Thứ Hai, 11 tháng 9, 2023

Nhân Dân Bất Diệt - Chương 12

Nhân Dân Bất Diệt

Tác giả: Vasily Grossman
Người dịch: Trần Mai Chính
NXB Quân Đội Nhân Dân - Năm 1963

Ở Đội Hậu Vệ

Quân Đức bắt đầu tiến ngay lúc trời vừa sáng, Lính xe tăng mở nắp trên tháp súng, ngồi nhai táo. Chốc chốc, chúng lại nhìn mặt trời mọc. Một vài tên trong số đó mặc quần đùi và áo sơ-mi thể thao, hai ống tay rộng và cộc, dài kín khuỷu, Một chiến xa hạng nặng lăn trước một chút, Tên chỉ huy chiếc xe đi đầu ấy, một tên Đức vóc người vạm vỡ, cẳng tay béo mập quấn một sợi dây thao đỏ gần khuỷu tay, quay bộ mặt phèn phẹt đầy những vết tàn hương của nó về phía mặt trời và ngáp. Một mớ tóc dài hoe đỏ thò ra ngoài chiếc mũ nồi. Nom nó ngồi chồm chỗm trên cái xe tăng người ta tưởng như được thấy hiện thân của sự ngạo nghễ có tính chất lính tráng, một vị thần chiến tranh phi nghĩa. Xe tăng của nó chỉ còn cách Mác-si-khi-na Bu-đa chưa đầy sáu cây số mà cái đuôi thép của đoàn quân chưa có thời gian để triển khai vẫn còn chậm chạp lái nghiêng trên quảng trường lớn giữa làng, trong tiếng sắt thép ầm ĩ. Mau lẹ như một đàn cá măng nhỏ hiếu động đột nhiên xuất hiện ngay chính giữa những con cá chép lớn, bọn lính cưỡi mô tô mở hết tốc lực vượt lên trên các xe tăng. Khi chúng lượn vòng qua các chiến xa, chúng vẫn không giảm tốc độ; đường cái mấp mô làm chúng nhảy chồm chồm. Những chiếc mô-tô thùng màu lá cây sẫm bị lắc mạnh, giật nảy lên như muốn hất tung bọn lính ngồi trên. Lên tới ngang tầm chiếc chiến xa dẫn đầu, bon lính mô-tô lưng cúi rạp, người hom hem, mặt rám đen vì phơi nắng trong các chuyến đi, hấp tấp giơ cánh tay lên chào, đầu vẫn không quay ngang và rồi lại dán người vào tay lái. Với một cử chỉ thờ ơ, tên to béo đáp lễ. Đại đội lính mô-tô vút lên phía trước, để lại đằng sau những dải bụi trắng. Làn bụi nhuốm hồng trong ánh mặt trời, lững lờ, phấp phới như treo bên trên con đường cái và cái chiến xa đi đầu vừa nổ sình sịch liên hổi, vừa lao vào trong đám mây bụi mỏng ấy. Trên cao, những máy bay “Messerschmitt Bf 109” bay ngang qua với một tiếng rít chói tai. Thân những chiếc máy bay “Messers” thon thon, giống thân những con chuồn chuồn, lúc lao trái, lúc lao phải, vụt bay cao rồi lại hung hăng nhào xuống; thỉnh thoảng, sau khi vượt lên trước hàng quân, chúng lại đột ngột vòng quay trở lại đằng sau. Tiếng rít của chúng chói tai, váng óc đền nỗi những tiếng chấn động ầm ầm của xe tăng cũng không át nồi. Những chiếc “Messers” lượn thấp, sát những bụi cây, rãnh nước, chúng sục sạo từng mảnh đất nhỏ trên cánh đồng lúa chưa gặt. Đằng sau xe tăng, những chiếc cam-nhông ba cầu chở bộ binh đã tiến vào con đường cái trong tiếng động cơ sình sịch. Ngồi sát bên nhau trên những chiếc ghế dài con, bọn lính, đội ca-lô lệch xuống tai, nắm trong tay những khẩu tiểu liên đen sì. Xe cam-nhông cuốn tung những đám bụi dày đặc như mây đến nỗi nắng hè cũng không sao xuyên qua được. Như một tấm màn che rộng và dài, bụi bay trên cánh đồng và những cánh rừng thưa.
Cây cối chìm trong màn bụi mờ đục ấy tưởng như mặt đất bốc cháy phủ một đám khói khô và cay cay.
Đó là một cuộc hành quân cổ điển - đã được hoàn chỉnh và thử thách - của những binh đoàn cơ giới Đức. Cái tên to béo đội mũ nồi đã ngồi lên xc tăng ngày mồng 10 tháng 5 năm 1940 hồi năm giờ sáng, khi chiếc xe hạng nặng của nó chạy vào con đường bao quanh những cao điểm giữa những lũy đá, chính giữa những ruộng nho xanh tốt của nước Pháp. Những tên lính mô-tô cũng vậy, cũng đúng giờ ấy, đã rầm rộ lăn bánh và những máy bay yểm hộ cũng đã bay trên trời. Ngày mồng 1 tháng 9 năm 1939, vào một buổi sớm mai trong trẻo, xe tăng của nó đã vượt qua mốc biên giới Ba Lan, giữa những thân cây sến vươn cao. Muôn vàn tia nắng nhảy nhót, khéo léo và yên lặng, trên cái vỏ sắt đen. Như vậy đó, nhất tề tất cả binh đoàn thiết giáp đã xông vào con đường dẫn tới Bê-ô-gơ-rát và cơ thể xứ Xéc-bi rùng mình kêu răng rắc dưới những xích sắt mau lẹ. Như vậy đó, nó là người đầu tiên đã lao ra khỏi cuộc hành quân lạnh lẽo âm u và nó đã nhìn thấy vệt xanh rực rỡ của Vịnh Sa-lô-ních với những dãy núi đá hoa cương trên bờ biển. Nó ngáp dài vì đã quen với mọi sự, nó, cái tượng thần chiến tranh phi nghĩa mà hình ảnh đã được đăng trên những tờ tạp chí và họa báo hàng ngày ở Muy-ních, Béc-lanh và Lai-xích.
Vào lúc mặt trời mọc, Bô-ga-rép và các sĩ quan khác leo lên đỉnh đồi. Ba-bát-gia-nhi-an lấy cái ống nhòm ở trong tay Ru-mi-an-xép kiểm tra con đường một cách thận trọng. Anh tán thưởng quang cảnh vui tươi buổi sáng của vạn vật vừa tỉnh dậy khi đêm đã qua, trong sự mát mẻ trong sương mai và sương mù nhè nhẹ, giữa những tiếng dế kêu kín đáo. Một con bọ hung đen dáng bận rộn, vừa bò vừa sục vào trong cát. Lũ kiến đã đi tha mồi. Một bầy chim ùa ra khỏi một cành cây và sau khi vùng vẫy rũ lông rũ cánh trong đám bụi vừa ấm lên vì được những tia nắng sớm mơn man, chúng bay vụt về phía con suối, miệng kêu chiêm chiếp.
Những ấn tượng mà chiến tranh gây nên trong con người mới sâu sắc làm sao! Sự thanh bình vĩnh viễn của vạn vật nhòa đi trước những ảo ảnh ấy, Đứng trên đồi, các chiến sỉ lầm tưởng những đám mây nhẹ trên trời là những viên đạn phòng không nồ; tưởng những cây bạch dương xa xa là những cột đen khói và đất do máy bay ném những quả bom hạng nặng làm bốc lên cao; tưởng những đàn sếu bay theo hình tam giác là một đội hình có tổ chức của máy bay chiến đấu; tưởng sương mù lan dưới lòng các khe sâu là khói tỏa trên các xóm làng bốc cháy; tưởng những bụi rậm dọc theo đường cái là một đoàn ô-tô ngụy trang cành lá đang đợi lệnh xuất phát, Nhiều lần, Bô-ga-rép đã có dịp nghe thấy trong buổi hoàng hôn, giữa lúc có máy bay địch đang bay: “Nom kìa, quân Đức vửa bắn một phát pháo hiệu đỏ”. Câu trả lời bật ngay ra, ranh mãnh: “Đâu nào, có phải pháo hiệu đâu, sao đổi ngôi đấy”. Chẳng hiếm những lần người ta lẫn những ánh chớp trong những buổi chiều hè nồng nực với ánh lửa của những trận pháo hỏa. Và giờ đây, ở hướng tây, có những con quạ đen lìa khỏi đám lá cây, bay vụt trong không khí, người ta cứ ngỡ là những máy bay bay theo đội hình tản khai.
“Khỉ ơi là khỉ, - Nép-tu-lốp nói. - phải cấm lũ quạ không được bay trước khi quân Đức tấn công mới được”.
Sau đó một lát những máy bay sơn màu sẫm xuất hiện. Chúng bay ở độ thấp, với một tốc độ rất nhanh, làm cho không khí rít lên, đầy tiếng gầm rú ù tai,
Bên sườn cao điềm, thu hình trong những hầm bọc sắt hoặc những chiến hào, các chiến sĩ Hồng quân vung chân múa tay, vẫy vẫy ca-lô như chào đón. Tiểu đoàn vừa nhận ra những ngôi sao đỏ trên cánh máy bay.
- Máy bay, máy bay cường kích của ta! - Ba-bát-gia-nhi-an hét lớn.
- Những chiếc “I-li-u-sin” của ta sắp sửa tấn công. - Ru-mi-an-xép nói. - Nom kìa, nom kìa, cái đi đầu vẫy cánh như muốn nói: “Tôi đã thấy kẻ thù, tôi sắp tấn công”.
Tình bạn giữa các binh chùng thật tốt đẹp và mạnh mẽ. Nó đã được những người ngoài mặt trận thử thách và chứng minh. Êm ái và phấn khởi làm sao khi nghe thấy tiếng pháo nồ ầm ầm yểm hộ cho bộ binh lao vào trận chiến đấu, tiếng đạn đại bác rít lên khi bay vút sang trận địa mà quân ta sắp xông vào. Đó không phải chỉ là một sự yểm hộ bằng sức mạnh: đó còn là một sự nâng đỡ của trái tim và của tình bạn.
Trên những cánh đồng, cách đường cái mươi thước, nhiều hầm hố đã đào xong giữa đám cỏ dại. Nhiều người mặc quân phục ka-ki và đội mũ ca-lô đính sao đỏ, giấu mình dưới đó tới ngang ngực. Những cái chai mảnh dẻ xếp thành hàng thẳng dưới đáy hố và súng trường tựa vào thành. Trong túi quần, các chiến sĩ mang những túi đỏ đựng thuốc lá sợi to, những bao diêm đã bẹp gí trong lúc nằm ngủ, những tấm bánh bích-quy và những cục đường, trong túi áo va-rơi, họ giữ những tờ thư nát nhàu của quê nhà, của vợ con, những mẩu bút chì, những kíp mìn bọc trong mảnh giấy báo. Những người vùi mình trong đất tới ngang ngực đeo ở bên sườn những túi dết bằng vải thô nhét đầy lựu đạn. Những hầm hố ấy đã được cấu trúc cho hai người có thể nấp chung. Và như thể, năm người bạn, muốn được ở bên nhau càng gần càng tốt, đã đào mấy cái hố gần như chạm vào nhau. Đồug chí thượng sĩ đã dặn kỹ: “Các cậu không được quấn lấy nhau, điều lệnh đã cấm rồi đấy”. Nhưng trong giờ phút gay go ấy, thật là thú vị được nhìn thầy ngay sát người mình khuôn mặt mồ hôi mồ kê của một người bạn, được hét to với hắn:
“Đừng có vứt cái đầu mẩu thuốc lá đi, để cho mình hút nốt”, và được cảm thấy, cùng với làn khói nóng, cái hơi ẩm ươn ướt của mẩu thuốc lá đã được đôi môi người bên cạnh ngậm vào rít mạnh.
Họ ở đó, vùi trong đất tới ngang ngực. Trước mặt họ là những cánh đồng và con đường cái hoang vắng. Hai mươi phút nữa sẽ qua và những xe tăng mau lẹ, nặng hai mươi hai tấn, mang trọng pháo sẽ lao tới ầm ầm trong những cơn lốc bụi: “Xe tăng! - Đồng chí thượng sĩ sẽ hô lớn. - Xe tăng, mở to mắt các cậu ơi!”.
Đằng sau họ, trên những sườn đồi, các chiến sĩ đại liên đã bố trí xong các hố ẩn nấp; trên cao và xa nữa, đằng sau những cỗ đại liên là anh em bộ binh trong các chiến hào; đằng sau họ, xa hơn nữa là những trận địa pháo, rồi đến chỉ huy sở, tiểu đoàn quân y... và xa nữa, xa mãi nữa là những cơ quan tham mưu, những sân bay, những đội dự bị, những trạm kiểm soát trên các con đường, những rừng cây, thành phố và nhà ga ban đêm ánh đèn phải che kín, là Mát-xcơ-va và xa hơn nữa, vẫn đằng sau, là sông Von-ga, những nhà máy ở hậu phương sáng trưng ánh điện trong đêm, những khung cửa sổ, kính không phải che kín, những con tàu trắng rực sáng trên sông Ca-ma. Đẳng sau họ là tất cả đất nước mênh mông. Họ ở đó, trong hầm hố và trước mặt họ chẳng có một ai. Họ hút những điểu thuốc lá sợi to quấn trong giấy báo; họ mân mê túi áo va-rơi và những tờ thư góc đã sờn. Nhiều đám mây trôi qua, một con chim bay ngang trời rồi biến mất. Còn họ vẫn ở đó, vùi mình trong đất đến ngang ngực, họ chờ đợi, họ nghe ngóng. Chính họ sắp đánh lui trận đột kích của các chiến xa. Mắt họ không còn nhìn thấy bạn bè, họ đang rình quân thù. Hỡi những ai, hôm nay, ở đằng sau họ, sau này đến thắng lợi và hòa bình, hãy nhớ tới những người lính chống tăng, những con người mặc áo va-rơi xanh màu lá ấy với những cái chai cháy mảnh dẻ, với những túi dết vải thô nhét đầy lựu đạn bên sườn... Hãy nhường chỗ cho họ trên ghế dài, trong các toa xe lửa sơn màu xanh lá cây, hãy mời họ uống nước chè nóng dọc đường.
Bên trái họ, một cái hố chống tăng rộng trên lát những tấm ván chắc, kéo dài từ dải sông con lầy bùn sang đến tận đường cái; bên phải là rừng;
Rô-đim-xép, I-nha-chi-ép và anh chàng thanh niên cộng sản Mát-xcơ-va, Xê-đốp, đã vùi mình trong đất và kiểm soát con đường. Hố của họ ở liền ngay cạnh. Bên phải họ, mé bên kia đường là Gia-vê-lép, hạ sĩ Mô-rép và đồng chí phụ trách công tác chính trị Ê-rê-vích, đội trưởng một đội tình nguyện chống tăng. Đằng sau họ là hai đại đội đại liên đo Gơ-la-gô-lép và Coóc-đa-khin chỉ huy. Nếu nhìn gần, người ta sẽ thấy những khẩu đại liên, ẩn trong một cái hang âm u ngoài phủ đất và những cây gỗ thông bóc trụi vỏ, đã chĩa nòng xuống đường cái. Nhích sang phải nữa và ở đằng sau là những anh em trinh sát pháo binh, hễ họ cử động là lá khô của những cành sến cắm dưới đất lại kêu sột soạt.
Một trinh sát viên pháo binh kêu to:
- Ê, này các cậu lính chống tăng, hay ta đi câu đi, buổi sáng cá cắn ghê lắm!
Nhưng anh em không ai quay đầu lại. Anh chàng ấy có thể vui vì anh ta có trước mặt một cái hố chống tăng; bên trái anh ta còn có những cái lưng rộng của các chiến sĩ chống tăng, áo bạc phếch mồ hôi, ngăn cách anh ta với con đường cái. Đồng chí quan sát viên vừa tung những câu đùa cợt vừa nhìn những tấm lưng ấy, những cái gáy ấy, nâu nâu và hung hung vì bắt nắng.
- Làm một điếu chứ? - Xê-đốp hỏi.
- Ừ thì làm. - I-nha-chi-ép đáp.
Rô-đim-xép ném cho I-nha-chi-ép một cái lọ “ô đơ cô-lô-nhơ”* cũ đựng thuốc lá sợi to đầy đến lưng chừng.
*[Nước hoa loãng dùng để rửa mặt].
- Hút thuốc của mình ấy, nặng hơn.
- Còn cậu không hút à? - I-nha-chi-ép hỏi.
- Không, đắng miệng lắm, tớ hút nhiều quá rồi; giờ thích nhấm bánh bích-quy hơn. Ném cho tở một cái, của cậu trắng hơn.
I-nha-chi-ép ném cho anh ta một cái bánh bích-quy. Rô-đim-xép cẩn thận thổi trên mặt bánh cho bay hết những hạt cát và bụi thuốc lá rối cắn bánh giòn tan.
- Mong sao chúng nó đến nhanh nhanh lên, - Xê-đốp hít một hơi thuốc lá dài, nói. - chờ đợi lâu khó chịu lắm.
- Cậu sốt ruột hả? - I-nha-chi-ép hỏi. - Mình lại quên không mang cái ghi-ta đi.
- Thôi đừng có nói tếu nữa. - Rô-đim-xép cáu kỉnh nói.
- Ghê thật cơ các cậu ạ. - Xê-đốp nói. - Con đường nằm kia, trắng xóa và chết lịm, chẳng có gì động đậy. Tớ mà còn sống thì chẳng sao quên được cái cảnh này.
I-nha-chi-ép im không nói và nhìn đằng trước, người nghển cao lên một chút, hai bàn tay chống lên thành hố.
- Năm ngoái, đúng vào cái giờ này, minh còn nằm ở an dưỡng đường. - Xê-đốp nói, mồm khạc nhổ có vẻ khó chịu.
Sự im lặng của các bạn làm anh ta bực. Anh nhìn thấy Rô-đim-xép, cũng hệt như I-nha-chi-ép đang nghển cổ kiểm tra lại địa hình.
- Báo cáo thượng sĩ, quân Đức tới. - Rô-đim-xép dài mồm hô lớn.
- Chúng nó tới kìa! - Xê-đốp nói với một tiếng thở dài khe khẽ.
- Bụi mới gớm chứ! - Rô-đim-xép la lên. - như có hàng ngàn con bò đi qua.
- Ta sẽ mời nó xơi thử ít chai xem. - Xê-đốp hét.
Và anh cười, khạc nhổ, chửi bới. Đầu óc anh căng thẳng đến tột độ, tim đập thình thịch, thình thịch, hai lòng bàn tay nhơm nhớp mồ hôi. Anh chùi vào thành hổ xù xì.
I-nha-chi-ép im lặng nhìn bụi đang bay lầm trên đường cái.
Chuông điện thoại réo lên ở đài quan sát. Ru-mi-an-xép cầm lấy ống nghe. Đầu kia dây nói, đổng chí quan sát viên cho biết là đội tiền vệ của bọn lính mô-tô Đức đã đột nhập vào khu vực gài mìn trên đường cái.
- Trông kìa, chúng nó! - Ba-bát-gia-nhi-an nói. - Ta sẽ đón tiếp chúng một cách xứng đáng.
Anh gọi dây nói cho trung úy Cô-xi-úc chỉ huy đại đội súng máy và ra lệnh khi nào quân Đức đến đúng tầm thì phát hỏa.
- Cự ly bao nhiêu thước? - Cô-xi-úc hỏi.
- Việc gì mà phải đếm thước. - .Ba-bát-gia-nhi-an nói. - Bao giờ chúng đến cạnh cái cây khô, bên phải con đường.
- Đến cái cây khô... - Cô-xi-úc nhắc lại.
Ba phút sau, súng máy phát hỏa. Tràng đạn đầu tiên bắn “quá ngắn”. Bụi bốc lên từng đám mây con, y như có một bầy chim sẻ nô đùa trong đó. Quân Đức phản kích không ngừng: chúng không nhìn thấy mục tiêu nhưng hỏa lực của chúng cứ lia bừa rất mạnh; không khí rung lên chứa đầy những ngọn mác giết người vô hình; nhiều bụi nhỏ tụ lại thành độc một đám mây bò theo dọc quả đồi. Trong các chiến hào và hầm hố, người ta cúi mình hồ nghi cả bầu trời xanh đang ca hát trên đầu.
Lúc đó các khẩu súng máy bắn hàng tràng đạn rất chuẩn xác vào bọn lính mô-tô đang lao hết tốc độ. Trước đó một chút, người ta còn có thể tin rằng không một sức mạnh nào trên đời có thể chặn nổi đoàn quân cuốn đi như gió lốc và nổ súng đùng đùng ấy. Giờ đây, nó tan đi trong chớp mắt; những chiếc mô-tô nằm bất động, nghiêng vẹo một bên. Bánh xe còn đà vẫn tiếp tục quay không, cuốn bụi tung. Những tên lính mô-tô thoát chết chạy tỏa ra cánh đồng.
- Thế nào? - Ba-bát-gia-nhi-an hỏi Ru-mi-an-xép. -  Các đồng chí pháo binh ơi, các cậu có bảo là súng máy của chúng tôi vô tích sự nữa không nào?
Một loạt đạn súng trường nồ ran bắn đuổi các tên lính mô-tô. Một tên Đức còn trẻ, chân bị thương hay bong gân đi khập khiễng, từ bên dưới một cái xe mô-tô đổ bò ra và giơ tay lên. Đạn ngừng bẳn. Đứng thẳng người trong cái áo rách với một vẻ đau đớn và kinh khủng trên bộ mặt bẩn thỉu và rớm máu, nó giơ cao hai bàn tay, giơ cao mãi lên nữa như muốn với những quả táo trên một cành cao. Rổi thì nó mở miệng gào lên và khập khà khập khiễng, lúc lắc hai cánh tay giơ thẳng, nó đi về phía chiến hào của ta. Nó vừa đi vừa hò hét. Một trận cười ran lên từ chiến hào nọ sang chiến hào kia, từ hố nọ sang hố kia. Từ chỉ huy sở có thề thấy rõ tên Đức giơ tay cao nhưng các sĩ quan không hiểu tại sao tất cả mọi người lại cùng cười rộ lên như vậy. Điện thoại của vọng quan sát liền giải thích nguyên nhân niềm vui bất ngờ ấy.
Bằng một giọng rên rỉ vì sặc cười, Cô-xi-úc hét lên trong máy điện thoại:
- Báo cáo thiếu tá, thằng Đức què ấy gào như bị ma đuổi: “Hỡi người Nga, hãy hàng đi!”. Thế mà chính nó lại giơ tay...
Cười khanh khách cùng với anh em, Bô-ga-rép nghĩ: “Cười được như thế lúc các chiến xa xông tới, thật là tốt, tốt vô cùng”.
Và anh hỏi Ru-mi-an-xép:
- Sẵn sàng chưa, đồng chí đại úy?
Ru-mi-an-xép đáp:
- Báo cáo, sẵn sàng. Các phần tử đã được tính toán xong, pháo đã lắp đạn, chúng tôi sẽ bắn tập trung vào tất cả khu vực xe tăng sẽ qua.
- Máy bay! - Nhiều người hét lên cùng một lúc,
Và hai cái máy nói cũng nhất tề réo chuông,
- Chúng nó đến. Xe đi đầu, cự ly hai ngàn thước. - Ru-mi-an-xép nói dằn từng tiếng.
Đôi mắt anh trở nên nghiêm khắc, trong lúc đôi môi vẫn mỉm cười.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét