Thứ Năm, 7 tháng 9, 2023

Nhân Dân Bất Diệt - Chương 5

Nhân Dân Bất Diệt

Tác giả: Vasily Grossman
Người dịch: Trần Mai Chính
NXB Quân Đội Nhân Dân - Năm 1963

Báo Động

Rồi sẽ đến một ngày tòa án của các dân tộc vĩ đại mở cửa; ánh sáng mặt trời sẽ khinh bỉ rọi vào khuôn mặt choắt, cái trán thấp và đôi thái dương lõm của Hít-le; tên trùm không quân phát-xít*, má xị những mỡ, sẽ cựa quậy nặng nề bên cạnh “Quốc trưởng”, trên cái ghế bị cáo ô nhục.
*[Chỉ tên Gơ-rinh (Goering)]

“Xử tử!” - Các bà lão mắt mờ những lệ sẽ nói vậy.
“Xử tử!” - Các trẻ em mà cha mẹ bị chết trong lửa cháy sẽ nói vậy.
“Xử tử!” - Các bà mẹ mất con sẽ nói vậy - “Nhân danh tình yêu đời thiêng liêng mà xử tử!”.
“Xử tử!” - Mặt đất bị chúng làm ô uế sẽ nói vậy.
Tro tàn dưới những đống đổ nát ở các thành phố xóm làng bị thiêu hủy sẽ thét lên: “Xử tử!”. Và dân tộc Đức, khiếp sợ, sẽ cảm thấy những cái nhìn khinh bỉ, trách móc đè chĩu lên họ, họ sẽ gào lên trong kinh hoàng và hổ thẹn: “Thế là chết, thế là chết!”.
Một trăm năm nữa, các nhà sử học sẽ rùng mình nghiên cứu các nhật lệnh được thảo ra một cách tự nhiên và có phương pháp, từ đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh Đức gửi cho quân đội, cho các chỉ huy trưởng các phi đội và các chi đội không quân. Kẻ nào thảo ra những cái đó vậy? Những thú vật, những thằng điên, hay những người máy với những ngón tay sắt của các máy tính và các máy tích phân?
Đợt tấn công của máy bay Đức bắt đầu khoảng nửa đêm. Những máy bay trinh sát đầu tiên, bay cao, ném xuống những pháo sáng, vài chùm bom cháy. Những cục lửa nhợt nhạt của pháo sáng treo lủng lằng ở đuôi dù, bay lơ lửng giữa những khoảng không, khiến các vì sao nhạt đi và biến mất. Một ánh sáng chết tỏa ra, thản nhiên, soi một cách tỉ mỉ và chăm chú những nơi công cộng, những đường, những ngõ trong thành phố. Toàn bộ cái đô thị đang ngủ hiện lên trong ánh sáng ấy: bức tượng thiếu niên thổi kèn bằng thạch cao màu trắng, cửa kính các hiệu sách, các chai lọ pha-lê có ánh hồng, xanh bày bên trong cửa kính hiệu thuốc. Trong vườn hoa, những chùm lá đen thẫm ở các ngọn phong cao bỗng sáng lên, giữa bóng đêm nổi bật đường viền của từng chiếc lá và các chú quạ khoang non ngờ nghệch kêu hoảng lên trước cảnh đột ngột ấy. Người ta thấy sáng lên những cửa sổ ở các màn che và lọ hoa, hàng cột trước cửa bệnh viện, tấm rèm tiệm ăn tươi tắn, hàng trăm khu vườn nhỏ, hàng trăm chiếc ghế, hàng nghìn nóc nhà nhỏ lợp dốc, những cửa tròn trên các mái gác xép ánh lên kín đáo và những vệt vàng hổ phách bò trên sàn gỗ đánh xi, trong phòng đọc ở thư viện thành phố.
Thành phố đang giữa giấc nồng trải ra dưới ánh sáng trắng, thành phố che chở cho hàng vạn ông già, bà lão, trẻ em và thiếu phụ, thành phố lớn lên đã từ chín thế kỷ; ở đây, ba trăm năm trước đã lập một chủng viện lớn và xây một nhà thờ gia-tô trắng tinh; ở đây, đã sống biết bao thế hệ sinh viên vui vẻ; thuở đương thời, hàng đoàn dài xe ngựa chở hàng đã chạy qua đây. Những bác chở bè rậm râu bước chầm chậm trước các ngôi nhà và làm dấu thánh khi nom thấy những nóc tròn của nhà thờ. Thành phố nổi tiếng, đã đánh lui những khu rừng rậm um; nơi làm việc của nhiều tay thợ làm nồi, thợ mộc, thợ thuộc da, làm bánh ngọt, may quần áo, sơn nhà cửa và thợ nề cừ khôi, suốt từ thế kỷ này sang thế kỷ khác. Một đêm tháng Tám tối trời, cái đô thị xinh đẹp cổ kính bên bờ sông bỗng nhiên đã bị chất sáng hóa học của các hỏa pháo chiếu rọi.
Ngay từ ban ngày, bốn mươi máy bay ném bom hai động cơ đã được chuẩn bị rất kỹ lưỡng cho cuộc bắn phá. Các thợ máy người Đức, trong bộ quân phục cắt hẹp, đã đổ một chất lỏng trong và mau bốc hơi vào đầy các bầu chứa. Những trái bom nổ sơn đen, xanh, và bom cháy màu trắng bạc được mắc vào thân máy bay theo đúng tỷ lệ quy định cho các cuộc ném bom thành phố. Tên chỉ huy đã nghiên cứu kế hoạch của cuộc tấn công, do phòng tham mưu vạch ra; nhân viên thăm dò khí tượng đã cho biết kết quả thăm dò. Bọn phi công nhai sô-cô-la, hút thuốc lá và gửi về nhà những tấm bưu ảnh với đôi dòng chữ ngồ ngộ. Chúng mặc diện, tóc cắt hợp thời trang.
Máy bay nổ giòn. Một loạt đạn cao xạ dày đặc đón chúng. Những luồng đèn pha soi chặn chúng, và chẳng bao lâu, một chiếc máy bay đã bốc lửa. Như thứ đồ chơi bằng bìa cứng bị gãy gập, nó rơi nhào xuống đất, lúc thì chìm lấp trong màn lửa đen kịt, lúc lại nhô ra. Bọn phi công đã đến tầm trông thấy cái thành phố đang ngủ, có hỏa pháo chiểu sáng.
Nhiều tiếng nổ liên tiếp vang động thành phố. Tưởng đâu đang có động đất, kính trong các nhà bắn tung từng mảnh, vữa tường rơi như mưa, cửa ra vào và cửa sổ cứ tự động mở toang. Những người thiếu phụ ăn mặc phong phanh, tay bồng con, chạy tới hầm trú ẩn.
I-nha-chi-ép nắm lấy tay Vê-ra, kéo nàng lại một cái rãnh đào gần bờ rào. Mấy ngươi dân lẻ tẻ còn ở trong nhà đã xuống đó cả. Ông luật sư già, chủ nhà của chính ủy, thong thả bước ra sân, tay cầm một bó sách buộc dây. Sau khi đã giúp cụ và Vê-ra xuống hào, I-nha-chi-ép lao vội vào nhà. Vừa lúc đó có tiếng một quả bom nồ. I-nha-chi-ép nằm dán người xuống đất. Bụi gạch vụn bốc đầy sân: căn nhà bên cạnh vừa đổ sập. Một bà kêu:
- Hơi ngạt!
I-nha-chi-ép cáu lên đáp:
- Hơi ngạt nào? Bụi đấy; cứ ở trong hố!
Người thượng sĩ và các chiến sĩ đã thức giấc, xỏ chân vào ủng. Ánh lửa đám cháy chiếu sáng cho họ. Ngọn lửa mới lóe, chưa có khói, làm óng ánh những chiếc gà-mèn bằng sắt trắng... I-nha-chi-ép nhìn các bạn của anh đã mặc quần áo mau chóng và lặng lẽ, nhìn mấy cái gà-mèn, hỏi:
- Các cậu đã lĩnh bữa tối cho tớ chưa?
-  À, anh bạn, - Xê-đốp nói - trong khi đằng ấy ngồi ghế để đếm sao với phụ nữ thì chúng tớ lại còn phải đi xoay bữa tối cho đằng ấy nữa ư?...
- Nhanh lên, nhanh lên, - thượng sĩ thét. - I-nha-chi-ép đi gọi chính ủy dậy ngay!
I-nha-chi-ép trèo lên tầng gác thứ nhất. Căn nhà cũ kỹ bị tiếng bom rầm rầm làm rung chuyển; các cánh cửa nghiến kèn kẹt đập vào tường. Trong các chạn, bát đĩa kêu lanh canh ghê rợn, toàn bộ ngôi nhà cổ có người ở đã biết bao năm ấy lúc này thật chẳng khác nào một vật sống đang run lên trước thảm họa kinh khủng giáng xuống các ngôi nhà khác. Chính ủy đứng gần cửa sổ, không trông thấy I-nha-chi-ép vào. Một tiếng nổ nữa làm chuyển đất, vôi vữa bục rơi xuống ùng ục, tung bụi khô đầy phòng. I-nha-chi-ép hắt hơi. Chính ủy không nghe thấy anh, vẫn đứng yên bên cửa sổ, nhìn thành phố. “Chính ủy cừ thế đấy”, I-nha-chi-ép nghĩ, và anh không khỏi thán phục chính ủy. Cái thân người cao, không nhúc nhích, ngoảnh về các đám cháy đang nhóm lên ấy, thật có sức hút to lớn.
Bô-ga-rép thong thả quay lại. Một ý nghĩ nặng nề, dai dẳng in hằn trên nét mặt anh. Đôi má hõm, đôi mắt đen, đôi môi co vào, tóm lại là toàn bộ con người anh đang căng lên, biểu hiện một sự cố gắng phi thường. “Nghiêm như một bức tượng thánh”, I-nha-chi-ép nhìn thủ trưởng của mình mà nghĩ vậy.
-  Báo cáo chính ủy, - anh nói. - đồng chí nên đi khỏi nơi này. Bom nổ gần lắm. Căn nhà này mà bị trúng thì một mảnh cũng chẳng còn.
- Tên đồng chí là gì? - Bô-ga-rép hỏi.
- Báo cáo chính ủy, I-nha-chi-ép ạ.
- Đồng chí I-nha-chi-ép, đồng chí hãy truyền lệnh của tôi cho đồng chí thượng sĩ: Phải giúp đỡ bà con nhân dân. Đồng chí nghe thấy tiếng đàn bà kêu đấy chứ?
- Báo cáo chính ủy, rõ. Có chữa cháy cũng chẳng ăn thua gì mấy ạ. Phần lớn các nhà bằng gỗ đều khô nỏ, cứ bốc cháy hàng trăm chiếc một. Chẳng có ai để mà dập tắt cả. Thanh niên thì đi tản cư hoặc vào dân quân, chỉ còn có người già và con trẻ ở lại.
Chính ủy nói, không có chuyển tiếp gì hềt:
- Đồng chí I-nha-chi-ép, đồng chí hãy nhớ lấy đêm nay, nhớ lấy thành phổ này, các cụ già và các trẻ nhỏ này.
- Thưa đồng chí chính ủy, những chuyện như vậy quên sao được.
I-nha-chi-ép ngó khuôn mặt sa sầm của Bô-ga-rép và nhắc lại:
- Thưa chính ủy, quả thật là thế, quả thật là thế.
Rồi anh hỏi:
- Đồng chí cho phép tôi chí ít cũng được lấy chiếc ghi-ta treo trên tường kia chứ ạ? Vì đằng nào ngôi nhà này cũng sắp bổc cháy đến nơi. Anh em chiến sĩ nghe tôi đánh đàn thích lắm ạ.
-  Nhưng nhà đã cháy đâu. - Bô-ga-rép nói nghiêm khẳc.
I-nha-chi-ép ngó chiếc ghi-ta lớn, thở dài, rồi ra cửa. Bô-ga-rép xếp một số giấy má vào xà-cột, khoác áo tơi, rồi sau khi đã đội lại chiếc cát-két, anh lại quay về bên cửa sổ;
Thành phố bốc cháy. Một thứ khói đỏ, đẫm những tàn lửa, dâng cao trên trời; những ánh lửa màu gạch sẫm dập dờn trên nóc chợ. Hàng nghìn đám lửa trắng, da cam, vàng, đỏ tía, biêng biếc bao phủ thành phố, hệt như một chiếc mũ lông khổng lồ. Lá cây quặn lại, úa đi. Trong không trung nóng giãy, hàng đàn chim câu và quạ bay trốn khỏi tổ của chúng cũng đang làm mồi cho lửa. Những nóc nhà tôn sáng rực, bị nung trắng lên, quằn đi, kêu răng rắc. Từ các cửa sổ bề bộn những chậu hoa bốc lên những làn khói màu trắng như sữa hoặc đen rợn người, hồng hồng hoặc xám như tro. Khói lượn lờ, cuồn cuộn, bay lên thành những sợi vàng mỏng manh, thành những dải hung hung, hoặc tóe lên đột ngột như một đám mây to tướng dữ dội từ một lồng ngực khổng lồ khạc ra. Khói phủ lên trên thành phố một tấm khăn liệm, trườn trên mặt sông và dưới các lòng khe, mắc thành cụm trên các ngọn cây trong rừng.
Bô-ga-rép bước xuống. Trong chảo lửa mênh mông, trong khói, giữa tiếng bom nổ, tiếng thét, tiếng trẻ khóc, có những con người dũng cảm vẫn giữ được bình tĩnh. Họ dập tắt các đám cháy, hắt cát vào các quả bom, kéo các ông già ra ngoài lửa. Bộ đội, lính cứu hỏa, dân quân, công nhân và thợ thủ công, mặt nhọ, áo quần bốc khói, gắng chiến đấu hết sức mình để cứu giúp tất cả những gì còn có thể cứu giúp. Vừa xuống, Bô-ga-rép đã cảm thấy ngay sự có mặt của những con người dũng cảm ấy. Họ từ khói lửa nhô ra, gắn bó trong một mối tình anh em cao quý; họ cùng đi thực hiện những kỳ công, chui biến vào những căn nhà bốc lửa, không cần nêu tên mình, cũng chẳng hề biết tên những người họ cứu.
Một quả bom cháy đã rơi xuống nóc một căn nhà hai tầng, tung lên một vốc tàn lửa, chẳng khác nào một chùm pháo hoa, bom nổ đánh một cái dấu trắng lóe ngay chỗ nó rơi. Lập tức, Bô-ga-rép leo lên gác xép của căn nhà; không khí trên đây ngột ngạt tỏa mùi đất sét bị hun, khiến anh nhớ lại thuở nhỏ. Anh chạy ra cái cửa mái có chút ánh sáng ngầu ngầu. Tôn trên mái đốt bỏng tay, tàn lửa bám vào quần áo, nhưng anh đã nhanh chóng tìm ra quả bom. Đưa chân ùng đá mạnh một cái, anh hất nó ra ngoài. Quả bom rơi bịch xuống một luống hoa, soi tỏ những đóa thược dược và thúy cúc lộng lẫy một lúc rồi thụt xuống đất mềm, cuổi cùng tắt ngấm ở đó. Từ nóc nhà nhìn xuống, Bô-ga-rép nom thấy hai chiến sĩ khiêng một chiếc giường trên có một ông già mà họ vừa kéo được ở căn nhà đầy lửa bên cạnh ra. Anh nhận ra anh lính I-nha-chi-ép, cái tay đã đề nghị anh cho lấy chiếc ghi-ta; người kia, Rô-đim-xép, thì thấp hơn và to ngang hơn I-nha-chi-ép. Một bà lão Do-thái nói líu cả lưỡi, cảm ơn I-nha-chi-ép đã cứu chồng mình. I-nha-chi-ép lấy tay phác một cử chỉ - rộng rãi, hào hiệp, phóng khoáng - nó như thâu tóm tất cả bản chất đẹp đẽ hiền hậu của nhân dân Nga. Vừa lúc đó, đạn cao xạ lại bắn dữ hơn. Xen vào đó là tiếng nổ của súng máy. Lại một đợt máy bay ném bom phát-xít nữa tiến về phía thành phố cháy rực. Người ta lại nghe thấy tiếng rít của bom từ máy bay thả xuống.
Một tiếng thét:
- Xuống hầm trú ẩn!
Nhưng anh em, đã hăng lên trong cuộc vật lộn, không còn cảm thấy nguy hiểm gì hết.
Bô-ga-rép dường như đã mất cả ý niệm về thời gian, về trình tự các sự việc đang diễn ra. Anh cùng mọi người dập tắt các đám cháy mới phát ra, hắt cát vào các quả bom cháy, kéo từ lửa ra những vật dụng của những ai ai chẳng rõ. Anh giúp các y tá vừa đi xe hồng thập tự tới đặt những người bị thương vào cáng; anh cùng chạy với các chiến sĩ cùa mình ra nhà hộ sinh vừa bén lửa, lôi sách ở thư viện thành phố đang cháy ra ngoài. Nhiều cảnh tượng ghê gớm mãi mãi khắc sâu trong trí nhớ. Một người đàn ông từ một căn nhà xông ra, miệng kêu: “Cháy! Cháy!”. Nom thấy cả lò lửa to tướng đang bốc đùng đùng chung quanh, ông ta bỗng trấn tĩnh lại. Ông ngồi phệt xuống bờ hè, không động đậy. Giữa vị khói đắng chát, đột nhiên tỏa một mùi hương ngát nhẹ: cửa hàng nước hoa đã bén lửa. Bô-ga-rép nghĩ tới người thiếu phụ trẻ tuổi đã phát điên đứng giữa một quảng trường vắng tanh có lửa cháy chiếu sáng, trên tay bế xác một cháu gái nhỏ. Một con ngựa bị thương nằm bẹp ở một đường rẽ. Trong đôi mắt đã dại nhưng còn chứa đựng sự sống cùa nó, Bô-ga-rép ngó thấy hình ảnh thành phố rực lửa. Lòng mắt đen cùa con vật, đượm vẻ đau đớn, chẳng khác nào một mặt gương pha-lê sinh động, vẫn còn phản chiếu hình ảnh các ngôi nhà bốc cháy, màn khói cuồn cuộn trên trời, những đống đổ nát rực trắng và cả cái rừng ống khói cao mỏng manh mỗi lúc một mọc nhiều thêm bên trên khu vực các ngôi nhà đã biến thành mồi lửa.
Và bỗng nhiên, anh có cảm giác mình cũng đang chìm vào trong cảnh ngụp đắm giữa đêm hôm của cái thành phố cổ êm đềm này.
Về sáng, lửa các đám cháy bắt đầu lụi dần. Mặt trời rọi sáng những đống đổ nát còn bốc khói cùng những ông già bà lão ngồi ủ rũ trên những bọc quần áo, giữa những bát đĩa, những chậu hoa, những bức chân dung cũ kỹ viền đen giật ở tường ra. Và cái mặt trời đang nhô lên giữa màn khói đã nguội của các đám cháy, bị nhiễm phải mùi cháy đắng chát, nom cứ nhợt nhạt như da người chết.
Bô-ga-rép tới phòng tham mưu nhận lệnh, rồi trở lại nhà. Vào đến sân, thấy người thượng sĩ tới gặp anh.
- Chiếc cam-nhông thế nào? - Bô-ga-rép hỏi.
- Ổn cả. - Thượng sĩ trả lời, mắt đỏ vì khói.
- Ta phải đi thôi, đồng chí tập hợp anh em lại.
- Báo cáo chính ủy, có tình hình mới. Tảng sáng, bọn Đức đã ném một quả bom ngay kề con hào có một số dân trú ẩn, và hầu hết đã bị trúng mảnh bom. Có hai người chết: đó là ông cụ chủ nhà của đồng chí và một cô gái ở nơi khác tản cư về đây.
Người thượng sĩ nói thêm, ranh mãnh:
- Chính cái cô mà cậu I-nha-chi-ép nhà ta vẫn tán ấy.
- Hiện giờ họ ở đâu? - Bô-ga-rép hỏi.
- Những người bị thương đã được đưa đi. Còn những người chết vẫn đề nguyên tại chỗ. Và chiếc xe ngựa tới chở họ đi đã đến kia.
Bô-ga-rép bước về cuối sân, nơi một số người đang xúm quanh hai xác chết. Không còn nhận ra được ông già nữa. Một số sách rách nát và vấy máu bẳn tung tóe ngay gần ông. Chắc hẳn trong lúc bom nổ ông đã ngẩng lên để nhìn ra bên ngoài con hào không lấy gì làm sâu kia. Bô-ga-rép còn đọc được tên một cuốn sách: “Sử ký” - của Ta-xít*. Cô gái tản cư nom như một người còn sống đang ngủ; nước da nâu che giấu vẻ nhợt nhạt, hàng mi đen phủ trên đôi mắt cô, nàng có một nét cười ranh mãnh và dường như thẹn vì có đông người xúm quanh mình đến thế.

*[Tacite - nhà sử học đất La-ti-um (vùng Trung Ý xưa kia), sống khoảng từ năm 55 tới năm 120]

Người đánh xe nắm chân cô gái và kêu:
- Này! Ít nhất các vị cũng giúp tôi một tay chứ!
- Để đấy tôi! - I-nha-chi-ép bỗng kêu lên.
Anh nhấc thi hài lên dễ như không, thận trọng, và bế ra xe. Một em gái nhỏ đặt một đóa thúy cúc trên ngực cô gái đã tạ thế. Bô-ga-rép giúp người đánh xe nhấc thi hài ông cụ lên. Mắt đỏ ngầu nhìn cắm xuống đất, mặt nhọ lem luốc, mọi người vẫn đứng im lặng. Một bà có tuổi nhìn người con gái đã chết và nói rất nhỏ:
- Cô ấy sung sưómg thật.
Bô-ga-rép tiến về phía căn nhà. Quanh chiếc xe, mọỉ người đều nín thinh. Có một người nói giọng khàn khàn, buồn bã:
- Minsk, Bobruisk, Zhytomyr, Shepetovka đã thất thủ. Làm thế nào chặn được thằng địch bây giờ? Đấy, thử xem nó làm đấy. Chỉ cần một đêm, nó đã đốt được cả thành phố, rồi lại bay đi.
Một chiến sĩ đáp luôn:
- Bay đi là thế nào? Quân ta chẳng quật rơi sáu “thằng” đấy thôi!
Lát sau, Bô-ga-rép ra khỏi nhà cụ luật sư bị giết. Anh đã nhìn lại một lần cuối căn phòng bị phá hủy dở dang, sàn đầy mảnh kính, sách bị hất ra khỏi tủ, đồ đạc bị sức nổ làm xô chuyển. Anh suy nghĩ một lúc, rồi nhấc cây ghi-ta xuống, mang ra để trên xe.

Rô-đim-xép chìa một gà-mèn cho I-nha-chi-ép đứng gần chiếc cam-nhông:
- Ăn đi, I-nha-chi-ép; miến trắng và thịt đây... Hôm qua, tớ có lĩnh phần cho cậu đấy.
- Mình không đói, - I-nha-chi-ép nói. - nhưng mà khát thật. Ruột háo lắm.
Lát sau, họ dời thành phố. Cái lộng lẫy yên ả và trang trọng của buổi sáng hè tươi đẹp trải trên người họ. Ban ngày, họ dừng lại trong rừng. Một con suối nhỏ và trong chảy ngoằn ngoèo giữa các hàng cây, gợn sóng trên những quãng có sỏi. Cái mát vờn vuốt làn da cháy bỏng, con mắt được nghỉ ngơi dưới những cây sồi lớn tỏa bóng dịu.
Bô-ga-rép thấy một đám nấm thông nằm giữa cỏ; chúng mọc đó, gốc trắng to, đỉnh có mũ xám. Anh lại nhớ năm ngoái về quê, vợ anh và anh đã từng hái nấm mê mải biết chừng nào.
Các chiến sĩ đã xuống suối lau rửa.
- Ăn điểm tâm mười lăm phút. - Bô-ga-rép bảo người thượng sĩ.
Anh dạo bước thong thả giữa rừng cây, vừa sung sướng vừa buồn nao nao trước vẻ đẹp vô tư của tạo vật và trước tiếng rì rào của lá cây.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét