhất trong Hồng quân trong khi quân Đức cũng công khai xem thường
những đồng minh Rumani trong các Tập đoàn quân Rumani 1 và 3, các tập đoàn quân
này giúp bảo vệ sườn tây bắc và sườn nam của Tập đoàn quân 6 Đức tại Stalingrad]
Batyuk nổi tiếng trong giới binh sĩ với
biệt danh “Batyuk đạn bắn không thủng” vì là 1 trong những vị chỉ huy tỏ ra
hoàn toàn không sợ nguy hiểm.
Batyuk: “Trong cái boongke này, cánh cửa
thường bật vào trong và đổ ập lên bàn”. Khi bọn Đức nã pháo vào hầm chỉ huy
pháo binh, Batyuk đứng ngoài cửa hầm mình vừa cười vừa giả vờ chỉnh đường đạn
cho chúng: “Lệch phải chút, lệch trái chút”.
Pháo binh, như Chuikov đã nhận thấy ngay
khi trận đánh bắt đầu, có lẽ là niềm hy vọng duy nhất. Khi khu vực còn giữ được
trên bờ tây trở nên quá nhỏ để triển khai pháo hạng nặng giữa những tòa nhà đổ
nát, Chuikov đã cho rút toàn bộ đại bác và lựu pháo trên 76mm qua bờ đông. Điểm
mấu chốt là các sĩ quan tiền sát pháo của mỗi pháo đội vẫn ở lại, lẩn lút trong
những tòa nhà cao y như lính bắn tỉa. Họ thay phiên nhau bám mục tiêu để gửi
các thông tin chi tiết về cho pháo đội của mình bằng radio hoặc bằng đường liên
lạc hữu tuyến. “Pháo binh trên mặt trận chẳng khác gì diều hâu”, tướng
Yeremenko chăm chú nhìn Grossman mà nói, nhưng ông cũng không định nói láo về
mối nguy hiểm thường trực do “friendly fire” (quân ta bắn quân mình). “Ở
Stalingrad, khi pháo binh ta bắn trúng quân nhà họ chỉ biết cười chua chát: “Chúng
tôi đã đến đây, mặt trận thứ 2 cuối cùng cũng đã mở”.
Chiến thuật chính của Chuikov để giảm
sức tấn công trong các cuộc xung phong ồ ạt của người Đức là thiết lập các “tuyến
đê” bằng các tòa nhà có quân phòng thủ bên trong. Các nhóm xung kích sẽ tập
kích trong đêm vào mục tiêu định trước, sau đó cũng cố vị trí chiếm được.
Đánh chiếm 1 ngôi nhà. Nhóm xung kích gồm
10 người, theo sau là nhóm tăng cường, họ mang theo lương thực và đạn dược dùng
cho 6 ngày. Chiếm xong họ đào hào để phòng trường hợp bị bao vây.
Tiếp tế cho các đơn vị tuyến đầu hoặc bị
cô lập là vấn đề chính. Tập đoàn quân 62 thường sử dụng những chiếc máy bay 2
tầng cánh U-2, phần lớn do các nữ phi công trẻ lái. Họ thường tắt máy, lượn êm
trên chiến hào Đức để thả bom hoặc trên các vị trí quân Nga để thả đồ tiếp tế.
Suốt đêm, đám U-2 thả lương thực xuống cho
quân ta. Chúng tôi đánh dấu tuyến đầu bằng những cây đèn dầu mà những người
lính thắp dưới đáy hào. Đại đội trưởng Khrennikov 1 lần quên làm điều đó và bất
thần nghe 1 giọng khàn đục vọng xuống từ trên bầu trời đêm: “Hey, Khren!*. Mày
có thắp đèn lên không thì bảo?”. Đó là tiếng viên phi công, lúc đó anh ta đang
tắt máy. Khrennikov kể anh đã phát hoảng vì nghe có tiếng gọi đúng tên mình từ
trên trời.
*[“Khren” trong tiếng Nga có nghĩa là cây cải
ngựa nhưng nó thường bị đọc trại đi thành lời chửi gần giống với “ĐM” (nguyên
văn “motherfucker”). Vì thế khi người phi công quát: “Hey, ĐM mày!”. Khrennikov
cảm thấy kinh ngạc vì nghĩ tay phi công gọi đúng tên anh ta]
Tướng Rodimtsev nói với Grossman:
Sư đoàn tôi và bọn Đức đóng trong những tòa
nhà liền kề nhau y như những quân cờ trên 1 bàn cờ... họ sống trong hầm, các
căn phòng hay đường hào... 4 người lính đã giữ được 1 căn nhà trong 14 ngày, cứ
luân phiên 2 người đi kiếm lương thực, 2 người còn lại canh giữ ngôi nhà...
Việc trinh sát trở nên cực kỳ phức tạp... Mọi khẩu đội chống tăng đều chiến đấu
đến khi thương vong đến người cuối cùng... Tâm trạng mọi người tuy đều mệt mỏi
nhưng tinh thần vẫn cao...
Rận - chúng tôi dùng những chiếc bếp dầu
hoặc bàn là để trục chúng ra. Cách này có thể giải thoát chúng tôi khỏi lũ rận.
Và 1 lần nữa, phong trào chửi bới trêu
chọc lẫn nhau lại được phát động mạnh giữa các chiến hào hoặc thậm chí giữa các
phòng trong cùng 1 ngôi nhà, chúng thường bắt đầu bằng câu đùa theo người Đức
là rất hài hước: “Rus, đưa mũ cho tao, tao sẽ cho mày khẩu tiểu liên!”.
Grossman hơi bối rối vì “sự lo lắng kỳ
lạ” của các binh lính và sĩ quan khi nói chuyện với mình. Chúng có vẻ rất khác
thường nếu so sánh với những nỗi lo của người bình thường.
“Ngoài kia họ đang nói gì về ta? Họ nghĩ gì
về ta? Có quá ít sự chia sẻ.
Các tướng lĩnh đặc biệt là Yeremenko
thích phán về chiến tranh và đời lính nhưng họ thường lái chủ đề về bản thân
họ.
“Người trẻ có ít kinh nghiệm sống, họ giống
như trẻ con. Họ chết tại nơi họ được đưa tới... Những người lính thông minh
nhất có độ tuổi từ 25 đến 30. Những người lính già hơn thường không khỏe mạnh
và hay lo lắng dằn vặt về gia đình của họ. Tôi cũng khổ sở với cái chân này.
Tôi đã bị quá sức hồi ở Smolensk, và sau đó là ở Phương diện quân Bryansk. 1
lần ở Phương diện quân Tây Nam tôi đã không ngủ suốt 5 ngày.
“Vâng, khi 2 viên tướng đánh nhau, 1 nhất
định sẽ trở thành người khôn và kẻ kia hóa thành thằng ngu. Mặc dù thực ra cả 2
đều ngu”, ông vừa nói thêm vừa cười.
Chính ủy Tập đoàn quân 62 Gurov thường
nói chuyện rất lôi cuốn.
“Những người lính đều giống nhau, chỉ có
các chỉ huy là khác”.
Nếu có 1 nơi nào các vị chỉ huy Soviet
chỉ có khả năng tác động rất nhỏ lên các hoạt động, nơi đó chính là bến phà
sống còn qua sông Volga. Mọi thứ ở đây đều do các binh sĩ tiểu đoàn vận tải
đường sông quyết định - phần lớn họ là dân thuyền chài và thủy thủ đến từ
Yaroslavl trên sông Volga.
Tướng Rodimtsev nói cho Grossman hay
quan điểm chính thống - đương nhiên là lạc quan.
“Chúng tôi đã trưng dụng tất cả tàu thuyền
trên con sông này, giờ chúng tôi đã có cả 1 hạm đội: 27 tàu cá và tàu có động
cơ. Chúng tôi đã kéo được 1 chiếc xuồng lớn từ dưới đáy sông Volga lên, nó bị
chìm vì 1 phát đạn bắn thẳng. Sư đoàn tôi được tiếp phẩm đầy đủ: có thức ăn
nóng, đồ lót, sôcôla và sữa đặc. Việc sơ tán người bị thương được tiến hành 1
cách mẫu mực. Chúng tôi có đủ nhu yếu phẩm cho 3 ngày”.
Tuy nhiên Grossman đã có đủ thời gian
tiếp xúc với cánh thủy thủ, những người bị bắt lính, để vẽ nên 1 bức tranh
chính xác hơn.
Sông Volga tại đây rộng 1.300m... 1 con
thuyền vừa trúng đạn, nó chở theo bột mì. Binh sĩ Voronin không mất bình tĩnh.
Anh đổ hết 1 bao bột mì ra, nhét vỏ bao vào 1 lỗ thủng và bịt những lỗ thủng
khác bằng thứ hồ làm từ bột mì trộn với nước. Chiếc thuyền bị thủng tất cả 77
lỗ, anh lính đã trám tất cả các lỗ đó trong 1 ngày.
Mông của hạ sĩ Spiridonov đã bị xé nát, anh
ta đang hỏi xin 1 ít rượu. 2 thương binh nặng Volkov và Lukyanov trốn viện, đi
bộ suốt 30km thì bị bắt đưa trở lại quân y viện, khi bị đẩy lên ô tô để đưa về
cả 2 đều gào lên: “Chúng tôi sẽ không bỏ tiểu đoàn”.
Khi Eziev và Ilin bị thương, lính Hồng quân
Minokhodov đã kéo cả 2 ra khỏi sà lan và băng bó cho 2 người. Bản thân
Minokhodov cũng bị thương vào lưng. Sau đó Minokhodov chạy trở lại 1 km, tới
thê đội 2 để báo cho họ biết tiểu đoàn trưởng đã bị thương rồi ngất đi luôn.
Giờ tất cả đang ở quân y viện cùng nhau.
Trung sĩ Vlasov 48 tuổi, trông già xọm, đến
từ Yaroslav. Khi sà lan bị thủng vì 1 phát đại bác, ông nhờ 1 người giữ chặt 2
chân còn mình bịt lỗ thủng bằng áo mưa rồi đóng đinh xung quanh. Có 400 tấn đạn
đang chở trên sà lan. Vlasov vốn là giám đốc 1 nông trang tập thể, ông có 2 con
trai cũng đang ở mặt trận, vợ ông ở nhà chăm sóc 3 đứa con còn lại.
Sau khi được Chính trị viên huấn thị,
Vlasov đã bắn 1 tên hèn: người lái xuồng máy Kovalchuk. Kovalchuk đã được lệnh
chở các binh sĩ tới Nhà máy Tháng 10 Đỏ. Bị pháo kích dữ dội, hắn đã hoảng sợ
và chở họ lên 1 hòn đảo rồi nói: “Mạng sống với tôi quan trọng hơn... Các anh
có thể tống tôi đi hoặc bắn tôi, nhưng tôi vẫn sẽ không làm việc này nữa. Tôi
già rồi”. Hắn đã dễ dàng hoảng sợ, và hắn chửi, hắn chửi không từ 1 ai, và hắn
nói về tướng lệnh như thế này: “Bọn tướng tá xuống địa ngục hết đi!”.
Tiểu đoàn tuyên án tử hình Kovalchuk trước
hàng quân. “Trong khi hàng trăm hàng nghìn chiến sĩ đang chiến đấu vì
Stalingrad, hắn đã phản bội Tổ quốc”, Chính trị viên tuyên bố. “Ai sẽ bắn hắn?”.
Vlasov bước lên phía trước. “Để tôi, thưa đồng chí Chính trị viên”.
Kovalchuk khuỵu xuống, hắn kêu: “Tha cho
tôi, đồng chí Chính trị viên, tôi sẽ sửa chữa”. Chính trị viên ôm chặt Vlasov
trước toàn thể đại đội.
Chính trị viên tiểu đoàn rõ ràng rất
kính trọng Vlasov.
“Điều khủng khiếp nhất mà tôi từng trải qua
là khi 1 chiếc sà lan trúng đạn, trên đó đang có khoảng 400 người. Thật đáng
sợ, tiếng kêu khóc vang lên: “Chúng ta đang chìm, chúng ta sẽ chết hết!”. Rồi
Vlasov đến bên tôi nói: “Nó đã sẵn sàng, đồng chí Chính trị viên”. (Có nghĩa là
chiếc sà lan đã được dặm vá xong). Ngay sau đó 1 ngọn lửa bùng lên. 1 thằng
lính, quân chó đẻ ấy chứ, lấy 1 chai KS* ra uống và làm nó bốc cháy. Chúng tôi
dập đám cháy bằng cách trùm 1 tấm bạt lên. Bất cứ lúc nào đám lính tráng cũng
có thể bắt đầu nhảy nhót trên mặt nước được! Ông lão Muromtsev kia cũng khá.
Ông ấy đã phát hiện ra 2 lỗ thủng và bịt chúng lại. Ai cũng có lúc sợ, đúng không?
Tôi cũng thế, mọi người đều có thể bị nỗi sợ cuốn đi, nhưng 1 số người giữ được
sự sợ hãi trong tầm kiểm soát. Giờ chúng tôi đều có khả năng đó, khi đó người
ta trở nên lặng lẽ và nói: “Chỉ hơi buồn tí thôi!”.
*[KS là 1 hỗn hợp công nghiệp có chứa cồn chưa
tinh lọc]
Grossman đã có 1 cuộc phỏng vấn Vlasov.
Pavel Ivanovich Vlasov, 48 tuổi, đến từ
Yaroslavl, gia đình có 5 người con. 1 trong các con trai ông là 1 pháo thủ súng
cối cận vệ. Vlasov tham gia lực lượng dự bị động viên từ tháng 8/1941, bắt đầu
với công việc gác kho.
“Chúng tôi đã ở đây, trên dòng sông Volga
này từ hôm 25/8. Sà làn thì lớn, chở khoảng 400 tấn đạn. Trận pháo kích bắt đầu
khi chúng tôi đang xếp hàng lên sà lan nhưng chúng tôi không quan tâm đến nó.
Lúc đó tôi đang ở mũi tàu, đó là vị trí của tôi. Quân địch nổ súng, tôi thò đầu
ra quan sát. Có 1 lỗ thủng trên boong và 1 lỗ nữa bên sườn tàu dưới mớn nước
1m, những tấm gỗ vỡ vụn ra. Chúng tôi nghe thấy tiếng nước tràn vào, mọi người
bắt đầu kêu khóc.
Tôi vồ lấy 1 tấm bạt và lao vào trong
khoang. Có ánh sáng rọi vào đủ để nhìn vì boong tàu đã vỡ. Tôi nhồi tấm bạt vào
cái lỗ to rồi cởi áo mưa nhồi tiếp vào. Với những lỗ nhỏ chúng tôi bịt lại từ
bên ngoài. Họ nắm chân tôi thả xuống để tôi mò tìm lỗ thủng.
Về tay lái xuồng máy hèn nhát.
“Đó là dạo đầu tháng 10, chúng tôi nhận
lệnh vượt sông qua bờ bên kia (bờ tây) và sửa chữa 1 bến đỗ. Anh ta đưa chúng
tôi lên 1 hòn đảo và bảo: “Với tôi, mạng sống quan trọng hơn”. Chúng tôi bắt
đầu chửi anh ta bằng những lời tục tĩu nhất.
“Chính trị viên nhận được 1 bản báo cáo về
chuyện này và chúng tôi được lệnh tập hợp toàn tiểu đoàn. Chính trị viên đọc
lệnh và Kovalchuk đã không xử sự đúng mực. Anh ta kêu xin cho anh ta về đơn vị
cũ, nhưng tại đó anh ta vốn đã bị xử tội nặng rồi: anh ta kể anh ta đã bị bỏ
rơi. Tôi có cảm giác nếu có thể tôi sẽ xé xác anh ta thành từng mảnh mà chẳng
cần xét xử gì hết. Sau đó Chính trị viên nói: “Ai sẽ bắn anh ta?”. Tôi bước lên
khỏi hàng và Kovalchuk sụm xuống. Tôi lấy khẩu súng trường của 1 đồng đội và
bắn”.
“Ông có cảm thấy tiếc cho anh ta không?”.
“Tiếc là tiếc thế nào?”.
“Tôi nhận được giấy gọi nhập ngũ vào đêm
28/8/1941. Tôi không uống nhiều như mọi người thường làm, tôi không có thói
quen đó. Tôi cũng không viết nhiều trong thư gửi về nhà: “Tôi vẫn còn sống”, và
tôi hỏi han về việc nhà thôi. Bọn trẻ không phải đứa hư, tôi không hiểu chúng
đối mặt với việc vắng tôi như thế nào, nhưng chúng đã giúp tôi vững lòng khi ở
đây. Có rất nhiều việc phải làm, ai cũng phải làm việc cả ngày lẫn đêm. Mùa vụ
trồng lanh là thứ cần tập trung cao độ. Bạn cần phải rẫy cỏ dại, rồi lại rẫy cỏ
dại, rồi nhổ lanh bằng tay, phơi khô, đánh đống, sau đó trải ra đập rồi chở
đi... Nhìn chung công việc ở đây không nặng nhọc bằng ở nhà, mặc dù tôi đã từng
phải 3 ngày liền không ngủ khi làm 1 cây cầu. Nếu bạn thực sự mệt mỏi bạn cứ
ngủ, nếu đã không ngủ 1 đêm bạn sẽ được ngủ đêm tiếp theo.
“Súng phòng không quân ta không hoạt động
tốt, cho tới giờ tôi mới chỉ thấy họ hạ được 3 máy bay địch. Họ không đáng được
ca ngợi.
“Đám thanh niên tuân lệnh tôi. Đôi khi tôi
hơi nghiêm khắc với chúng nhưng điều đó là cần thiết. Nếu ai đó trở thành khâu
yếu thì không tốt chút nào, dù đó là ở nhà hay trong chiến tranh. Tôi không có
nợ nần gì, nếu tôi bị giết, sẽ không có khoản nợ nào chưa được trả đủ... Ai nấy
đều tự mang theo toàn bộ tư trang của mình: 1 cái ca, 1 cái nồi, 1 cái thìa.
Tiền được gửi về cho gia đình, chẳng có gì để mua ở đây cả.
“Ở vị trí của tôi giờ chỉ còn Moshchav và
Malkov, chẳng còn ai khác. Những người khác đều đã chết hoặc bị thương...
“Chúng tôi bắt cá để ăn, bọn Đức đã đánh
thuốc nổ chúng giúp chúng tôi. Tôi vừa bắt được 1 con cá tầm và sau đó là 1 con
cá chép đỏ. Giờ chúng tôi nấu súp”*.
*[Acipenser ruthenus, tên khoa học của cá tầm
nước ngọt, và Leuciscus idus, tên khoa học của cá chép đỏ hay còn gọi là cá
orfe]
“Đám chó hoang hiểu biết về máy bay rất rõ.
Lũ chó hoàn toàn không tỏ dấu hiệu gì khi những chiếc máy bay bay qua, thậm chí
dù chúng gầm rú ngay trên đầu. Nhưng lũ chó sẽ sủa ngay lập tức nếu máy bay Đức
lượn xuống, chúng tru lên và chạy tìm chỗ núp, thậm chí khi chiếc máy bay còn
đang bay rất cao”.
“Bom và đạn pháo không làm văng mảnh khi nổ
dưới nước. Chỉ khi nào trúng đạn trực tiếp mới đáng sợ. Hôm qua 1 tàu cá đã
trúng đạn, viên đạn xuyên tới tận đáy và làm 75 người bị thương”.
Trong bài viết “Bến phà Stalingrad”,
Grossman viết:
Mặt đất quanh bến phà bị cày sới bằng thứ
sắt thép của bọn quỷ dữ... Súng của bọn Đức nổ không ngừng dù chỉ 1 phút...
Giữa 2 bến phà, giữa Stalingrad và bờ bên kia sông là 1.300m nước Volga. Những
chiến sĩ tiểu đoàn phà nhiều lần nghe thấy trong những khoảnh khắc yên tĩnh
ngắn ngủi những tiếng hô kéo dài. Tiếng hô vọng lại từ phía xa: “A-a-a...”, đó
là tiếng hô bùng lên quân ta đang phản công.
Lịch làm việc của bọn Đức: Pháo bắn đến nửa
đêm. Từ nửa đêm đến 2h sáng - yên lặng. Từ 2h đến 5h sáng - chúng lại bắn tiếp.
Từ 5h sáng đến giữa trưa - yên lặng. Luftwaffe hoạt động từ 9h sáng đến 5h
chiều đều đặn như 1 công việc thường ngày. Chúng nhắm vào bờ sông, không phí
bom để ném xuống nước.
“Việc vượt sông tiến hành từ 6h tối đến
4h30 sáng... (1 người kể). Chúng tôi ngụy trang thuyền bè, giấu chúng dưới
những tán cây bên bờ sông. Chiếc tàu hơi nước “Donbass” thì giấu trong 1 chiếc
sà lan đã bị phá hủy... Sẽ rất khó khăn nếu có trăng, trời lúc đó thì đẹp đấy,
nhưng tiên sư cái trời đẹp ấy chứ”.
1 thợ hàn ở bến phà bờ tây đã nhận thấy
anh ta phải vá víu những vết thương trên chính thân thể mình còn nhiều hơn cả
vá những chiếc tàu đang tham chiến kia.
Thợ hàn Kosenko là người rất tốt, các lính
tiền tuyến hay đến gặp anh ta để nhờ vả, có khi là vá víu 1 khẩu Katyusha. “Anh
làm tốt hơn ở ngoài mặt trận”. 2 cỗ xe tăng lao về chỗ anh từ mặt trận. “Nhanh
lên, chúng tôi phải trở lại đánh tiếp”. Anh sửa lại và 2 cỗ xe quay lại chiến
đấu.
Cuộc sống thường ngày. Lính vận tải tự làm
bánh, banya (nhà tắm hơi) và đồ để bắt rận. Banya được đào sâu xuống đất, lính
tráng khoái tới đó cầm theo mấy cành bulô nhỏ. Họ có thể ở đấy suốt nếu được.
Ống khói banya đã bị nổ toác. Bánh được làm trong 1 bếp lò kiểu Nga, cũng đào
xuống đất. Thứ bánh mì làm từ đây thật tuyệt vời, vẫn còn hơi ấm. Nhưng cuối
cùng lò bánh cũng bị 1 quả bom đập vụn! Bếp ăn của Đại đội 2 cũng xơi 1 phát
đạn ngay chóc. “Tôi có thể báo cáo điều gì đây? Bếp dã chiến đã nổ tung cùng
với shchi (súp củ cải) bay tung tóe à?”.
“Cứ thế đi, rồi đi nấu bữa tối khác”.
Mặc dù Grossman chỉ là 1 phóng viên
nhưng rõ ràng trong trường hợp cần thiết ông cũng hăng hái tham gia vào công
việc của những người lính.
1 xe chở đạn Katyusha phát hỏa, có cả tá xe
cộ xung quanh nó. Chúng tôi phải kéo nó ra xa.
Nhưng trên hết, ông rất vui mừng khi
biết các bài viết của mình có ý nghĩa rất lớn với những người lính.
Tất cả họ đều rất thích bài viết nhỏ của
tôi về những người lính đến từ Yaroslavl. Họ đi vênh vang như những con công: “Đó
là bài viết về chúng ta!”.
16
Những trận đánh trong tháng 10
Sở chỉ huy của tướng Chuikov chỉ đóng
trong đường hầm Tsaritsa chưa tới 1 tuần cho tới khi quân Đức mở 1 cuộc tấn
công nữa đánh thẳng vào trung tâm Stalingrad. Chuikov và ban tham mưu phải
chuyển đi khoảng 4km về phía bắc tới Nhà máy Tháng 10 Đỏ. Khu vực nhà máy ở
phía bắc Stalingrad này nhanh chóng bị người Đức xem là mục tiêu của các cuộc
tấn công. Cuộc tấn công lớn đầu tiên diễn ra vào ngày 27/9. Các cuộc tấn công
đều được bắt đầu bằng màn oanh tạc của hàng đàn Stuka, loại máy bay được lính
Hồng quân đặt tên là “máy rít” hay “nhạc công” vì tiếng rít mà chúng tạo ra khi
bổ nhào xuống mục tiêu.
Chiến sự ở cánh bắc này cũng tuyệt vọng
như các nơi khác vì tại đây Sư 16 Thiết giáp Đức đã chiếm Rynok, Spartakovka và
đang tiến thẳng tới nhà máy sản xuất máy kéo này từ phía bắc.
Lữ đoàn 149 của Bolvinov - có lẽ là đơn vị
tốt nhất - được đặt dưới quyền chỉ huy của Gorokhov (chỉ huy lữ đoàn 124), vai
trò của Bolvinov bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Nhưng Bolvinov vẫn tiếp tục làm
những gì cần thiết. Ông cũng trườn bò, miệng ngậm lựu đạn, từ hỏa điểm này đến
hỏa điểm khác, và mọi lính Hồng quân đều yêu mến ông.
Đối với tất cả các sở chỉ huy các cấp
trên bờ tây, vấn đề rắc rối chính là thông tin liên lạc. Dây thông tin đứt suốt
vì mảnh đạn và cả vì bị vướng vào những người chạy qua lại. Chuikov kể lại cho
Grossman cảm giác về sự bất lực và lo lắng.
“Đó là thứ cảm giác ngột ngạt nhất trên
đời. Súng nổ khắp xung quanh, bạn lệnh cho những giao liên đi ra xem cái gì
đang xảy ra, và họ bị giết sạch. Khi đó sự căng thẳng làm bạn run rẩy khắp
người... Những lúc đáng sợ nhất là khi bạn ngồi đây như 1 thằng ngốc trong khi
trận đánh diễn ra sục sôi xung quanh, vậy mà bạn chẳng thể làm được gì”.
Sự đe dọa trực tiếp nhất đến với sở chỉ
huy của Chuikov vào ngày 2/10. Sở chỉ huy Tập đoàn quân 62 đặt trên triền sông
Volga ngay sau những bồn chứa của 1 kho nhiên liệu mà ai nấy đều cho rằng đã
rỗng. Thật là 1 nhầm lẫn tai hại. Bọn Đức đã nhắm chính xác vào những bồn chứa
này và đột nhiên cả sở chỉ huy chìm trong lửa, như Chuikov sau này kể lại cho
Grossman.
“Dầu chảy xuống sông Volga xuyên qua sở chỉ
huy. Mặt sông bốc cháy. Chúng tôi chỉ cách mép nước độ 15m. Con đường thoát duy
nhất là lao thẳng về phía quân địch... Những bồn nhiên liệu đang cháy, bốc
thành những cột khói cao tới 800m. Và trên sông Volga mọi thứ đang nổi trên mặt
nước đều bốc cháy rồi chìm xuống sông. Mọi người lôi tôi lên khỏi con sông đang
bốc lửa và chúng tôi đứng trên mép nước cho tới sáng. 1 số người đang ngủ đã
chết cháy... có tới 40 người chết chỉ riêng tại sở chỉ huy”.
Tham mưu trưởng của Chuikov kể lại câu
chuyện của riêng ông.
Sau đó sở chỉ huy chuyển tới 1 đường hầm
nằm cạnh nhà máy Chiến lũy (Barrikaky) và ở đó từ ngày 7 đến ngày 15/10. Tại đó
chúng tôi lại phải chịu áp lực từ hướng tấn công chính của địch và buộc phải
chuyển đi tiếp, tới đường hào lớn Banny. Sở chỉ huy Sư 284 Bộ binh đóng trong
đường hầm sau khi chúng tôi rời đi rồi cũng phải chuyển đi nốt, ra bờ sông. Ở
đây người ta thường nghe nói về đường hào lớn Banny như thế này:
“Sở chỉ huy Tập đoàn quân biến mất rồi!”.
“Biến đi đâu?”.
“Không thấy chuyển ra bờ sông, nó chuyển ra
gần chiến tuyến hơn rồi”.
Ngày 6/10, tướng Đức Paulus tung 2 sư
đoàn đánh vào Nhà máy Máy kéo khổng lồ nằm ở phía bắc Stalingrad. Paulus chịu
áp lực nặng nề của Hitler yêu cầu phải kết liễu ngay cái túi phòng ngự của quân
Soviet trên bờ tây. Cùng lúc đó, Yeremenko cũng bị Stalin giục phải mở cuộc
phản công để đẩy lùi quân Đức. Chuikov từ chối thực hiện mệnh lệnh phi thực tế
này. Ông chỉ vừa đủ sức giữ được những gì đang có, và đó hoàn toàn là nhờ pháo
hạng nặng đặt trên bờ đông đã liên tục nã đạn câu qua đầu quân của ông vào các
vị trí có thể tập trung xuất phát xung phong của quân Đức, phá hủy mọi ý định
chuẩn bị tấn công của chúng.
Trận tấn công vào Nhà máy Máy kéo
Stalingrad là 1 chương kịch tính của Trận Stalingrad. Những chiếc xe tăng của
Sư 14 Thiết giáp Đức đã lao thẳng vào các phân xưởng như những con ác quỷ thời
tiền sử, xích của chúng nghiền nát những mảnh kính vỡ rơi từ các cửa sổ trên
cao xuống. Phần còn lại của Sư 112 Bộ binh Soviet và Sư 37 Bộ binh Cận vệ của
Đại tá Zholudev đã không thể chặn được cuộc tấn công, thế nhưng mặc dù tuyến
phòng ngự đã bị phá vỡ, họ vẫn tiếp tục chiến đấu trong những vị trí đơn lẻ*.
*[Sư 37 Bộ binh Cận vệ được thành lập từ Quân
đoàn 1 Đổ bộ đường không vào tháng 8/1942, sau những thiệt hại nặng nề tại
Stalingrad, sư đoàn được tái tổ chức và trở thành 1 phần của Tập đoàn quân 65]
Sư đoàn của Zholudev, chính ủy là
Shcherbina. Địa điểm: Nhà máy Máy kéo. Chỉ huy sở bị chôn vùi sau 1 tiếng nổ.
Mọi thứ bỗng trở nên lặng ngắt, mọi người đều ngồi đờ ra đó 1 lúc lâu, rồi họ
bắt đầu hát: “Lyubo, bratsy, lyubo”. (Sự sống là điều tuyệt vời nhất). 1 trung
sĩ đào bới xác những người bị vùi lấp ngay dưới lửa đạn. Anh ta đào như 1 người
điên, đào cuống đào cuồng, miệng sùi cả bọt mép. 1 giờ sau anh ta cũng chết vì
trúng đạn pháo. 1 tên Đức đã để cướp cò khẩu tiểu liên của hắn. Hắn chui vào 1
đường ống và để súng nổ khi nghe thấy tiếng pháo và cối bắn, thế là người ta
phát hiện và lôi hắn ra. Cả người hắn đen kịt, lính tráng xé xác hắn ra thành
từng mảnh.
Khi bọn Đức chiếm được 1 phân xưởng, bọn
chúng còn kích cả 1 chiếc tăng hỏng lên cao để bắn qua cửa sổ.
Grossman 1 lần nữa lại vượt sông sang bờ
tây ngay khi chiến sự bùng nổ trở lại với 1 cuộc tấn công nữa quân Đức. Ông
viết cho Tổng biên tập tờ Krasnaya Zvezda để báo cáo về sự di chuyển của mình.
Thưa đồng chí Ortenberg, tôi khởi hành ngày
11 với Vysokoostrovsky (1 phóng viên khác của tờ Krasnaya Zvezda) và vượt sông
sang Stalingrad ngay trong đêm đó. Tôi đã có các cuộc phỏng vấn chi tiết với
các binh lính, sĩ quan và với tướng Rodimtsev.
Grossman tình cờ nghe được 2 người lính
nói chuyện trên đường tới bến phà qua sông Volga:
“Đã lâu tôi chưa được ăn 1 bữa ăn nóng”.
“Ừ, chúng ta sẽ sớm được uống máu nóng
của chính mình ngoài kia”, người kia trả lời.
Sư 13 Bộ binh Cận vệ của Rodimtsev cũng
hầu như tan nát vì cuộc tấn công bất thình lình.
Ngày 1/10, 1 bộ phận Sư 295 Bộ binh Đức
đã lẻn qua các đường cống thoát nước đánh vào cánh phải của Rodimtsev và gần
như đã cắt đứt được sư đoàn của ông khỏi phần còn lại của Tập đoàn quân 62.
Những chiến binh cận vệ của Rodimtsev đã phản ứng lại bằng những cuộc phản công
ác liệt nhưng cũng chỉ vừa đủ để đẩy bọn Đức lui lại. Grossman đã ở cùng sư
đoàn trong 2 ngày 12 và 13/10.
1 cuộc chôn cất diễn ra bên sông, điếu văn,
chào. Bài điếu văn đọc bên mộ bắt đầu bằng việc nói rằng họ đã hy sinh và trong
trường hợp nào. Việc chôn cất hoàn thành ngay trong đêm, bao giờ cũng kết thúc
bằng việc bồng súng chào.
Việc bồng súng chào vĩnh biệt ở
Stalingrad không có màn bắn lên trời, thay vào đó là bắn về phía bọn Đức.
Đồi Mamaev Kurgan thật đẹp và buồn - nơi
đây giờ là sở chỉ huy tiểu đoàn. Lính đại đội cối bật 1 đĩa hát suốt, bài hát
tên là: “Đừng, các bạn, không phải bây giờ, đừng để tôi trên chiếc giường băng
giá này”.
Không đâu có nhiều âm nhạc như ở đây. Nơi
đất đai bị cày xới, biến màu vì phân và máu này vẫn vang lên tiếng nhạc từ
radio, máy hát và cả các “giọng ca vàng” cấp trung và đại đội.
“Chúng tôi đã tiến hành 2 buổi hòa nhạc ở đây”,
Rodimtsev nói. Thợ cắt tóc Rubinchik chơi violông dưới đường cống ngầm và ai
nấy đều mỉm cười khi nhớ lại những buổi hòa nhạc thật sự.
Rodimtsev cũng kể 1 chuyện gần như giai
thoại phần nào đại diện cho những mối quan tâm của lính tráng.
“Ví dụ hôm nay 2 người lính tới chỗ tôi. Hóa
ra họ đã chiến đấu suốt 14 ngày trong 1 ngôi nhà bị vây giữa những ngôi nhà do
bọn Đức chiếm giữ. Anh biết không, 2 người này rất nhẹ nhàng yêu cầu cung cấp
bánh bít cốt, đạn dược, đường, thuốc lá, nhét tất cả vào balô rồi lại đi. Họ
bảo: “Còn 2 người nữa ở đó canh nhà, và họ cần vài hơi thuốc”. Trên thực tế,
chiến đấu giữa các ngôi nhà quả là 1 công việc kỳ lạ”, ông cười. “Tôi không
biết có nên nói ra với anh hay không, nhưng 1 vụ việc hài hước đã xảy ra hôm
qua. Bọn Đức chiếm được 1 căn nhà, dưới hầm nhà có 1 thùng rượu mạnh. Các chiến
sĩ cận vệ của tôi cay cú vì tưởng tượng bọn Đức đang uống thùng rượu đó, 20
người đã tấn công ngôi nhà, chiếm lại nó và lăn thùng rượu đi dù phần lớn con
phố đã do bọn Đức chiếm giữ. Tất cả các hành động dũng cảm đó đều xuất phát từ
những nguyên nhân rất thực tế...”.
“Tôi không sợ gì hết”, Rodimtsev nói. “Đó
là cách duy nhất. Tôi nghĩ mình đã trải qua mọi thứ. 1 lần xe tăng Đức đã là
phẳng sở chỉ huy của tôi và sau đó bọn lính tiểu liên quẳng lựu đạn vào, ngay
lập tức tôi nhặt lựu đạn ném trả...”.
1 lần khác, Grossman cùng với Efim
Gekhman cũng đã tới gặp Rodimtsev trên bờ tây. Viên tướng cận vệ nói ông hơi lo
lắng với các cuộc phỏng vấn. “Các anh biết không, tôi là người mê tín. Tôi có
nhớ bài viết đăng trên tờ Krasnaya Zvezda về lá cờ đầu Dovator như thế nào. Anh
ta đã bị giết ngay hôm báo ra”.*
*[Thiếu tướng L. M. Dovator, chỉ huy Quân đoàn
Kỵ binh Cận vệ 2 trong trận Moscow, hy sinh ngày 20/12/1941]
Grossman với bản chất tốt đẹp của mình
bao giờ cũng ca ngợi lòng dũng cảm của người khác. “Gekhman là người cực kỳ
dũng cảm”, Ortenberg nhớ có lần Grossman nói. “Một lần, trong một đêm tháng 10
tối đen như mực, chúng tôi phải rời đường hầm nơi Rodimtsev đóng sở chỉ huy tại
Stalingrad để vượt sông Volga sang bờ bên kia bằng thuyền. Rodimtsev lắng nghe một
cách lo lắng tiếng gầm của đạn pháo bên ngoài, lắc lắc đầu và bảo chúng tôi: “Các
đồng chí, làm một ly trước khi đi nào, tình hình ngoài đó đang rất nóng bỏng,
nhất là tại bến sông”. Gekhman nhún vai trả lời: “Không, cám ơn. Tôi thích làm một
miếng xúc xích nữa hơn”. Anh ta nói một cách rất bình thản và xơi miếng xúc
xích một cách thật là ngon lành khiến không ai nhịn được cười”.
Chiều tối ngày thứ 2, 14/10, Tập đoàn
quân 6 Đức mở cuộc tấn công mà tướng Paulus hy vọng là cuộc tấn công cuối cùng
nhằm đẩy Tập đoàn quân 62 khỏi bờ tây. Toàn bộ số máy bay Stuka có thể hoạt
động của Tập đoàn quân Không quân 4 Đức do tướng Wolfram von Richthofen chỉ huy
đều được sử dụng nhằm làm mềm các vị trí quân Soviet. Đó là 1 cuộc oanh tạc dữ
dội chưa từng có. Chuikov có cảm giác thời điểm quyết định của trận đánh đang
tới.
“Giới truyền thông* đã trêu tức Hitler vì
sự thất bại của hắn trong việc chiếm Stalingrad, và chúng tôi lãnh đủ. Chúng
tôi đang ngồi đây, đang hiểu, đang cảm thấy, đang tin chắc rằng Hitler đã tung
các lực lượng quan trọng nhất của hắn vào đây”.
*[Giới truyền thông quốc tế có lẽ gây hiệu quả
(với Hitler) cao hơn là truyền thông Soviet]
“Sau ngày 14, tôi quyết định đưa toàn bộ
phụ nữ sơ tán sang bờ bên kia. Cuộc chia tay có rất nhiều nước mắt. Nhưng lòng
can đảm đã lây lan ở đây, giống như sự hèn nhát đã từng lây lan ở những nơi
khác. Nói cho ngay, chúng tôi chỉ sống được từng giờ, từng phút, ai cũng đợi
tới lúc mình ngã xuống. Thế rồi cảm giác này lại quay lại với tất cả mỗi ngày,
đến tối ai cũng nghĩ: “Ơn Chúa, 1 ngày nữa đã trôi qua, thật ngạc nhiên”. Vâng,
lúc đó nếu ai bảo tôi sẽ sống tới ngày bắt đầu năm mới tôi sẽ cười vào mũi họ”.
Trong đêm 15/10, 3.500 người bị thương
đã được sơ tán qua sông. Nhiều người đã phải tự bò đến bờ sông vì không đủ nhân
viên y tế. Sáng sớm 16/10, đích thân tướng Yeremenko vượt sông sang bờ tây thăm
Chuikov. Ông cần biết chính xác quân ta còn có thể giữ vững được không. “Yeremenko
đến trong đêm*... Gurov và tôi ra gặp ông”.
*[Grossman ghi rằng cuộc gặp gỡ này xảy ra đêm 13/10 nhưng hầu hết
các ghi chép khác đều cho biết cuộc viếng thăm trận địa trên bờ tây của
Yeremenko diễn ra vào sáng sớm ngày 16/10]
“Lửa cháy như hỏa ngục, đang có 1 cuộc không
kích”, Chuikov không nói ra ông và Gurov đã không tìm thấy Yeremenko trên bờ
sông, tự Yeremenko đã lẻn vào sở chỉ huy Tập đoàn quân 62 và đợi 2 ông ở đó.
Yeremenko kể cho Grossman việc ông đã chạm trán với 1 người lính bên bờ sông
như thế nào: “Tôi nhận ra ông, thưa đồng chí Tổng Tư lệnh”. Anh ta kể tôi nghe
anh ta đã ở đâu, chiến đấu ra sao, giết được bao nhiêu tên Đức”.
Sau khi trận Stalingrad kết thúc,
Chuikov đã cố kể lại tình hình lúc đó 1 cách sáng sủa hơn là thực tế nhưng cũng
không lấp liếm sự thật là trong cuộc khủng hoảng vào trung tuần tháng 10 đó,
đầu cầu của Tập đoàn quân 62 đã thu hẹp lại chỉ còn chưa tới 1.000m chiều sâu
và chỉ chút xíu nữa là bị bóp nghẹt.
“Các cuộc tấn công của bọn Đức: chúng
nghiền nát mọi thứ trên mặt đất dưới xích xe tăng. Sau cơn hỗn loạn các chiến
sĩ ta xông ra khỏi các chiến hào và cắt rời bộ binh Đức khỏi những chiếc xe
tăng của chúng... Có tiếng thét: “Xe tăng địch đã vào đến sở chỉ huy!”.
“Còn bộ binh?”.
“Quân ta đã tách rời được chúng ra”.
“Thế thì mọi thứ vẫn ổn”.
Grossman hỏi Chuikov xem ông nghĩ thế
nào về sự chấp hành mệnh lệnh của quân Đức. “Chúng không phải đội quân đặc biệt
xuất sắc, nhưng công bằng mà nói chúng ta phải học tập tính kỷ luật của chúng.
Mỗi mệnh lệnh đều là pháp luật đối với chúng”.
Tham mưu trưởng của Chuikov, Krylov,
người đã trải qua trận phòng thủ Sebastopol ác liệt, đã so sánh trận đánh đó
với trận Stalingrad này. “Tại đó quân ta cứ rút dần ra, trong khi ở đây lại
được bổ sung thêm liên tục. Tuy nhiên giữa 2 trận đánh có rất nhiều điểm chung.
Đôi khi chúng tôi có cảm giác như mình vẫn đang tiếp tục trận đánh cũ. Nhưng
chúng tôi không hề cảm thấy mất tinh thần như hồi ở Sebastopol”.
Mất Nhà máy sản xuất máy kéo có nghĩa là
Lữ đoàn 124 của Gorokhov ở Spartakovka bị cắt rời khỏi đội hình.
Trong cái ngày bi hùng đó, tôi nhớ đến tiểu
đoàn đã vượt sông tiến về hướng khu vực quân của Gorokhov đang phòng thủ nhằm
mục đích thu hút đòn đánh chính của địch chuyển hướng nhằm vào chính họ*.
*[Grossman có lẽ đang tả lại chiến sự ngày
17/10, khi toàn bộ các đầu cầu trên bờ tây đối mặt với cuộc tổng tấn công của
quân Đức. Tiểu đoàn này thuộc Sư 138 của Lyudnikov, lực lượng tăng cường vừa
mới tới và được Chuikov tung qua sông Volga trong thời điểm quyết định của trận
đánh]
Tất cả đã hy sinh, không 1 ai sống sót.
Nhưng có ai còn nhớ đến tiểu đoàn này không? Không ai còn nghĩ tới những người
đã vượt sông trong đêm mưa cuối tháng 10 đó. (2 ngày sau tôi đã gặp 1 tù binh
người Gruzia của tiểu đoàn này. Hắn đã đào ngũ và đầu hàng địch. Hắn nói có
nhiều người khác cũng đầu hàng).
1 người Ossetia tên là Alborov đã hy sinh
tại vị trí phòng ngự vì 1 trái bom. Tay anh vẫn còn nắm chặt báng súng, nòng đã
bị thổi bay vì vụ nổ, mạch của anh vẫn chưa ngừng đập. Bạn anh đang thổn thức,
rồi khóc: “Người đồng chí của tôi hy sinh rồi”.
Grossman bỏ nhiều thời gian ở cùng với
Sư 308 Bộ binh của Đại tá Gurtiev gồm toàn dân Siberi đang bảo vệ khu vực các
xưởng sản xuất silicat nằm ở phía bắc tổ hợp Nhà máy Chiến lũy*. Họ đã vượt
sông Volga ngày 30/9 và lập tức xung trận. Đây là những tài liệu mà Grossman
sưu tập được cho thấy những gì đã xảy ra với sư đoàn kể từ ngày cuối cùng của
tháng 9, ngày họ đã vượt sông sang bờ tây.
*[Sư 308 Bộ binh sau chuyển thành Sư 120 Bộ binh Cận vệ trực thuộc
Tập đoàn quân 3. Giống như hầu hết các sư đoàn đã tham chiến tại Stalingrad, sư
đoàn này cũng tiếp tục chiến đấu trên mọi nẻo đường cho tới tận Berlin]
Tuyến đầu đã bị vượt qua, rồi tuyến 2, sau
đó là tuyến 3. 13 đợt tấn công đã được tung ra trong ngày hôm đó. Bọn Đức tìm
mọi cách tiến tới bến phà. Pháo binh ta đóng vai trò quyết định.
Ngày 1/10, 4 trung đoàn pháo và các pháo
đội Katyusha bắn trong nửa giờ. Khi đó mọi hoạt động đều tê liệt. Bọn Đức rúc
xuống chỗ trú ẩn. Lính ta cũng chỉ quan sát và nghe ngóng.
Bọn Đức ở ngay hàng rào nhà máy. Đó là buổi
chiều ngày 2/10. 1 số tên ẩn núp, số khác bỏ chạy. 1 chiến sĩ người Kazakh đã
tóm được 3 tù binh, anh ta cũng đã bị thương, vì vậy anh rút dao ra đâm chết cả
3 tù binh. 1 lính tăng thân hình to lớn, tóc đỏ, nhảy khỏi chiếc xe tăng đã
trúng đạn, nhặt gạch ném bọn Đức 1 cách tuyệt vọng và mù quáng. Cuối cùng bọn
Đức đã quay gót bỏ chạy.
Tinh thần binh sĩ vẫn cao, họ đã có một số
kinh nghiệm chiến đấu, tuổi đời của họ là từ 23 đến 46, phần lớn là dân Siberi
đến từ Omsk, Novosibirsk và Krasnoyarsk. Dân Siberi thấp đậm, kín đáo và cứng
rắn hơn các sắc dân khác. Họ vốn là dân săn bắn, có kỷ luật cao và chịu lạnh
hay gian khổ với họ là chuyện thường. Không hề có một trường hợp đào ngũ nào
trên đường tới Stalingrad. Một người đã đánh rơi súng, anh ta nhảy xuống nhặt
rồi chạy bộ đuổi theo đoàn tàu suốt 3km thì bắt kịp nó. Họ không lắm lời nhưng
dí dỏm và miệng lưỡi sắc nhọn.
“Chúng tôi thường xuyên phải chịu đựng bọn “máy
rít” (Stuka), thậm chí còn thấy buồn nếu không nghe tiếng rít đó của bọn Đức.
Khi chúng rít lên có nghĩa là chúng sẽ không ném cái gì vào đầu chúng tôi.
Chúng bắt đầu đánh vào khu nhà máy sản xuất silicat đêm hôm 2/10. Toàn bộ trung
đoàn của Markelov chết hoặc bị thương hết, chỉ có 11 người thoát được. Bọn Đức
chiếm được toàn bộ khu nhà máy vào tối 3/10. Mệnh lệnh dành cho chúng tôi là: không
lùi 1 bước. Trung đoàn trưởng bị thương nặng, chính ủy hy sinh.
“Quân ta bắt đầu phòng thủ 1 con phố đã
cháy trụi phía trước công viên điêu khắc. Không ai trở về sau trận đánh, tất cả
đều hy sinh tại vị trí. Thời điểm quyết định đến vào ngày 17/10. Địch ném bom
chúng tôi suốt 3 ngày đêm 17, 18 và 19/10. 2 trung đoàn Đức bắt đầu tấn công.
“Cuộc tấn công bắt đầu vào 5h sáng và chiến
sự diễn ra suốt cả ngày. Chúng tấn công thọc sườn quân ta và cắt rời sở chỉ huy
khỏi phần còn lại của trung đoàn. Trung đoàn chiến đấu từ nhà này sang nhà khác
suốt 2 đến 3 ngày, cả các sĩ quan thuộc ban chỉ huy cũng thế. Đại đội trưởng
đại đội 7 cùng 12 người nữa đã đánh bật 1 đại đội Đức khỏi chiến hào của chúng.
Họ rời con hào đó trong đêm, sau đó đánh chiếm 1 ngôi nhà. Trong nhà có 20 tên
Đức, 2 bên đánh nhau bằng lựu đạn giành giật từng tầng nhà, từng cầu thang,
từng ban công, từng phòng.
“Phó tham mưu trưởng Kalinin đã hạ 27 tên
địch và 4 xe tăng bằng súng trường chống tăng. Có 80 công nhân và 1 đại đội tự
vệ bảo vệ nhà máy, chỉ còn 3 hay 4 người sống sót. Họ chưa trải qua 1 khóa huấn
luyện quân sự nào. Chỉ huy của họ là 1 công nhân trẻ, 1 Đảng viên, và họ đã bị
cả 1 trung đoàn Đức tấn công.
“Ngày 23/10, cuộc chiến bắt đầu lan vào bên
trong nhà máy, các công xưởng bốc cháy cùng với đường sắt, đường bộ, cây cối,
bụi rậm và cỏ dại. Tại sở chỉ huy, Kushnarev và tham mưu trưởng Dyatlenko ngồi
dưới cống cùng 6 tay súng tiểu liên. Họ có 2 thùng lựu đạn và đã đánh lui được
bọn Đức. Quân Đức cho xe tăng xông vào nhà máy. Các công xưởng đổi chủ nhiều
lần. Xe tăng địch phải phá hủy các công xưởng bằng cách bắn thẳng ở cự ly gần.
Máy bay địch đánh bom chúng tôi suốt ngày đêm. 1 tù binh Đức, vốn là 1 giáo
viên, cho chúng tôi biết quân Đức đã nhận nghiêm lệnh phải tới được sông Volga
vào ngày 27/10. Đôi bàn tay tên tù binh đen nhẻm, rận chui cả vào tóc hắn, hắn
bắt đầu khóc nức nở”.
Mikhalyev, Barkovsky và tham mưu trưởng
Mirokhin đã hy sinh, tất cả họ đều được truy tặng huân chương... Lính tiểu liên
Kolosov bị đất vùi lấp đến ngực, anh ta mắc kẹt trong đó nhưng vẫn cười: “Nó
làm tôi phát điên!”. Trung đội trưởng giao liên Khamitsky vẫn đang ngồi ngoài
cửa boongke đọc sách giữa trận bom ác liệt, Sư trưởng Gurtyev tức giận hỏi:
“Anh sao thế?”.
“Tôi chẳng có việc gì khác để làm, chúng cứ
ném bom thế này thì tôi đọc sách vậy”.
Mikhalyev vốn rất được mọi người yêu quý.
Khi giờ đây có ai hỏi: “Mọi thứ thế nào?”. Câu trả lời là: “Hừ, nói gì đây?
Giống như chúng tôi mất cha vậy. Thật tiếc cho quân ta, anh ấy luôn vị tha với
mọi người”.
Sĩ quan liên lạc Batrakov, 1 nhà hóa học,
tóc đen, kính trắng, phải đi bộ 10 - 15km mỗi ngày. Ông tới các sở chỉ huy, lau
kính, thông báo tình hình rồi lại đi. Ông ngày nào cũng đến vào 1 giờ chính
xác.
“Tình hình trở nên yên tĩnh vào các ngày 12
và 13/10, nhưng chúng tôi hiểu sự yên tĩnh đó có nghĩa gì. Ngày 14 địch bắt đầu
pháo kích sở chỉ huy sư đoàn bằng Vanyusha”*.
*[Vanyusha là nickname của loại súng cối phản
lực nhiều nòng Nebelwerfer của Đức. Phiên bản kém hiệu quả của Katyusha này vốn
có tên nguyên thủy là Vanya, sau đó những tay hài hước tưởng tượng điều gì sẽ
xảy ra nếu anh chàng Vanya nhỏ thó kết hôn với cô vợ khủng bố Katyusha nên đổi
thành nickname như trên. Loại súng này cũng được gọi là “lừa kêu” vì tiếng rít
của quả đạn khi bay trong không khí giống tiếng be be của lừa]
“Boongke chỉ huy trúng đạn nhưng chúng tôi
đã ra được khỏi đó, mất 13 hay 14 người thương vong. Đạn của chúng tạo ra tiếng
rít chói tai. Mới đầu chỉ là tiếng ken két: “Aha! Hitler bắt đầu kéo vi ô lông”,
và rồi càng lúc càng to. Vladimirsky đang hấp hối vì trúng đạn khi đang đi WC.
Anh ta đã bị đau bụng khi ăn 1 hộp đồ ăn của lính và đã phải nhịn từ lúc đêm
xuống”.
Phân xưởng 14 bốc cháy từ bên trong. Khi
Andryushenko hy sinh, trung tá chính ủy trung đoàn Kolobovnikov, người đã từng
được nhận 4 huân chương và có khuôn mặt sắt đá, gọi điện cho sở chỉ huy và bắt
đầu nói: “Thưa đồng chí Thiếu tướng, xin được báo cáo”. Ông dừng 1 lúc rồi nói
trong tiếng nấc: “Vanya chết rồi!”.
Một lính tăng “đánh thuê” (tức là xe tăng
phối thuộc cho đơn vị bộ binh): mọi người cho anh ta sô cô la, vodka, vác đạn
giúp anh. Và anh đã làm việc như trâu. Ai nấy đều nghĩ anh chính là người của
trung đoàn.
“Chúng tôi có lựu đạn, tiểu liên và pháo
45mm chống tăng. 30 xe tăng địch tấn công và chúng tôi đã sợ, đây là lần đầu
tiên chúng tôi gặp phải chuyện này! Nhưng không 1 ai bỏ chạy. Những cỗ xe tăng
bò qua những chiến hào. 1 lính Hồng quân ló lên nhìn và cười: “Đào sâu đấy!”.
Các bưu tá: Makarevich để ria con kiến,
xuất thân nông dân, mang theo cái túi đựng đầy thư từ, postcard, báo chí.
Karnaukhov đã bị thương. Đã có 3 bưu tá bị thương, 1 chết... Khi bị thương,
Kosichenko đã giật chốt lựu đạn bằng răng để cho nổ tung tất cả.
Grossman đã viết câu chuyện về cuộc tấn
công vào Sư 308 Bộ binh gửi tờ Krasnaya Zvezda, bài báo được đăng 1 tháng sau
với tựa đề “Cuộc tổng tấn công của quân phát xít”. Ortenberg sau đó có viết về
kỹ năng phỏng vấn của Grossman. “Tất cả các phóng viên đi theo Phương diện quân
Stalingrad đều kinh ngạc không hiểu Grossman đã làm thế nào mà sư trưởng, tướng
Gurtiev, 1 người Siberi kín đáo và kiệm lời, đã chịu nói chuyện với anh ta 6h
liền không nghỉ, nói tất cả những gì anh ta muốn biết vào 1 trong những thời
điểm ác liệt nhất của trận đánh”.
Grossman có lẽ cũng bị ảnh hưởng tính mê
tín của cánh frontoviki (lính tuyến đầu), kết quả của việc thường xuyên sống
với sự chết chóc khó lường nhất, nhưng bản thân ông cũng là 1 nhà văn với những
mê tín riêng. Tổng biên tập của ông đã rất khoái chí khi phát hiện Grossman tin
rằng tự dán thư từ sẽ đem lại điềm gở. “Khi anh ta viết 1 bài báo, anh ta
thường nhờ Gekhman, người thường đi cùng trong các chuyến ra mặt trận: “Efim,
anh có bàn tay nhẹ nhàng. Làm ơn lấy bài viết này của tôi bỏ phong bì, dán lại
và gửi bưu điện đi Moscow bằng chính tay anh được không?”.
Ortenberg, 1 nhà báo CS cứng rắn, cũng
cảm thấy thích thú với cách mà Grossman kiểm tra kỹ lưỡng bản in cuối cùng các
bài viết của ông. “Tôi còn nhớ anh ta đã thay đổi thế nào mỗi khi 1 tờ báo có
bài của anh ta được chuyển tới. Anh ta tỏ ra rất sung sướng, đọc đi đọc lại bài
viết, kiểm tra xem từ này hay từ khác đọc lên nghe như thế nào. Là 1 nhà văn
kinh nghiệm, anh ta thực sự tôn thờ chữ nghĩa”. Ortenberg có lẽ cũng hơi cường
điệu 1 chút khi mô tả như vậy. Grossman thường giận dữ với cách mà người ta sửa
chữa hay cắt xén bài của ông. Ông đã viết 1 bức thư cho vợ, Olga Mikhailovna,
hôm 22/10:
Anh đã viết 1 bức thư giận dữ gửi Tổng biên
tập và giờ đang chờ trả lời mà không phải không có chút thích thú. Anh đã viết
về thái độ quan liêu và những trò xỏ lá của Ban biên tập.
Thực tế, văn chương của Grossman ít động
chạm hơn hầu hết các nhà báo khác. Ortenberg cởi mở thừa nhận rằng nhiều nhà
báo quần chúng chịu ảnh hưởng của Grossman. Thậm chí cả những tay bồi bút CS ở
Moscow cũng rất quan tâm đến những đề tài mà Grossman đưa ra về những người
lính Hồng quân chứ đừng nói đến đông đảo quần chúng. Nó có tác dụng hơn nhiều
những câu khẩu hiệu Stalinist đao to búa lớn.
Chỉ ở đây người ta mới hiểu chính xác 1km
có ý nghĩa như thế nào. 1km bằng 1.000m, bằng 100.000cm. Những tên lính tiểu
liên Drunken (Đức) vẫn điên cuồng dấn tới 1 cách ngoan cố. Giờ chẳng còn ai có
thể kể trung đoàn của Markelov đã chiến đấu như thế nào nữa... Vâng, đơn giản
là họ đã hy sinh hết, không còn ai trở về.
Nhiều lần trong ngày, pháo và cối Đức bất
ngờ ngừng bắn, và các phi đội máy bay ném bom bổ nhào cũng biến mất, tạo ra 1
vẻ yên ả kỳ quái. Rồi có tiếng quát của lính canh: “Coi chừng!”, lính tại các
vị trí tiền tiêu nắm chặt chai cháy (Molotov cocktail), lính chống tăng mở sẵn
bao đạn, lính tiểu liên xoa bàn tay lên khẩu PPSh. Khoảng lặng ngắn ngủi này
báo hiệu 1 cuộc tấn công.
Không lâu sau đó là tiếng của hàng trăm
chiếc bánh xích rền vang cùng tiếng ro ro của động cơ cho biết đám xe tăng đang
di chuyển. 1 trung úy hô: “Chú ý, các đồng chí! Lính tiểu liên sang trái!”. Đôi
khi bọn Đức tiến gần tới mức những người lính Sibêri nhìn rõ cả khuôn mặt bẩn
thỉu và những chiếc áo khoác tả tơi của chúng, nghe được cả thanh âm gầm gừ từ
cổ họng chúng...
Giờ đây khi nhìn lại, ai cũng có thể nhận
ra chủ nghĩa anh hùng đã được thể hiện trong từng khoảnh khắc sống của mỗi
người lính sư đoàn. Đó là chỉ huy trung đội giao liên Khamitsky, người bình
thản ngồi trên 1 mô đất đọc tiểu thuyết trong lúc cả tá Stuka bổ nhào gầm thét
xung quanh. Đó là sĩ quan truyền tin Batrakov, người luôn lau kính cẩn thận, bỏ
báo cáo vào túi dết rồi cuốc bộ qua 20km “vùng đất chết” như thể đó là 1 cuộc
tản bộ trong công viên ngày chủ nhật*.
*[Trong bài viết cuối cùng này, chuyến đi diễn
ra hàng ngày của Batrakov đã tăng từ 10 - 15km như ghi chép nguyên thủy của
Grossman lên 20km/ngày]
Đó là lính tiểu liên Kolosov, người khi bị
1 vụ nổ chôn vùi đến tận ngực trong hầm đã quay nhìn chỉ huy phó Spirin mà
cười. Đó là nhân viên đánh máy của sở chỉ huy Klava Kopylova, 1 cô bé má hồng
béo ú dân Sibêri, người đang đánh máy chiến lệnh tại sở chỉ huy thì bị chôn vùi
trong trận oanh tạc, người ta đã moi được cô lên và cô tiếp tục đánh máy trong
1 căn hầm khác. Cô lại bị chôn vùi lần nữa và lại được moi ra, cuối cùng cô đã
đánh máy xong tờ lệnh trong căn hầm thứ 3 và đưa nó cho sư trưởng ký. Đó là
những người đã chiến đấu chống lại cuộc tổng tấn công của quân phát xít.
Các balka, hay đường hẻm, thường bị pháo
kích và là nơi nguy hiểm nếu địch tính luồn qua đó để không bị phát hiện, phần
lớn chúng chạy dọc theo góc phải của bờ sông Volga.
Những balka rất có tác dụng, đặc biệt là ở
đây tại Stalingrad này. Nó là đường di chuyển tốt vì hẹp và sâu. Các sở chỉ huy
và khẩu đội cối cũng thường đặt tại đó. Đây là 1 balka nằm dưới tầm hỏa lực
địch, nhiều người đã hy sinh ở đây. Dây thông tin chạy qua đây, đạn dược cũng
được chuyển qua đây. Máy bay và súng cối địch xác định vị trí của nó căn cứ vào
các mốc xung quanh. Chamov cũng từng bị vùi lấp ở đây trong 1 vụ oanh tạc,
người ta đã moi được anh ra. Bọn thám báo cũng qua đây.
Grossman quan sát cuộc sống tại sở chỉ
huy của Gurtiev.
Các báo cáo được viết lên giấy tờ, bao gói,
bảng biểu hoặc giấy mời, v.v... tìm thấy trong nhà máy. Zoya Kalganova đã trở
lại, cô bị thương lần này là lần thứ 2. Sư trưởng chào mừng cô: “Hello, bé yêu”.
Lòng dũng cảm của những nữ nhân viên y
tế trẻ được tất cả mọi người khâm phục. Phần lớn các nữ binh sĩ Đại đội quân y
Tập đoàn quân 62 là sinh viên hoặc học sinh cấp 3 ở Stalingrad. Sư 308 cũng lấy
1 số phụ nữ từ khắp Sibêri để làm những việc từ y tá, văn thư đến giao liên.
Các y tá đi dưới làn đạn để tìm kiếm các thương binh, khiêng hoặc kéo họ vào
nơi an toàn. Họ cũng ăn khẩu phần như lính tiền tuyến.
Các cô gái mang bữa sáng đến cho quân ta
trong những cái phích vác trên vai. Lính tráng nói chuyện về họ với vẻ hết sức
yêu quý. Các cô gái đó không bao giờ chịu trốn xuống dưới hào.
1 trong những cô gái trẻ đó sau này đã
cung cấp cho Grossman danh sách thương vong của các cô gái đã đi cùng cô tới
đây từ Sibêri.
“Lyolya Novikova, 1 nữ y tá vui tính không
biết sợ là gì bị trúng 2 phát đạn vào đầu. Nina Lysorchuk bị thương. Katya
Borodina bị vỡ nát tay phải. Antonina Yegorova hy sinh, cô là 1 y tá mới và đã
đi theo trung đội mình trong 1 cuộc tấn công, 1 tay súng tiểu liên địch đã bắn
xuyên qua cả 2 chân cô, cô chết vì mất máu. Tonya Arkanova đi theo hỗ trợ 1 số
thương binh và được báo cáo là đã mất tích. Galya Kanysheva hy sinh vì trúng
bom. Chỉ có 2 người thoát được trong số chúng tôi: Zoya và tôi... Tôi bị thương
vì mảnh đạn cối khi đang ở gần 1 boongke, sau đó lại bị thương 1 lần nữa vì
mảnh bom gần bến phà qua sông Volga.
“Chúng tôi từng theo học tại Trường số 13 ở
Tobolsk. Các bà mẹ khóc lóc: “Các con sẽ ra sao ngoài mặt trận đây? Ở đó toàn
là đàn ông mà”. Chúng tôi đã tưởng tượng về chiến tranh rất khác với những gì
thực tế xảy ra. Tiểu đoàn chúng tôi nằm ở tuyến đầu trung đoàn, tham chiến vào
10h sáng. Mặc dầu rất sợ, trận chiến vẫn làm chúng tôi bị cuốn hút. Chỉ còn 13
cô gái còn sống sót sau trận đánh trong số 18 cô ban đầu.
“Tôi từng rất sợ những xác chết trong 1
thời gian dài, nhưng 1 đêm, tôi phải núp dưới 1 xác chết khi 1 tên lính tiểu
liên địch bắn lia lịa. Tôi nằm ngay dưới cái xác. Hồi đầu tôi rất sợ máu, thậm
chí hết muốn ăn gì luôn, nhắm mắt lại tôi cũng vẫn nhìn thấy máu.
“Chúng tôi hành quân 8 ngày liền, 120km, không
ăn không ngủ. Tôi đã từng tưởng tượng chiến tranh như thế nào - đạn nổ khắp
nơi, trẻ con khóc, mèo chạy lung tung, và khi chúng tôi tới Stalingrad thực tế
hóa ra đúng như vậy, chỉ khác là khủng khiếp hơn rất nhiều.
“Tôi đang gọt khoai tây với anh nuôi, vừa
làm vừa nói chuyện mê mải với các anh lính. Bất thần khói bốc mù mịt, anh nuôi
hy sinh, vài phút sau khi trung úy tới lại có 1 quả đạn cối nữa nổ tung làm cả
2 chúng tôi bị thương.
“Thật đáng sợ khi di chuyển trong đêm mà
nghe tiếng quát của bọn Đức ngay gần, rồi mọi thứ xung quanh bùng cháy. Thật
khó để mang những người bị thương, chúng tôi toàn nhờ các anh lính khiêng
thương binh hộ.
“Tôi đã khóc khi mình bị thương. Chúng tôi
đã không thể đi gom thương binh vào ban ngày. Chỉ đúng 1 lần Kazantseva đang
cõng Kanysheva thì 1 tên lính tiểu liên bất ngờ bắn trúng ngay đầu cô. Lúc đó
là ban ngày, chúng tôi chỉ kéo được họ xuống 1 hố đạn pháo, phải đến tối mới
mang được họ đi với sự giúp đỡ của các anh lính.
“Thỉnh thoảng có những lúc tôi đã hối hận
vì tình nguyện nhập ngũ, nhưng tôi tự an ủi mình bằng cách tự nhủ ta không phải
người đầu tiên, và cũng không phải người cuối cùng. Rồi Klava nói: “Những người
đã hy sinh đều là người tốt, cái chết của mình chắc cũng làm thay đổi được điều
gì đó”. Chúng tôi nhận được thư của các thầy cô giáo, họ tự hào vì đã dạy dỗ
những đứa con gái như chúng tôi. Bạn bè ganh tỵ với chúng tôi vì chúng tôi có
cơ hội được băng bó những vết thương. Bố tôi viết: “Hãy phục vụ đất nước 1 cách
trung thực và trở về nhà với chiến thắng”. Còn mẹ tôi viết... Vâng, khi tôi đọc
những gì mẹ viết cho tôi, nước mắt tôi rơi lã chã”.
Klava Kopylova, văn thư: “Tôi bị chôn vùi
trong 1 boongke khi đang đánh máy 1 tờ lệnh. Trung úy gào to: “Còn sống không?”.
Họ moi tôi ra. Tôi chuyển sang boongke bên cạnh và lại bị chôn vùi lần nữa
trong đó. Họ moi tôi ra tiếp, và tôi lại đánh máy tiếp, đánh cho đến khi xong
văn bản. Tôi sẽ không bao giờ quên vụ đó nếu tôi còn sống. 1 đêm có trận oanh
tạc, mọi thứ bốc cháy. Người ta đánh thức tôi dậy. Tất cả các Đảng viên đều
đang ở trong boongke, họ chúc mừng tôi hết sức chân thành và vui vẻ. Ngày 7/11
đó tôi đã được nhận thẻ Đảng. Người ta đã thử chụp ảnh tôi nhiều lần để dán vào
thẻ Đảng nhưng lần nào cũng bị pháo kích. Trong những ngày yên ả, chúng tôi
nhảy múa và hát bài “Chiếc khăn xanh nho nhỏ”*. Tôi cũng tranh thủ đọc mấy cuốn
“Anna Karenina” và “Phục sinh”.
*[Bài hát “Chiếc khăn xanh nho nhỏ” có ảnh
hưởng lớn tới mức 1 số binh sĩ đã thêm tiêu đề bài hát vào tiếng hô xung trận
chính thức khiến nó trở thành: “Za Rodinu, za Stalina, za Siny Platochek!” - “Vì
Tổ quốc, vì Stalin, vì chiếc khăn xanh!”]
Lyolya Novikova, y tá tập sự: “Bạn bè của
Galya Titova kể tôi nghe lần cô ấy đang băng bó cho 1 thương binh thì có bắn
nhau dữ dội, người lính hy sinh còn cô ấy bị thương. Cô ấy đứng thẳng dậy nói: “Tạm
biệt các chị”, rồi ngã xuống. Chúng tôi chôn cất cô ấy... Các thương binh hầu
hết đều viết cho Chính trị viên của họ...*. Mặc dù nói được tiếng Đức nhưng tôi không
bao giờ nói chuyện với bọn tù binh, tôi không muốn nói chuyện với chúng.
*[1 người lính tốt khi bị thương thường sợ sẽ
không được chấp thuận cho trở về đơn vị. Họ cho rằng các quan chức ở hậu phương
thường chỉ tập hợp họ lại theo đợt khi tình hình chiến sự lại trở nên cấp thiết
và gửi cả đám vào 1 trung đoàn bất kỳ, vì vậy họ viết thư cho Chính trị viên để
xin về lại đơn vị]
“Môn học ưa thích của tôi là đại số. Tôi
từng muốn theo học tại Viện Nghiên cứu Chế tạo Máy... Giờ chỉ còn có 3 chúng
tôi trong số 18 cô gái lúc đầu... Chúng tôi đã chôn cất Tonya Yegorova. Sau
trận đầu, chúng tôi mất 2 cô. Chúng tôi đã gặp viên hạ sĩ nói Tonya chết trên
tay anh ta, cô ấy nói với anh ta: “Ay, tôi sắp chết rồi, tôi đau lắm, tôi không
biết chân tôi còn hay mất rồi”. Anh ta trả lời: “Chân cô vẫn còn”. Không thể
đến gần chỗ cô ấy trong 2 ngày vì có 1 chiếc tăng ở đó. Cuối cùng khi chúng tôi
đến được, chúng tôi tìm thấy cô ấy nằm dười hào. Chúng tôi thay quần áo cho cô,
đặt 1 chiếc khăn mùi xoa vào tay cô, che mặt cô bằng 1 chiếc áo choàng, tất cả
chúng tôi đều khóc. Lúc đó có tôi, Galya Kanysheva và Klava Vasilyeva, giờ 2
người kia đều chết cả rồi. Trong quá trình chiến đấu chúng tôi không được hòa
đồng lắm với cánh lính tráng, chúng tôi kiểm tra xem họ có rận không và cãi
nhau với họ suốt. Vậy mà giờ các anh lính đều nói: “Chúng tôi rất biết ơn các
cô”.
“Chúng tôi tham gia xung phong với trung
đội của mình, bò bên cạnh họ, cho họ ăn, đưa nước cho họ, băng bó họ dưới làn
đạn. Chúng tôi đã trở nên kiên cường còn hơn cả những người lính và thậm chí
còn thường thúc giục họ xông lên. Thỉnh thoảng trong đêm tôi cảm thấy run lên,
tôi nghĩ: “Ôi, ước gì mình đang ở nhà”.
Trung sĩ Ilya Mironovich Brysin: “Vào 1
buổi tối chúng tôi bắt đầu vác đạn pháo xuất phát từ bến phà, đi qua 6km, đầu
tiên là men theo bờ sông, sau đó đi qua 1 balka, vào thành phố và cuối cùng là
tới khu vực nhà máy. Mỗi lần mang được 16kg. Chúng tôi bọc đạn trong 1 tấm vải
lót, 8 quả mỗi lần. Chúng tôi đi bộ dọc bờ sông dưới làn đạn cối. Không ai nhìn
xuống chân cả, mọi người đều nhìn lên trời cảnh giác. Bom rơi cách chúng tôi
chỉ 5m, chúng tôi để những người bị thương lại với mấy người nữa để chăm sóc
cho họ, số còn lại tiếp tục đi. Trong đường hẻm (balka), súng cối và tiểu liên
địch bắn vào chúng tôi. Chúng tôi đặt tên cho con hẻm này là Con hẻm Chết chóc,
nó dài khoảng 400m, cứ đi chỉ độ 5 bước là lại phải nằm xuống 1 lần. 22 người
mang theo 200 quả đạn, 10 người đã chết hoặc bị thương ở đây. Khi tới được 1
con phố, dù muốn dù không chúng tôi cũng phải di chuyển giữa những ngôi nhà. 1
lần chúng tôi đã phải cất giấu 300 viên đạn vì bị bọn địch tấn công với những
loạt đạn bắn thẳng. Ôi, lộn ruột làm sao khi phải bắt đầu lại từ đầu.
“Chúng tôi bắn nhau suốt ngày. Bọn Đức chỉ
ở cách chúng tôi độ 70m. Nhóm gồm có tôi, Dudnikov, Kayukov, Pavlov, Glushakov
và Pinikov. Trước buổi sáng ngày 28 có 1 trung uý đã bò đến chỗ tôi nhưng mắt
của anh ta đã bị thương vì mảnh đạn cối. Tôi phải cho anh ta đi, giao Pavlov
tháp tùng anh ta. Vậy là chúng tôi chỉ còn 4 người. Bọn Đức tiến lên theo hàng
1, thẳng lưng mà đi.
“Chúng tôi đã đánh bật được chúng ngày hôm
đó. Pavlov gọi tôi: “Tấn công thôi”. Tôi hỏi: “Cậu có bao nhiêu người?”. “10,
còn cậu?”. “4”. “Tốt, tấn công đi!”. Và bên kia là cả trăm tên Đức, 2 đại đội
SS*. Thế đấy, chúng tôi vẫn tấn công chúng.
*[Phần lớn các báo cáo của lính Hồng quân tại
Stalingrad đều nói họ chiến đấu với lính SS nhưng thực tế tại đây không có đơn
vị SS nào. Đây chỉ là kiểu nói để chỉ lính Đức được trang bị tốt và có kỷ luật
tốt]
“Tôi nhảy ra và chạy thẳng về phía trước. “Theo
tôi! Ura!”. Khi tôi chạy tới căn nhà thứ 2 thì thấy có mỗi 1 mình, bọn Đức chỉ
cách 15m. Xung quanh yên lặng, bình minh đang ló rạng. Tôi thấy hơi sợ, tôi lao
luôn vào trong nhà và nghe ngóng. Bọn Đức đang bắn từ sau bức tường, chỗ trong
góc. Tôi quẳng lựu đạn vào góc qua cửa sổ, 1 quả nữa qua cửa chính. Thật khó
nói cảm giác của tôi lúc đó. Tôi muốn lại gần bọn Đức hơn nhưng chúng đã biến
mất sau 1 bức tường đất và tôi ko thể bắt kịp chúng.
“Tôi trèo lên tầng 2 qua 1 bức tường vỡ.
Tôi đã giấu 8 quả lựu đạn ở đó từ chiều hôm qua. Chúng tôi gọi nó là “xúc xích”*.
Tôi đã đứng đó như đứng sau xong sắt nhà tù, súng lăm lăm trong tay nhưng không
có tên nào ló ra khỏi bức tường. Tôi ném tất 8 quả lựu đạn vào chúng. Chúng bắt
đầu bắn vào tôi bằng 2 khẩu súng máy và 1 khẩu cối. Tôi thực sự không sợ tí nào
nữa. Tôi buộc 2 tấm thảm lại với nhau, buộc 1 đầu vào xà ngang rồi trượt theo
đó xuống tầng trệt qua 1 lỗ đạn pháo, sau đó bò về với người của mình trong
ngôi nhà thứ nhất. Tôi bảo: “Kayukov đã bị thương nặng”.
*[Loại lựu đạn tiêu chuẩn do Soviet sản xuất
được gọi là “xúc xích”. Lựu đạn Mỹ được cung cấp qua Thỏa ước Lend - Lease được
gọi là “quả dứa”]
“Đại đội trưởng gọi tôi lên: “Cậu có thể đi
trinh sát đống xỉ than sau đường tàu hỏa không? Có 1 căn nhà gỗ ở đó”. Tôi bảo:
“Tôi phải ăn cái đã. Và ngủ 1 chút có được không?”. “Xuống địa ngục mà ngủ!”.
Trung úy đưa tôi ít bánh mì và đường, nhưng ngay lúc đó đạn pháo bắt đầu bay
tới, tôi không thể ăn được nữa. Thế là tôi phải đi mà chưa được ăn chút gì. Vậy
đấy, tôi đi... đến chỗ đống xỉ than, tôi phát hiện tại đó có 2 khẩu súng máy và
1 cối. Tôi trở lại báo cáo. “Tốt”, trung úy bảo, “anh đã phát hiện ra chúng thì
tiêu diệt chúng đi”.
“Khi bọn Đức ép quân ta đến dán lưng vào bờ
sông Volga, bọn lính tiểu liên của chúng hô lớn: “Bọn Nga, chết đuối chưa!”. Và
quân ta đáp trả: :”Hey, lại đây, chúng mày đang khát phải không?”*.
*[Như đã nói ở chương trước, lính bắn tỉa
Soviet bắn hạ mọi kẻ định đi lấy nước. Quân Đức vì vậy phải liều mạng mới lấy
được nước, thậm chí phải dùng cách giơ bánh mì ra dụ những đứa trẻ Stalingrad
lấy nước mang về cho chúng. Nhưng lính bắn tỉa đã được lệnh bắn hạ bất kỳ dân
thường nào, kể cả trẻ em, nếu họ hợp tác với quân địch dưới bất kỳ hình thức
nào]
Nhiều binh sĩ bị chết cháy trong những ngôi
nhà. Thân xác cháy đen của họ được tìm thấy. Không ai trong số họ bỏ chạy khi
bọn Đức đốt nhà để buộc họ ra hàng.
1 trong những bài viết được hoan nghênh
nhất của Grossman đăng trên tờ Krasnaya Zvezda là bài báo có tiêu đề “Trận
chiến Stalingrad”, 1 tập hợp của những lời mô tả có kèm ví dụ minh họa.
Trong ánh sáng của những quả đạn hỏa tiễn
người ta có thể nhìn thấy những căn nhà bị phá hủy, mặt đất bị những đường hào
rạch ngang dọc, những boongke xây trên vách đá hay dưới khe sâu, những hầm hố
được chèn vỏ đồ hộp và gỗ xúc để chống chọi lại thời tiết khắc nghiệt.
“Hey, nghe tôi nói không? Họ đã mang bữa
tối đến chưa?”. 1 người lính hỏi, anh ta đang ngồi trước cửa hầm.
“Họ đã đi lấy đồ ăn từ lâu, và anh thấy
đấy, họ vẫn chưa về”, có tiếng trả lời vọng ra từ màn đêm.
“Chắc họ đã phải ẩn náu vào đâu đó, hay họ
sẽ không bao giờ trở về được không chừng. Quân địch thường bắn dữ dội vào các
bếp dã chiến”.
“Quân chấy rận! Tôi thèm được ăn bữa tối
quá”, người lính đang ngồi trước cửa hầm nói với giọng sầu não, rồi ngáp...
Bọn Đức cố thủ trong 1 tòa nhà quá chắc
chắn đến mức người ta phải cho chúng nổ tung cùng với những bức tường dày của tòa
nhà. Dưới làn đạn dữ dội của những tên Đức cố thủ đang cảm thấy cái chết đang
đến gần, 6 công binh mang 10 pood* chất nổ đã thổi bay tòa nhà.
*[1 pood tương đương khoảng 16kg, vì vậy 10
pood thuốc nổ có nghĩa là 160kg, 1 lượng nổ khổng lồ].
Tôi thử tưởng tượng hình ảnh hiện ra trong
giờ phút đó - trung úy công binh Chermakov, các trung sĩ Dubovy và Bugaev, các
lính công binh Klimenko, Zhukhov và Messereshvili bò dưới làn đạn dọc theo
những bức tường đổ, mỗi người mang theo 1,5 pood thứ hóa chất chết chóc, khi đó
trước mắt tôi hiện lên hình ảnh những khuôn mặt bẩn thỉu đẫm mồ hôi, những bộ
quân phục xơ xác, tôi nhớ tới tiếng hô của trung sĩ Dubov: “Hey, công binh không
được sợ!”. Và Zhukhov vừa trả lời vừa chu mồm nhổ đất ra: “Giờ không có thời
gian để sợ. Có sợ thì từ trước kia!”. - Tôi đã cảm thấy hết sức tự hào vì họ.
Đây là nơi mà ý nghĩa của các đơn vị đo
lường bị đảo lộn, nơi 1 bước tiến chỉ vài mét cũng quan trọng ngang với nhiều
km trong điều kiện chiến đấu thông thường, nơi mà khoảng cách tới vị trí địch
là ngay ô cửa tiếp theo, tức là đôi khi chỉ hơn chục bước chân. Vị trí đóng sở
chỉ huy các cấp theo đó cũng thay đổi, sở chỉ huy cấp sư đoàn cách địch 250m,
cấp trung và tiểu đoàn gần hơn nữa với mức tương ứng. “Nếu đường dây liên lạc
bị đứt, thật dễ dàng để liên lạc với các trung đoàn cấp dưới chỉ bằng cách hét
to”, 1 sĩ quan sở chỉ huy sư đoàn nói 1 cách hài hước. “Bạn cứ gào lên, và họ
sẽ nghe được, rồi họ chuyển các mệnh lệnh xuống cho các tiểu đoàn cũng bằng
cách đó”... Và trong căn hầm chỉ huy này mọi thứ cứ lộn tùng phèo lên vì bị lắc
khi bom và đạn pháo nổ. Các sĩ quan và chỉ huy ngồi phệt dưới đất quanh bản đồ.
Và 1 anh giao liên, người luôn xuất hiện trong mọi bài văn về chiến tranh để
kêu lên: “Trăng, có trăng kìa!”, thì ở đây ngồi khép nép trong xó, tay cầm điếu
markhorka, mặt quay đi để khỏi phà
khói thẳng vào mặt các vị chỉ huy.
Sau trận Stalingrad, Grossman nghe được
câu chuyện về Gurtyev, sư trưởng Sư 308 Bộ binh, và Zholudev, sư trưởng Sư 37
Bộ binh Cận vệ. Họ đã sát cánh bên nhau trong trận ác chiến tại Nhà máy sản
xuất máy kéo, khi những người lính cận vệ của Zholudev bị ép mạnh.
Gurtyev phôn cho Zholudev: “Can đảm lên,
tôi có thể giúp anh. Giữ vững nhé!”. Khi Zholudev được lệnh chuyển sang bờ trái
(tức là rút lui hoàn toàn khỏi trận đánh), ông đã nói với Gurtyev: “Giữ vững
nhé, ông bạn già! Can đảm lên!”. và cả 2 cùng cười.
Ortenberg cũng kể lại 1 sự việc kỳ cục
diễn ra trong 1 chuyến đi của Grossman từ Akhtuba đến Stalingrad, Akhtuba là
căn cứ hậu phương trên bờ đông sông Volga. “1 lần hồi giữa tháng 10, Grossman
nói với các sĩ quan phụ trách chính trị Phương diện quân rằng anh ta sẽ tới
thăm tướng Rodimtsev vào ngày mai. Lúc này tại đó đang có 2 thùng quà tặng đầy
ự do Hội Phụ nữ Hoa Kỳ chuyển tới qua đường bưu điện, vì vậy Grossman đề nghị
mang hộ số quà tặng này cho 2 “phụ nữ can đảm nhất trong cuộc phòng thủ
Stalingrad”. Ban Chính trị Phương diện quân quyết định 2 phụ nữ can đảm nhất
chắc sẽ được tìm thấy ở Sư đoàn của Rodimtsev, và Grossman là người phù hợp để
chuyển số quà tặng này cho họ. Mặc dù không phải là người thích các buổi lễ
lạt, Vasily Semyonovich vẫn đồng ý làm việc này dù có hơi miễn cưỡng. Cậu ta
vượt sông bằng xuồng máy và đến gặp Rodimtsev. Khi 2 cô gái đã đứng trước mặt
họ, các cô tỏ ra rất kích động khi được 1 nhà văn nổi tiếng và 1 vị tướng người
hùng trao quà tặng. Các cô cảm ơn rồi bắt đầu bóc quà luôn. Bên trong toàn là
đồ bơi dành cho nữ và dép lê để đi trên bãi biển, ai nấy đều ngượng chín người.
Những bộ áo tắm kiểu cách trông thật xa lạ với môi trường ở đây, giữa tiếng gầm
của đại pháo trong trận chiến Stalingrad”.
17
Gió đã đổi chiều
Các trận đánh trong tháng 10 đã diễn ra
liên tiếp cho đến cuối tháng thì chấm dứt do quân Đức đã cạn kiệt lực lượng và
thiếu đạn dược. Pháo binh Soviet đã tái tổ chức lực lượng ở bên kia sông và giờ
đây có thể giáng những đòn nặng nề vào những điểm tập trung quân Đức, pháo binh
còn tỏ ra hiệu quả hơn nữa lúc quân Soviet chuyển sang phản công. Paulus dưới
sức ép của Hitler vẫn còn mở các cuộc tấn công nhưng chúng đều chỉ có quy mô nhỏ
để tránh pháo binh và các dàn Katyusha Soviet, ngoài ra cũng bởi các sư đoàn
Đức đã thiếu hụt lực lượng. Nguy hiểm hơn cả, Paulus đã tuân lệnh Hitler sử
dụng lính thiết giáp như bộ binh, điều đó có nghĩa là hắn không còn lực lượng
thiết giáp dự bị trong trường hợp bị tấn công bất ngờ.
Hitler bị ám ảnh với việc chiếm
Stalingrad - 1 chiến thắng phụ để lấp liếm thất bại của hắn trong kế hoạch
chiếm vựa dầu mỏ Caucasus - nên vẫn không dừng việc thúc ép. Ngày 8/11, Hitler
đã có bài phát biểu về vấn đề này tại Munich được phát trên đài truyền thanh. “Tôi
muốn đến được Volga”, hắn tuyên bố cương quyết, “chính xác chỗ đó, chính xác
thành phố đó, để thay cái tên đáng ghét của chính Stalin”. Sau đó hắn còn khoác
lác rằng “thời gian bao lâu không quan trọng”.
Hitler không thể sai lầm hơn được nữa,
thời gian chính là điều quan trọng nhất. Mùa đông đang đến rất gần, và đây
chính là mùa của các cuộc phản công Soviet. Lính Đức gọi điều kiện thời tiết
khắc nghiệt của mùa đông là “thời tiết dành cho người Nga”. Grossman, không
biết tí gì về các kế hoạch sắp tới, viết thư cho cha vào ngày 13/11, chỉ 1 tuần
trước cuộc tổng phản công.
Con làm việc rất nhiều, làm đến stress
luôn, và thấy mệt gớm chết. Con không hề có 1 chỗ trú chân ấm áp đúng nghĩa.
Thư từ không đến được tay con ở đây, chỉ có 1 lần họ mang cho con cả 1 thùng
thư, trong đó có 1 bức thư và 1 postcard của cha... Lúc này thời tiết ở đây
thật quá lạnh lẽo.
Cả bộ chỉ huy của Hitler đặt tại Đông
Phổ lẫn bộ chỉ huy Tập đoàn quân 6 Đức đều không nhận thức đầy đủ được rằng
Stavka (Tổng hành dinh - Bộ chỉ huy tối cao Soviet) tại Moscow đã sử dụng Tập
đoàn quân 62 như 1 miếng mồi đặt trong 1 cái bẫy khổng lồ. Quân Đức biết rằng
có nguy cơ tồn tại ở các cánh của chúng - phần hậu tuyến cánh trái dọc theo
sông Đông do Tập đoàn quân 3 Rumany phụ trách và phần tiền tuyến phía nam
Stalingrad do Tập đoàn quân 4 Rumany trấn giữ. Việc quân Soviet tập trung tại
các khu vực này đã được phát hiện, nhưng quy mô và mục đích của chiến dịch lại
bị đánh giá cực kỳ sai lầm. Mọi ý kiến lo ngại rằng Hồng quân có thể bao vây
quy mô lớn Tập đoàn quân 6 theo đúng cách các cụm thiết giáp Đức đã bao vây
quân Soviet 1 năm trước đây đã bị coi là không thể xảy ra.
Tướng Chuikov, vẫn còn 1 mình trấn giữ
Stalingrad, cũng có những vấn đề của riêng ông. Sông Volga đã bắt đầu đóng băng
nhưng chưa đủ cứng. Những cơn mưa tuyết lớn đổ xuống sông có nghĩa là việc vận
chuyển qua sông giờ đây trở nên cực kỳ nguy hiểm. Tuy nhiên ngày 19/11, Chiến
dịch Sao Thổ (Uranus) đã được bắt đầu ở cách Stalingrad 150km về phía tây bắc
với 1 cuộc tấn công quy mô lớn vào Tập đoàn quân 3 Rumany. Sáng hôm sau, 1 cuộc
tấn công nữa giáng mạnh vào Tập đoàn quân 4 Rumany ở cách Stalingrad 50km về
phía nam. Đến trưa ngày 21/11 người Đức đã nhận ra rằng 300.000 người của Tập
đoàn quân 6 sắp bị cắt rời mà họ chẳng thể làm gì được.
Grossman đã xin được đi theo Quân đoàn
Kỵ binh 4, đơn vị bảo vệ vành ngoài sườn trái của 2 quân đoàn cơ giới đang tấn
công. Theo Ortenberg, Grossman đã “chứng kiến việc khởi sự tấn công từ vị trí
quan sát của 1 sư đoàn, và sau đó hành quân bộ cùng những người lính đang tiến
tới, cậu ta đã mô tả 1 cách hết sức truyền cảm mọi thứ nhìn thấy dọc đường”.
1 người lính đã từng là tù binh chiến tranh
trong cuộc Đại Chiến lần trước quan sát 1 chiếc máy bay đang bổ nhào: “Chỉ là 1
cuộc ném bom vớ vẩn”, ông nói.
Mọi người lao lên xung phong, bảo vệ mặt
bằng xẻng công binh. Trong 1 cuộc tấn công, 1 khẩu súng trường tốt hơn là 1
khẩu tiểu liên.
Lính Rumany mặc quân phục nâu và đội mũ
da cừu kiểu dân Balkan, họ thiếu các trang thiết bị hiện đại và súng chống
tăng, chỉ huy tồi. Quân Rumany nhanh chóng ném những khẩu súng trường xuống đất
và hô “Antonescu kaputt!”*, nhưng việc đầu hàng không cứu được họ. Hàng nghìn
tù binh đã bị bắn không ai có thể kiểm soát nổi, và những con đường phủ đầy
tuyết rải đầy những mảnh vụn của đạo quân thua trận.
*[Nguyên soái Ion Antonescu (1822 - 1946), nhà
độc tài Rumany, đồ đệ trung thành nhất của nước Đức trong cuộc xâm lược Liên
Xô. Tuy nhiên việc các đội quân trang bị yếu kém của hắn tan vỡ dễ dàng trong
trận Stalingrad khiến người Đức cực kỳ oán hận kẻ đồng minh mang đến toàn vận
rủi này]
Binh lính đang hành quân, tinh thần của họ
giờ mỗi lúc 1 cao. “A, khi nào tới Kiev chắc sẽ rất tuyệt”. Người khác nói: “A,
tôi thích tới Berlin!”.
1 hình ảnh: 1 hỏa điểm bị 1 chiếc xe tăng
tiêu diệt, tại đó có 1 tên Rumani đã bị là phẳng, chiếc tăng đã chèn qua hắn,
khuôn mặt hắn biến thành 1 bức phù điêu. Bên cạnh hắn là 2 lính Đức cũng đã bị
nghiền nát. Còn có 1 chiến sĩ ta nằm trong hào, bị chôn vùi 1 nửa.
Mặt đất đầy vỏ đồ hộp, lựu đạn, những mảnh
băng rướm máu và những trang tạp chí Đức. Quân ta ngồi lẫn lộn giữa những xác
chết, cắt từng miếng thịt của 1 con ngựa chết bỏ vào vạc nấu, huơ huơ đôi bàn
tay lạnh giá trước ngọn lửa.
1 xác lính Rumani nằm cạnh xác 1 lính Nga
giữa chiến địa. Người lính Rumani có 1 tập giấy đầy những bức vẽ trẻ con vẽ
những con thỏ hay những con tàu. Người lính Nga có 1 bức thư: “Buổi chiều tốt
lành, hay có khi là buổi tối tốt lành, con chào bố...”. Và cuối thư viết: “Về với con đi, vì khi bố không
ở đây con về nhà mà thấy nó cứ như nhà thuê. Con nhớ bố nhiều. Về thăm con cũng
được, con ước được nhìn thấy bố, dù chỉ 1h. Con đang viết đây mà nước mắt rơi.
Con gái Nina của bố”.
Trong cuộc tiến công thần tốc, chiến
tuyến trở nên không rõ ràng, Grossman đã gặp phải 1 nguy hiểm bất ngờ. Khi đó
ông đang đi cùng với Aleksei Kapler, đạo diễn phim và là mối tình đầu của
Svetlana Stalin. Vì đã liều mạng làm cô con gái rượu của nhà độc tài phải lòng,
năm 1943 Kapler đã bị người của Beria cho ăn đòn và tống đi trại Gulag trong 10
năm. Sau khi Stalin chết, Kapler đã kể lại chuyến đi cùng với Grossman này. “Chúng
tôi lang thang qua 1 căn nhà trống và quyết định ở lại đây đêm nay. Sau đó có
vài binh lính xuất hiện, chúng tôi nhìn thấy bóng họ in trên trần nhà và nhận
ra đó không phải quân ta vì mũ sắt không giống. Thì ra chúng là lính Rumani.
May thay chúng không phát hiện ra chúng tôi và bỏ đi”.
Lính Hồng quân đã vô cùng giận dữ khi
phát hiện ra đám tù binh Rumani đã từng cướp bóc nhà cửa của dân địa phương. “Khăn
trùm đầu của các bà già và khuyên tai, khăn bàn, váy, tã trẻ con, áo choàng
sáng màu của các cô gái. 1 tên lính có tới 22 đôi tất trong tư trang”.
Vui sướng nhất là những người dân mới
đuợc giải phóng.
“Làm thế nào mà chúng tôi nhận ra quân
ta tới á? Chúng tôi nghe ngóng bên cửa sổ: “Yegor, tiếng máy nổ nghe khác hẳn!
Quân ta rồi!”, chúng tôi hò reo”.
Họ nhanh chóng nói rõ những việc làm ghê
tởm của bọn lính Rumani, những kẻ đã học theo bọn Đức đánh đập thường dân cho
đến khi họ phải khai ra chỗ cất giấu lương thực.
Bọn Rumani. 1 ông cụ gọi chúng là “bọn Thổ
Nhĩ Kỳ”. Thực ra chúng là dân Digan, chúng luôn nói: “Chiến tranh thật xấu xa,
chúng tôi sẽ về nhà”. Nhưng chúng đã đánh ông cụ 4 lần bằng roi, buộc ông đi
thu hoạch lúa mì về rồi chúng lấy sạch không sót chút gì, đóng thùng lương thực
để ăn dần.
1 số thường dân cũng gặp phiền phức vì
những hoạt động của quân đội Soviet*.
1 bà cụ kể cho chúng tôi nghe việc phi
công ta đã làm bà bị thương: “Hắn thả 1 trái bom, thằng chó đẻ, ĐM nó chứ”, bà
nói với giọng giận dữ, sau đó nhìn thấy 1 viên chỉ huy đang tháo ủng bà vội sửa
lại: “Chó đẻ, cún con ấy mà. Giờ chả còn con bò nào, không có con nào để dắt đi
chăn, không có con nào để dắt về. Chúng tôi chẳng còn vật nuôi nào nữa”.
*[Những ghi chép của Grossman đã được tập hợp trong bài viết “Trên
đường tiến quân” của ông viết về cuộc phản công ở nam Stalingrad]
Băng trôi trên sông Volga, những khối băng
nghiến ken két, vỡ ra khi húc vào nhau, mặt sông gần như phủ đầy băng. Chỉ
thỉnh thoảng mới thấy được vài khoảng nước trên suốt bề rộng con sông. Volga
như 1 dải băng trắng trôi giữa 2 bờ tối đen không có tuyết phủ. Lẫn trong băng
là những cành cây, những xúc gỗ, 1 con quạ lớn đang đậu trên 1 mảng băng trôi.
Xác 1 lính thủy Hồng quân mặc sơmi có sọc ngang đen trắng trôi qua, thủy thủ
trên 1 con tàu hàng chạy bằng hơi nước vớt anh lên. Thật khó để kéo xác anh lên
khỏi mặt sông băng, xác anh dính chặt vào băng mất rồi, như thể anh không muốn
rời khỏi dòng sông Volga, nơi anh đã chiến đấu và hy sinh.
Những chiếc phà chở đầy tù binh Rumani vượt
qua trước mặt chúng tôi. Tù binh đứng trên phà, khoác những tấm áo choàng chật
chội, đội mũ trắng cao, dậm dậm chân, xoa xoa đôi bàn tay lạnh giá. “Giờ chúng
đã đến được Volga”, những người lái phà nói.
1 tốp 200 tù binh thường được dẫn giải đi
chỉ với 2 - 3 lính canh. Đám Rumani đi rất có tổ chức, 1 số tốp thậm chí còn
sắp thành hàng và bước đều khiến những người nhìn thấy cảnh đó phải bật cười...
Tù binh lũ lượt đi qua thành từng tốp, phát ra tiếng kêu lanh canh từ đồ hộp và
chai lọ bẩn thỉu mà chúng đeo theo người bằng thừng hay dây thép, vai khoác
những tấm chăn đủ màu. 1 phụ nữ vừa nói vừa cười: “Oh, những tên Rumani này đi
trông giống hệt dân Di gan”.
Xác lính Rumani nằm dọc các con đường;
những khẩu pháo bị bỏ lại ngụy trang bằng cỏ khô của thảo nguyên vẫn còn chĩa
về hướng đông. Những con ngựa đi lang thang trong các balka, kéo lê phía sau
những cỗ xe đã gãy hỏng, những chiếc ô tô trúng đạn pháo vẫn còn bốc khói xám
xanh. Trên đường những chiếc mũ sắt trang trí huy hiệu hoàng gia Rumani vứt bừa
bãi cùng hàng ngàn băng đạn, lựu đạn, súng ống. 1 hỏa điểm của quân Rumani:
ngọn núi trống không, những băng đạn bám đầy bồ hóng nằm vương vãi trong những
ổ súng máy, hàng tập giấy viết trắng tinh bị vứt dưới giao thông hào. Thảo
nguyên mùa đông vốn có màu nâu giờ biến thành màu đỏ gạch vì máu. Những khẩu
súng trường vỡ báng vì đạn Nga. Và hàng đàn tù binh vẫn diễu qua chúng tôi liên
miên.
Tù binh bị khám người trước khi chuyển về
hậu phương. Hàng đống tư trang của phụ nữ nông dân đã được tìm thấy trong ba lô
và túi quần túi áo của bọn Rumani trông thật đáng cười và đáng khinh. Có khăn
trùm đầu của các bà già, khuyên tai phụ nữ, đồ lót, váy, tã lót. Càng đi xa
chúng tôi càng thấy nhiều xe cộ và súng ống bị bỏ lại. Có đủ xe tải, xe thiết
giáp và xe con chở sĩ quan.
Chúng tôi tới Abganerovo, 1 bà cụ nông dân
kể cho chúng tôi về 3 tháng sống dưới ách chiếm đóng. “Mọi thứ ở đây đều trở
nên trống rỗng, chẳng còn 1 tiếng gà mái cục tác, 1 tiếng gà trống gáy. Không
còn 1 con bò nào để dẫn đi chăn buổi sáng và dẫn về chuồng buổi tối. Bọn Rumani
đã cướp đoạt mọi thứ. Chúng đánh tất cả đám già cả tụi tôi: người thì vì bị báo
là không đi làm, người khác thì vì đã mó máy vào lúa mì của chính mình.
Starosta (trưởng làng do bọn phát xít chỉ định ở những vùng chiếm đóng) làng
Plodovitaya đã bị chúng cho ăn roi 4 lần. Chúng đã mang con trai tôi đi, nó bị
què, cùng với 1 bé gái và 1 bé trai 9 tuổi. Chúng tôi kêu khóc suốt 4 ngày mong
chúng trở về”.
Ga Abganerovo đầy trang thiết bị thu được
của địch, bọn Đức đã thay thế đường tàu ở đây*.
*[Kích thước đường ray tàu hỏa ở Nga khác với
ở Tây Âu]
Có những toa chở hàng của Pháp, Bỉ và cả
của Ba Lan. Có những đoàn tàu chất đầy bột mì, ngô, mìn, đạn pháo, mỡ chứa
trong thùng lớn hình vuông, những toa hàng chất đầy ủng valenki rẻ tiền có đế
bằng gỗ dày, mũ da cừu, máy móc, đèn pha. Những teplushkas (toa tàu có sưởi) y
tế trông thật thảm hại vì cuộc rút chạy cuống cuồng của địch đã khiến những
chiếc giường phủ đầy giẻ bẩn. Lính tráng càu nhàu khi phải mang những bao bột
mì ra khỏi toa hàng chất lên xe tải, mỗi bao đều có hình con đại bàng Nazi in
đậm trên vỏ bao.
Khuôn mặt những người lính Hồng quân đỏ au
vì những đợt gió mùa đông lạnh buốt. Chiến đấu trong điều kiện thời tiết này
thật không dễ dàng gì. Trong những đêm đông dài, ngọn gió băng giá của thảo
nguyên có thể xuyên qua mọi thứ. Nhưng những chiến sĩ vẫn vui vẻ hành quân, vì
đây là đi đến Stalingrad. Quân đội ta lúc này có tinh thần đặc biệt cao.
Kể từ ngày 26/11, hơn 1/4 triệu quân của
Tập đoàn quân 6, cấp tổ chức lớn nhất trong quân đội Wehrmacht, do Paulus chỉ
huy đã bị bao vây giữa sông Volga và sông Don. Hồng quân do đánh giá thấp quy
mô của lực lượng đang bị bao vây này nên đã ngay lập tức mở hàng loạt đợt tấn
công nhằm đập tan vành đai phòng thủ, nhưng người Đức tin rằng Hitler sẽ không
bao giờ bỏ rơi họ đã chống trả kịch liệt.
1 ngày đẹp, trời trong sáng. Pháo chuẩn bị.
Katyusha. Ivan Hung đế. Gầm rú. Khói bụi mù mịt. Và thất bại. Bọn Đức đã rúc kỹ
dưới hào, và quân ta không thể trục chúng ra.
Thời tiết mỗi lúc 1 xấu đi, tuyết rơi và
băng đóng cứng làm giảm cơ hội đánh tháo ra của Tập đoàn quân 6. Hồng quân quen
thuộc với những điều kiện thời tiết này hơn nhiều.
Trận tuyến trên thảo nguyên trong mùa đông.
Hố cá nhân được trùm vải bạt, lò sưởi được làm từ mũ sắt, ống khói làm bằng vỏ
đạn pháo, nhiên liệu là cỏ dại. Trên đường tiến quân, 1 người lính mang theo cả
1 ôm cỏ khô, người khác ít vỏ bào, người thứ 3 mang vỏ đạn, thứ 4 mang lò sưởi.
Đầu tháng 12, Grossman quay lại bờ đông
đối diện với Stalingrad. Ông viết cho Tổng biên tập tờ Krasnaya Zvezda.
Thưa đồng chí Ortenberg, tôi đang có kế
hoạch tới thành phố ngày mai, tôi muốn viết 1 bài dài*, nhưng tôi nhận thấy tôi
phải trì hoãn việc này và bỏ chút thời gian thu thập tài liệu trong thành phố.
Do hiện nay việc vượt sông rất phức tạp** nên chuyến đi của tôi sẽ kéo dài ít
nhất 1 tuần. Đó là lý do đồng chí không nên tức giận nếu bài viết của tôi chậm
gửi cho đồng chí. Tại thành phố, kế hoạch của tôi là sẽ phỏng vấn Chuikov, các
sư trưởng và đến thăm các đơn vị tiền tuyến. Cũng phải nói rằng tôi rất muốn
trở về Moscow vào khoảng tháng 1, tôi sẽ rất biết ơn nếu đồng chí có thể triệu
hồi tôi vào lúc đó. Thực tế tôi cảm thấy hơi quá tải vì áp lực gửi bài và kiệt
sức sau 3 tháng căng thẳng vừa qua ở Stalingrad. Nếu có điều gì không may bất
ngờ xảy ra với tôi trong chuyến vào thành phố sắp tới, mong đồng chí giúp đỡ
gia đình tôi. Vasily Grossman.
*[Tất nhiên hầu hết các bài viết của Grossman
là viết về những người lính Stalingrad]
**[Sông Volga vẫn chưa đóng băng cứng, vì vậy
việc vượt sông là cực kỳ nguy hiểm và không thể đoán lúc nào qua được]
Grossman đã vượt được sông và tới sở chỉ
huy Tập đoàn quân 62. Mọi việc đang rất khẩn trương vì lúc này đang thiếu hụt
đạn dược cũng như lương thực cho việc bao vây quân Đức. Lực lượng phòng thủ còn
lại của chúng được tiếp tế hoàn toàn nhờ vào đường không qua sân bay Pitomnik
nằm ở trung tâm khu vực bị bao vây. Goering đã nói với Hitler rằng hoàn toàn có
thể tiếp tế cho Tập đoàn quân 6 bằng đường không mặc dù các tướng lĩnh
Luftwaffe đã cảnh báo hắn rằng nhiệm vụ to lớn này là không thể thực hiện được.
Binh lính Tập đoàn quân 6 được tuyên truyền để giữ vững niềm tin hão huyền rằng
1 tập đoàn quân thiết giáp SS đang tới tiếp viện. Tướng Chuikov nói với
Grossman: “Có tin đồn lan truyền trong bọn Đức rằng đích thân Hitler đã tới
thăm Pitomik và phát biểu tại đó như sau: “Hãy đứng vững! Tôi đang dẫn quân đội
ta đến cứu các bạn”. Và hắn ăn mặc như 1 cai đội”.
Tin đồn này lan khắp mặt trận cũng giống
như 1 câu chuyện bốc phét tương tự bên phe Soviet rằng trong những ngày tuyệt
vọng tháng 9 đích thân Stalin đã đến thăm Stalingrad.
Chuikov nói qua tình hình Tập đoàn quân
62 của ông, thực tế tập đoàn quân cũng đang phải đối mặt với việc không thể tiếp
tế qua sông Volga chưa đóng băng hẳn. Việc trao đổi thông tin với bờ đông cũng
hầu như hoàn toàn phải dùng điện đài vì mọi dây liên lạc hữu tuyến đều bị băng
cắt đứt. Thuận lợi lớn nhất của tập đoàn quân lúc này là đã di dời hết các điểm
tập trung pháo binh bên bờ tây sang bên kia sông nên không cần quan tâm đến
việc tiếp tế đạn pháo.
Grossman mô tả boongke của Chuikov trong
bài viết tiêu đề “Hội đồng quân sự”.
Khi có ai bước vào boongke hay các hầm ngầm
dành cho sĩ quan và binh lính, người đó sẽ cảm thấy mong ước cháy bỏng được giữ
lại khoảnh khắc đặc biệt độc nhất vô nhị này trong đời. Những cái đèn và ống
thông hơi làm từ vỏ đạn pháo, cốc tách cũng làm từ vỏ đạn đặt trên bàn cạnh
những cặp kính. Cạnh 1 quả lựu đạn chống tăng là 1 cái gạt tàn bằng sứ trên có
dòng chữ “Hỡi những bà vợ, chớ làm chồng các bà nổi giận”. Trong boongke tham
mưu trưởng có 1 đống tướng đèn điện, Chuikov cười bảo: “Vâng, nó là 1 cây đèn chùm.
Chúng ta đang sống trong 1 thành phố phải không?”. Có cả tiếng nhạc kịch của
Sêchxpia trong nhiệm sở dưới lòng đất của tướng Gurov... Tất cả đều có ấm
samova và máy hát, bát đựng đường gia đình màu xanh, gương tròn đế gỗ đặt sát
những bức tường đất của mỗi căn hầm. Tất cả những thứ đó thường được thấy trong
1 căn hộ yên bình, chúng đã được cứu ra khỏi những căn nhà cháy.
Grossman mặc dù cực kỳ sung sướng với
chiến thắng chắc chắn sẽ tới trước Tập đoàn quân 6 nhưng càng ngày càng bực
mình với cách mà ban biên tập tờ Krasnaya Zvezda sửa chữa các bài viết của ông.
Ông viết cho vợ về chuyện này hôm 5/12.
Anh làm việc rất nhiều. Em có thể nhìn thấy
điều đó trên báo. Giá mà em thấy được cả việc họ đã cắt xén và xuyên tạc những
bài viết của anh như thế nào, và không chỉ có thế, họ còn nhét thêm những đoạn
mới vào mấy bài viết khốn khổ của anh, có lẽ em sẽ khó chịu hơn là vui sướng
khi thấy các bài viết của anh toàn những điều tươi sáng. Ban biên tập đã đề ra
quy định cắt bỏ phần kết của mọi bài viết, thay các dấu chấm phẩy, bỏ qua những
đoạn mô tả anh đặc biệt thích, thay tiêu đề và thêm vào những đoạn như này: “Niềm
tin và tình yêu này đã gần như tạo nên phép màu”. Việc biên tập vội vàng này do
các biên tập viên cao cấp làm hẳn hoi, và thỉnh thoảng anh phải đọc đi đọc lại
1 đoạn mới hiểu nó có nghĩa gì. Tất cả những cái đó làm anh cực kỳ khó chịu vì
anh đã viết nên chúng trong những điều kiện cực kỳ khó khăn...
Tập đoàn quân 62 của Chuikov liên tục
thiếu đồ hậu cần - bao gồm cả markhorka và vodka - trong suốt thời gian băng
trên sông Volga đóng chưa đủ dày. Cuối cùng, ngày 16/12 mặt sông mới đóng băng
hết. Đầu tiên người ta làm 1 cái cầu bằng ván gỗ cho người đi bộ qua sông. Sau
đó là làm hẳn thành 1 con đường bằng cành cây được giội nước lên để gia cố mặt
băng, khi các cành cây ướt đóng băng cứng lại thì xe tải thậm chí pháo hạng
nặng cũng đi qua được. “Băng đóng tốt!”. Những người lính Hồng quân viết thư về
nhà như vậy 1 cách sung sướng. Được biết trong chưa đầy 2 tháng, 18.000 xe tải
và 17.000 xe cộ khác đã vượt sông qua cầu băng. Grossman chào mừng sự tiến
triển này qua bài viết tiêu đề “1 ngày mới”.
Tất cả những người trong cả trăm ngày qua
đã trấn giữ bến phà qua sông Volga và qua lại trên dòng sông băng xám xịt đều
nhìn thẳng vào đôi mắt tàn nhẫn và giảo hoạt của thần chết. Mỗi ngày lại có ai
đó hát lên bài hát về những người đã vĩnh viễn ngủ say trên chiếc giường mang
tên Volga...
Đêm xuống, chúng tôi có thể đi bộ qua sông
Volga. Băng đã đóng được 2 ngày và không còn uốn cong dưới chân nữa. Ánh trăng
soi tỏ con đường tạo bởi những vết xe trượt tuyết kéo dài mãi không dứt. 1 lính
giao liên đi trước chúng tôi, nhanh nhẹn và tự tin như thể anh ta đã đi trên
con đường này suốt nửa cuộc đời. Bất thần có tiếng băng nứt, người giao liên
tới 1 mảng băng trống trải và rộng, dừng lại rồi nói: “Aha! Chúng ta sẽ phải đi
qua 1 con đường xấu, giữ ở bên phải tôi”. Giao liên bao giờ cũng trấn an bằng
những lời ngắn gọn dứt khoát, luôn đưa bạn vào những nơi an toàn.
Những chiếc sà lan bị đạn pháo bắn nát đã
đóng cứng vào băng. Những sợi cáp phủ băng lấp lánh sáng xanh. Đuôi sà lan dựng
ngược lên, tạo thành mái vòm che những chiếc thuyền máy đã chìm.
Chiến sự vẫn tiếp diễn ở khu vực các nhà
máy... Đại bác bắn với những tiếng bang, tiếng gầm, sau đó là tiếng nổ của quả
đạn dội lại khô khốc và vang vọng. Thông thường, những loạt đạn súng máy và
tiểu liên có thể nghe thấy rõ, thứ âm nhạc này thường lén lút vang lên giữa
những xưởng máy yên tĩnh, nghe giống như tiếng tán đinh hay tiếng búa máy nện
xuống thanh thép, là phẳng nó ra. Cũng giống như thép nóng chảy và xỉ quặng
tuôn vào khuôn, những tiếng nổ cũng thắp sáng dòng sông băng tinh khiết Volga
trong sắc hồng rực rỡ.
Mặt trời mọc rọi sáng cạnh những hố bom
lớn, đáy của những cái lỗ đáng sợ này vẫn luôn tăm tối. Ánh mặt trời sợ phải
chạm đến chúng...
Mặt trời tỏa sáng trên hàng trăm đoạn đường
tàu rải rác đầy những toa xi téc nằm đó như những con ngựa chết với thùng téc
vỡ toác; nơi đó hàng trăm toa hàng lật ngang toa này nằm ép vào trần toa khác,
chúng bị thổi tới đó vì sức ép của 1 vụ nổ, nằm túm tụm quanh đám đầu tầu lạnh
lẽo như thể đám đông hoảng sợ xúm quanh những người lãnh đạo.
Chúng tôi đang đi trên mảnh đất hoang tàn
đầy hố bom và đạn pháo - những tên bắn tỉa và lính canh Đức có thể nhìn khắp
khu vực này dễ dàng, nhưng người lính Hồng quân gầy gò khoác áo choàng vẫn đi
bên tôi 1 cách bình thản và chẳng có vẻ gì vội vã. Anh giải thích đơn giản: “Đồng
chí cảm thấy tốt hơn nếu chúng không thể nhìn thấy ta à? Hừ, chúng có thể đấy.
Ở đây chúng tôi thường phải bò vào ban đêm, nhưng giờ thì khác: chúng phải tiết
kiệm số đạn còn lại”.
Đi qua 1 đống phế phẩm kim loại han rỉ, đi
qua 1 cái gầu múc thép nóng chảy khổng lồ, đi qua những tấm thép và những bức
tường đổ. Những người lính Hồng quân đã quá quen thuộc với những tàn phá ở đây
đến nỗi quên cả việc chú ý đến tất cả những điều đó. Ngược lại, điều được xem
là thú vị ở đây là có 1 khu nhà văn phòng điều hành của nhà máy đã bị phá hủy
hoàn toàn nhưng còn 1 ô cửa sổ vẫn nguyên vẹn, 1 ống khói cao, 1 căn nhà gỗ
cũng vẫn sống sót 1 cách phi thường. “Nhìn kìa, căn nhà này vẫn còn sống”,
những người đi qua vừa thốt lên vừa cười.
Không có gì ngạc nhiên, đến giữa tháng
12 thì Grossman đã tỏ ra khổ sở quá mức vì tình trạng căng thẳng triền miên,
ông đã viết thư cho cha 1 lần nữa.
Con nghĩ con sẽ về Moscow vào tháng 1. Con
ổn nhưng rất căng thẳng thần kinh. Con đã trở nên cáu kỉnh và dễ bị kích động
nên thường xuyên công kích các đồng sự. Giờ họ phát sợ con. Con không thể rời
chỗ này ngay và cũng không muốn thế. Cha xem, giờ vận may đã trở lại với quân
ta, không ai muốn rời khỏi đây khi đã chứng kiến qua những thời khắc khó khăn ác
liệt nhất.
Khi ngày rời Stalingrad đã đến gần,
Grossman trở nên càng lúc càng lơ đãng với những gì ông đã phải trải qua.
Những người lính Hồng quân tắt máy hát. “Bật
đĩa hát nào tiếp theo đây?”. 1 người hỏi. Nhiều tiếng nói cất lên: “Đĩa này”. “Đĩa
kia”.
Sau đó 1 điều khác lạ xảy ra. Trong khi
những người lính đang chọn đĩa, tôi nghĩ: Thật tuyệt nếu được nghe bài hát ưa
thích của mình trong căn nhà đổ cháy đen này. Và bất thần, trong không khí
trang nghiêm, tiếng hát u buồn cất lên: “Cơn bão tuyết đang gào thét ngoài cửa
sổ...”. Những người lính Hồng quân chắc cũng rất thích bài hát này, mọi người
ngồi lặng im, chúng tôi nghe đi nghe lại bài hát đến cả chục lần:
“Hỡi
Thần Chết, chúng tôi xin người,
Xin
hãy đợi ngoài kia”.
Những lời ca và bản nhạc bất hủ của
Beethoven vang lên tại đây mạnh mẽ không sao tả xiết. Với tôi, đây có lẽ là
khoảnh khắc xúc động nhất trong cả cuộc chiến... Và tôi nhớ tới những bức thư
nhỏ bé viết bởi bàn tay trẻ con tìm thấy bên 1 người lính hy sinh trong 1 cứ
điểm. “Buổi chiều tốt lành, hay có khi là buổi tối tốt lành, con chào Tyatya
(bố)...”. Và tôi nhớ đến người Tyatya đã hy sinh, chắc anh đã đọc bức thư đó
khi sắp chết, và tờ giấy bị vò lại nằm bên đầu anh.
------------
Còn
tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét