Thứ Tư, 6 tháng 9, 2023

Nhân Dân Bất Diệt - Chương 1

Nhân Dân Bất Diệt

Tác giả: Vasily Grossman
Người dịch: Trần Mai Chính
NXB Quân Đội Nhân Dân - Năm 1963

Lời Giới Thiệu

       Năm 1934 trong Tập san Văn nghệ Xô-viết, người ta thấy đăng truyện “Trong thành phố Berdichev” của một cây bút mới lạ: Vasily Grossman. Truyện đó nổi bật ngay trong vô số những tiểu thuyết và truyện ngắn của các nhà văn quen thuộc. Các độc giả, các nhà văn nhất trí chào mừng ở Grossman một tài năng mới có nhiều triển vọng.
Vasily Grossman sinh ngày 12-12-1905 ở thành phố Berdichev, con một ông kỹ sư hóa học và một bà giáo dạy tiếng Pháp. Năm 1914, Grossman học ở Kiev, rồi về Berdichev học ở một trường phổ thông lao động, vừa học vừa lao động và dạy học thêm. Năm 1923, Grossman vào học khoa Hóa của trường đại học Moscow, đến năm 1929 thì tốt nghiệp và làm việc ở vùng Donbass. Ông đã làm việc ở nhiều viện nghiên cứu khoa học tại địa phương và tham gia một công trình nghiên cứu về thuốc nổ và hơi độc. Năm 1932, bị lao nhẹ, ông phải dời Donbass về Moscow, làm việc ở một xí nghiệp chì.
Sáu bảy năm trước chiến tranh, Vasily Grossman đã viết một truyện ngắn và tiểu thuyết, trong đó có hai tập “Hạnh phúc” và “Bốn ngày”. Tháng 7 năm 1936, Grossman bắt tay vào viết cuốn tiểu thuyết “Stepan Kolchugin” gồm 3 tập nhưng vì chiến tranh nổ ra nên không hoàn thành được, và đã xuất bản được hai tập.
Tháng 8 năm 1941, Grossman gia nhập Hổng quân, được cử ra mặt trận trung tâm dưới danh nghĩa phóng viên chiến tranh của báo Sao đỏ (Krasnaya Zvezda), cơ quan ngôn luận của Hồng quân, và đến năm 1943, ông được phong cấp trung tá.
Ông đã tham dự cuộc rút lui gian khổ của Hồng quân ra khỏi Biêlorusia và Ukraina. Chính trong thời kỳ này, ông đã tích lũy được nhiều tài liệu cho cuốn “Nhân dân bất diệt” nổi tiếng, xuất bản năm 1942. Ông đã tham dự chiến dịch Stalingrad từ đầu đến cuối và những phóng sự ông viết về chiến dịch này đã được xuất bản thành tập sau khi in trên báo Sao đỏ. Ông cũng đã được tham dự các chiến dịch giải phóng Kiev, Odessa, Minsk, Warszawa và Berlin. Xuân 1943, ông bắt đầu viết một bộ trường ca, ca ngợi cuộc chiến đấu vĩ đại của quân dân Stalingrad, và đó là công trình lớn nhất sau thời kỳ chiến tranh của ông. Tập đầu “Vì sự nghiệp chính nghĩa” viết trong bảy năm, đã xuất bản năm 1952 trên báo Thế giới mới.
Trong chiến tranh, Grossman đã được tặng thưởng huân chương Cờ đỏ, huân chương Sao đỏ và sáu huy chương. Năm 1955, ông lại được tặng thưởng huân chương Lao động Cờ đỏ.
Cuốn “Nhân dân bất diệt” được in lần đầu tiên năm 1942 trên báo Sao đỏ. Sau đó, nó được xuất bản thành sách, được tái bản nhiều lần trong nước và được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài. Nó là một trong những cuốn tiểu thuyết xuất sắc nói về đề tài chiến tranh của nền văn học xô-viết.

Tháng Tám

Một chiều mùa hạ 1941, trọng pháo quân ta trẩy trên đường đi Gomel. Pháo lớn đến nỗi ngay những chàng lái xe, vốn đã dạn dày kinh nghiệm và đã từng thấy lắm chuyện lạ trên đời mà nay cũng đều phải tò mò ngó nhìn những con thú khổng lồ bằng thép ấy. Bụi chiều như treo lơ lửng trên không, bám đầy mặt mũi áo quần các pháo thủ, làm rậm cả mắt. Chỉ có vài người đi bộ, còn phần lớn đều ngồi trên các cỗ pháo. Một chiến sĩ uống nước đựng trong chiếc mũ sắt, nước chảy ròng ròng trên cằm, hàm răng ướt át bóng lên. Trông cứ như anh đang cười. Nhưng đâu phải. Một nỗi mệt lử hiện rõ trên nét mặt trầm lặng của anh.
- Máy bay! - Một trung úy đi đầu kêu lên, giọng kéo dài.
Hai máy bay đang lao nhanh tới, bên trên khu rừng sồi nhỏ. Ánh mắt lo ngại, bộ đội theo dõi đường bay của chúng. Những câu nói bàn qua tán lại:
- Máy bay ta!
- Không, máy bay Đức!
Và mọi người lại đùa cái câu đùa của con nhà lính trong những trường hợp ấy:
- Máy bay ta đấy, đưa mũ tớ cho tớ che đây, mau lên!
Máy bay cắt ngang qua đường, thế nghĩa là máy bay ta thôi, bởi vì máy bay Đức thông thường hễ cứ trông thấy một đoàn quân của ta là dàn ngay thành đội hình bay song song với đường cái.
Nhiều máy kéo lớn kéo các khẩu pháo qua dãy phố của một đường làng. Giữa những ngôi nhà đất trắng nhỏ, giữa những mảnh vườn thôn dã trồng những bông hoa vàng cánh cong lên, và những hoa mẫu đơn đỏ thắm ánh lên muôn tia lửa dưới nắng chiều, giữa những phụ nữ ngồi ở bậu cửa và những cụ già râu bạc, giữa tiếng bò rống, chó sủa, những khẩu pháo lớn kéo lững thững qua khu làng yên tĩnh vào buổi hoàng hôn như đượm một vẻ gì kỳ dị.
Gần một chiếc cầu nhỏ đang rên lên vì phải chở quá nặng, một chiếc xe hơi đang đỗ, chờ cho các khẩu pháo qua hết. Anh lái, hẳn đã quen chờ nhiều phen như vậy, tủm tỉm nhìn người chiến sĩ đang uống nước đựng ngay trong mũ. Chính trị viên tiểu đoàn, ngồi bên cạnh, luôn luôn ngó về phía trước xem đã thấy đuôi của đoàn pháo binh hay chưa.
- Báo cáo đồng chí Bô-ga-rép, - anh lái nói giọng U-cơ-ren rất nặng. - chúng ta có cơ phải ngủ lại đây mất. Tối đến nơi rồi.
Chính trị viên lắc đầu:
- Thời giờ gấp lắm, tôi phải có mặt ở cơ quan tham mưu.
Anh lái đáp.
- Dù sao đường này cũng chẳng thể đi đêm được, chúng ta sẽ ngủ lại trong rừng thôi.
Chính trị viên cười:
- Cậu lại muốn được uống sữa chứ gì, hả?
- Chà! Sữa, khoai tây rán, gì chứ những thứ ấy thì tôi chẳng chê.
- Có lẽ nên làm thêm cả miếng thịt ngỗng nữa nhỉ! - Chính trị viên nói.
- Chứ sao! - Anh lái reo lên phấn khởi.
Một lát sau, chiếc xe đi vào cầu. Một đám trẻ nhỏ tóc vàng chạy theo: 
- Các chú ơi, các chú ơi, đưa chuột đây, cà chua đây, lê đây!
Và qua cửa kính hạ nửa chừng, các em tung vào trong xe những trái dưa chuột và lê còn xanh.
Bô-ga-rép vẫy tay thân ái. Ngực anh ơn ớn lạnh vì cảm động. Nhìn các chú nông dân nhỏ tới tiễn biệt Hồng quân đang trên đường rút lui, anh không thể không có một cảm giác vừa chua xót vừa êm dịu.
Trước chiến tranh, Xéc-gây A-lê-xan-đơ-rô-vích Bô-ga-rép là giáo sư giảng về chủ nghĩa Mác-Lê-nin trong một trường cao đẳng ở Mát-xcơ-va. Mê say những công trình nghiên cứu khoa học tiến hành từ hai năm về trước, anh cố xoay sở để dành ít thời giờ vào công việc giảng dạy. Sau buổi làm việc về nhà, ngồi xuống bàn ăn, anh rút ở cặp ra một bản thảo, vùi đầu vào đọc luôn. Vợ anh hỏi thức ăn có hợp khẩu vị không, trứng tráng có đủ mặn không? Anh đều trả lời ừ ào. Chị giận, hoặc cũng có khi cười lên, thì anh bảo:
- Li-da, em biết không, hôm nay được đọc một lá thư của Mác, anh rất thú. Người ta vừa tìm thấy nó trong những tài liệu lưu trữ cũ.
Và giờ đây, Xéc-gây A-lê-xan-đơ-rô-vích lại đã trở thành phó chủ nhiệm chính trị mặt trận. Đôi khi, anh hồi tưởng đến những gian phòng tài liệu mát mẻ ở Viện, đến chiếc bàn làm việc bề bộn giấy má, đèn ngọn đèn có chụp, đến tiếng bánh xe của chiếc thang lưu động mà bà thủ thư đẩy từ ngăn sách này sang ngăn sách khác. Đôi khi, một số câu ở cuốn sách đang viết dở lại hiện về trong óc, và anh lại nghĩ tới những vấn đề đã từng làm anh phải bận tâm một cách say mê, căng thẳng.
Chiếc xe hơi phóng trên đường ra mặt trận. Một thứ bụi thẫm, màu gạch đỏ, một thứ bụi vàng vàng, những đám bụi li ti màu xám bay trên các ngả đường. Các khuôn mạt bắt bụi nom như mặt người chết. Gót ủng của hàng chục vạn chiến sĩ, bánh xe cam-nhông và pháo, xích xe tăng và máy kéo, bước chân những con cừu, con lợn, các đàn ngựa nông trường, một đàn bò lớn, những chiếc máy kéo của nông trường, những chiếc xe kêu cót két của đồng bào tản cư, những đôi giày gai của các đội trưởng nông trường và giày các cô gái đang rời bỏ Bobruisk, Mô-dia, Lô-bin, Sê-pê-tốp-ca, Berdichev, tất cả những cái đó đã khua bụi lên. Bụi bay trên Ukraina và Belorussia, bụi bốc cuồn cuộn trên đất nước xô-viêt. Ban đêm, ánh lửa rùng rợn của những làng mạc bị thiêu cháy nhuốm đỏ bầu trời tháng tám tối đen. Tiếng bom nổ uỳnh uỳnh vọng qua những khu rừng sồi, rừng thông âm u, những khu rừng liễu rung động. Những viên đạn sáng rạch những vạch đỏ, xanh trên bức màn nhung trĩu nặng của bầu trời, trong khi đạn phòng không nổ tung thành những chùm sao trắng. Trên tầng cao đen thẳm, những máy bay Đức kiểu “Hai-nơ-ken” mang bom ngư lôi cứ ầm ì một điệu, dường như nói: “Dưới ấy liệu hồn, dưới ấy liệu hồn”. Trong các làng xóm, các ông già, bà lão và trẻ em đi tiễn bộ đội. Các cụ nói với anh em: “Các con ơi, uống sữa đi, ăn sữa đông đi, này con cầm lấy miếng pa-tê... này, cầm lấy dưa chuột mà đi ăn đường...”. Và các bà lão khóc, khóc mãi; giữa hàng nghìn khuôn mặt bộ đội lấm bụi, nghiêm nghi và mệt lử, cạp mắt các bà cử cố tìm xem có mạt con trai mình không. Đây nữa là những bà lão đang chìa những gói quà nhỏ bọc trong khăn tay trắng; các mẹ van nài: “Cầm đi, cầm đi nào, con ơi, lòng mẹ quý tất cả các con như con đẻ vậy”.
Những bầy giặc Đức từ phương Tây kéo đến. Trên xe tăng của chúng có vẽ những hình đầu lâu kèm theo đôi xương chân bắt chéo, những con rồng xanh, đỏ, những mõm sói, đuôi cáo và những đầu hươu có sừng lớn. Trong túi tên lính Đức nào cũng có ảnh chụp Paris chiến bại, Warszawa bị phá hùy, Verdun bị làm nhục, Beograd bị thiêu cháy, ảnh chụp Bruxelles và Amsterdam, Oslo và Narvik, Athens và Đư-ni-a. Trong ví mỗi tên sĩ quan đều có ảnh những thiếu nữ và những người đàn bà Đức tóc xõa xuống trán hoặc uốn thành búi, bận quẩn ngủ kẻ dòng dọc; mỗi sĩ quan đểu đem theo những bùa hộ mệnh, đồ nữ trang bằng vàng, những dây thao, những con búp-bê vải nhỏ, mắt thủy tinh. Trong túi mỗi tên đểu có một cuốn đàm thoại Nga-Đức khổ nhỏ, với những câu gọn lỏn: “Giơ tay lên!”, “Đứng lại!”, “Vũ khí đâu?”, “Hàng đi!”. Mỗi tên lính Đức đều đã học nói bảng tiếng Nga thế nào là “sữa”, “bánh mì”, “trứng”, “gà mái”, và cái tiếng “đưa đây, đưa đây”.
Chúng ở phương Tây lại. Và thế là từ dòng Ô-ca trong vắt, từ dòng Von-ga rộng lớn, từ dòng Ca-ma khắc nghiệt màu vàng và dòng Iếc-tích ngầu bọt, từ những đồng cỏ xứ Ca-dắc-xtan, từ miền Đô-nết và Kéc, A-xtơ-ra-can và Vô-rô-ne-giơ, hàng triệu con người đã đứng lên xông về phía chúng. Hàng triệu cánh tay trung thành đã đào những hố chống tăng, những hào chiến đấu, những hầm hố ẩn nấp. Các cánh rừng ồn ào ngả xuống hàng ngàn thân cây chắn ngang các đường cái và các đương nhỏ yên tĩnh. Dây thép gai quây lấy các xưởng máy. Trên các quảng trường và trên các đường ở các thành phố xanh um tươi đẹp của chúng ta, sắt thép đã biến thành những chướng ngại vật chống xe tăng.
Đôi khi, Bô-ga-rép cũng lấy làm lạ vì sao chỉ trong có mấy tiếng đồng hồ mà minh lại có thể bất thình lình rứt bỏ được cuộc đời xưa kia một cách dễ dàng đến thế. Anh mừng cho mình vẫn giữ được óc linh lợi trong những hoàn cảnh khó khăn, biết hành động mau lẹ và kiên quyết. Nhưng điều khiến anh chú ý hơn cả là ngay tại đây, trong chiến tranh, anh vẫn giữ được tất cả những cái gì làm thành thế giới riêng của anh: binh sĩ tin anh, mến phục anh và biết sức mạnh tinh thần của anh. Tuy nhiên, anh vẫn chưa hài lòng với công việc của mình: anh có cảm tưởng mình chưa thật gần chiến sĩ, cái trục của bộ máy chiến tranh, và anh muốn được rời phòng chính trị để chuyền sang trực tiếp chiến đấu.
Anh thường có dịp hỏi cung tù binh Đức, phần đông là bọn cai và bọn hạ sĩ quan. Và trong những dịp ấy, anh nhận thấy lòng căm thù chủ nghĩa phát-xít đêm ngày thiêu cháy lòng anh đã nhường chỗ cho sự khinh bỉ và ghê tởm. Trong phẩn lớn trường hợp, bọn tù binh xử sự rất hèn. Chúng sẵn sàng khai ngay số hiệu các đơn vị, tình hình vũ khí của chúng; chúng tự nhận là những công nhân có cảm tình với chủ nghĩa cộng sản, xưa kia từng bị cầm tù vì có tư tưởng cách mạng. Chúng nhất trí tuyên bố: “Hít-le ca-pút, ca-pút”. Nhưng rõ ràng bụng chúng lại không nghĩ vậy.
Trong đám tù binh, họa hoằn anh mới thấy có những tên phát-xít đủ can đảm nói lên lòng trung thành của chúng đối với Hít-le, lòng tin của chúng đối với tính ưu việt của nòi giống Nhật-nhĩ-man, có sứ mệnh phải chinh phục mọi dân tộc khác trên thế giới. Bô-ga-rép hỏi chúng rất cặn kẽ; chúng chưa từng đọc gì hết, kể cả đọc những sách tuyên truyền, những tiểu thuyết phát-xít, chúng cũng chưa hề nghe nói đến Gớt hoặc Bét-tô-ven, hoặc đến những chính khách “đàn anh” như Bít-xmác, hoặc về những danh tướng như Mon-cơ, Phơ-rê-đê-rích Đại đế hoặc Sơ-líp-phơn. Chúng chỉ biết có tên của tên bí thư quận ủy Đảng quốc Xã của chúng.
Bô-ga-rép thường nghiên cứu kỹ những nhật lệnh của bộ chỉ huy Đức; anh thấy ở đó toát ra một đầu óc tổ chức rất cao: bọn Đức cướp, đốt, oanh tạc rất có phương pháp. Chúng biết tổ chức việc thu hồi các vỏ đồ hộp trong các nơi đóng quân, biết xây dựng kế hoạch chuyển quân phức tạp cho cả một binh đoàn khổng lổ, một kế hoạch có vô vàn chi tiết mà chúng đều giải quyết được chu đáo, với một sự chính xác toán học. Trong cái tài máy móc phục tùng, cái tài bước đi mà không cần suy nghĩ của chúng, trong cuộc hành binh phi thường và phức tạp của hàng triệu tên lính bị gò vào kỷ luật, anh thấy có một sự sa đọa xa lạ với tinh thần tự do của con người. Đó không phải là nền văn hóa của trí tuệ mà là một thứ văn minh của bản năng, một cái gì có họ hàng với kiểu sống của loài kiến và các loài vật quần cư.
Trong những đống thư từ tài liệu lấy của địch, Bô-ga-rép chỉ lượm được hai bức thư - một bức của một người vợ trẻ viết cho chồng là lính và một bức chưa gửi của một tên lính viết cho gia đình - trong đó mới có được một ý nghĩ không dập khuôn, một thứ tình cảm không bị vấy tinh thẩn phi-lít-xtanh đê tiện, hai bức thư đầy hổ thẹn chua xót trước những tội ác của dân tộc Đức. Một lần, anh hỏi cung một sĩ quan Đức đã có tuổi, thời bình làm giáo sư văn học. Hắn cũng tỏ ra là một con người có suy nghĩ, có một lòng căm thù không thiếu phần chân thật đối với chủ nghĩa Hít-le. Hắn bảo Bô-ga-rép:
- Hít-le không phải là một người sáng tạo ra những giá trị dân tộc mà chỉ là một kẻ cướp đoạt. Nó đã cướp tình yêu lao động và nền văn minh công nghiệp của dân tộc Đức, chẳng khác nào một tên cướp ngu dốt đi cướp một chiếc xe hơi tuyệt đẹp, sản phẩm của nền kỹ thuật tiên tiến.
Bô-ga-rép nghĩ: “Không đời nào, không đời thuở nào chúng lại có thể thắng nổi nhân dân ta. Chúng càng tính toán chi ly chính xác bao nhiêu, càng tiến thoái đúng theo các quy luật số học bao nhiêu, thì chúng lại càng bất lực không thế hiểu nổi vấn đề chủ yếu bấy nhiêu, cái thảm họa chôn vùi chúng sẽ càng ác nghiệt bấy nhiêu. Chúng hăm hở chúi vào những cái không đâu, những chi tiết, nhưng tư duy của chúng chỉ hoạt động trên hai chiều. Trong cuộc chiến tranh do chúng gây ra, chúng mù tịt chẳng hiểu gì đến những quy luật phát triển của lịch sử; chúng đã bị bản năng và bị một thứ chủ nghĩa duy lý sơ lược chi phối, nên không sao hiểu nổi những quy luật đó”.
Chiếc xe hơi bon qua các khu rừng âm u, mát lạnh, qua những chiếc cầu nhỏ bắc ngang những dòng sông ngoằn ngoèo, trong màn sương các thung lũng, trước những mặt hồ phẳng lặng phản chiếu các vì sao sáng rực của bầu trời tháng Tám mênh mông.
Anh lái xe nói nhỏ:
- Đồng chí chính trị viên còn nhớ cậu chiến sĩ ngồi trên khẩu pháo mà uống nước đựng ở mũ chứ? Ấy đấy, tôi nghĩ dễ thường đấy chính là chú em tôi cũng nên. Giờ mới hiểu vì sao tôi lại chú ý đến hắn ta như vậy.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét