Nhân Dân Bất Diệt
Tác giả: Vasily
Grossman
Người dịch: Trần
Mai Chính
NXB Quân Đội Nhân
Dân - Năm 1963
Hãy Học Lấy Cách
Hiểu Mình
Méc-xa-lốp thức
đậy từ lâu trước khi trời sáng. Trên chiếc bàn nhỏ trong gian hầm, một chiếc
gà-mèn nhôm trắng lấp lánh trong ánh bình minh. Một tấm bản đồ trải trên bàn,
hai góc chặn hai quả lựu đạn cho khỏi cuộn lại. Méc-xa-lốp mỉm một nụ cười khỉ
nhìn thấy tấm bản đồ mới dưới ánh ngọn nến mà anh vừa châm. Ngày hôm trước,
tham mưu trưởng đã mang nhiều tấm từ phòng đồ bản của quân đoàn về. Anh ta đã
trịnh trọng tuyên bố: “Thưa đồng chí Méc-xa-lốp, trên tấm bản đồ cũ, chúng ta
đã ghi mãi những đường rút lui của ta. Tôi mang về một bản mới. Ngày mai, chúng
ta sẽ khai mạc nó bằng một mũi chọc thủng phòng tuyến Đức”. Và người ta đã đem
đốt tấm bản đồ cũ, bẩn thỉu nếp gấp đã sờn ấy đi. Giấy phai màu và nhũn như giẻ
rách của nó đã nói lên những trận giao chiến đẫm máu của Hồng quân trên đường
rút lui. Tấm bản đồ cũ ấy, đã được chứng kiến tất cả: rạng ngày 22 tháng Sáu,
Méc-xa-lốp đã nghiên cứu nó khi máy bay oanh tạc của quân Đức, vượt qua biên giới,
xuất hiện trên đầu các trung đoàn pháo binh và bộ binh của ta còn đang chìm
trong giấc ngủ; nó đã trải qua những cơn mưa bão; nó đã bạc màu dưới ánh nắng
những buổi trưa tháng Bảy nóng nực; gió đã thổi nó phần phật ở những cánh đồng
ruộng của xứ U-cơ-ren, và những cây cổ thụ của rừng Bạch Nga đã ngắm nhìn nó
qua đầu các sĩ quan.
- Ờ nhỉ! -
Méc-xa-lốp đưa con mắt chê bai nhìn chiếc gà-mèn trắng đặt trên bàn, nói và
nghĩ bụng: “Nên sơn xanh nó đi thì phải. Để vậy dễ làm lộ bộ đội, nắng chiều
vào thì ánh lên, và ban đêm màu trắng của nó lại nổi bật”.
Méc-xa-lốp lấy
chiếc va-li đặt dưới phản và mở ra. Chiếc va-li toát ra cùng một lúc mùi
phó-mát, mùi xúc-xích hun khói, mùi nước hoa Cô-lô-nhơ và xà-phòng rửa mặt. Mỗi
lần mở nó ra, anh lại như thấy vợ anh đương xếp đồ đạc cho anh trong cái ngày
quân Đức gây hấn.
- Ờ nhỉ! - Anh
nhắc lại và rút ra một chiếc áo sơ-mi, một quần đùi và đôi bít tất sạch. Sau
khi cạo râu xong dưới ánh nến, anh bước ra khỏi hầm.
Chỉ còn khoảng một
giờ nữa thì sáng. Phía đông cũng tối và yên tĩnh như phía tây. Một màn sương
rộng và đều phủ trên mặt đất, trôi giữa lau sậy bên bờ sông không phân biệt
được nền trời tối đen, bình thản, không động tĩnh như mắt một người mù, có mây
phủ hay không.
Méc-xa-lốp cởi
quần áo và thở phì phò đi ra bờ sông, bước trên cát ẩm và lạnh.
- Trời ơi, lạnh
quá! - Anh bước xuống nước và thốt lên.
Anh xát kỹ
xà-phòng lên đầu, cổ, tai, cầm một túm vỏ gai kỳ ngực. Quanh người anh, nước
sông, trong đêm tối đen sẫm, xanh lờ lờ vì bọt xà-phòng tan. Tắm rửa xong, anh
mặc quần áo sạch và trở về hầm. Ngồi trên tấm phản, anh chọn trong gói ra một
chiếc cổ cồn trắng, hồ bột, và gài vào cổ áo va-rơi. Sau đó, anh dốc ra lòng
bàn tay tí nước hoa Cô-lô-nhơ còn lại, xoa lên má, rồi vét luôn một ít phấn ở
đáy một chiếc hộp tròn nhỏ cùng xoa lên. Xong xuôi, anh lau mặt cẩn thận bằng
một chiếc khăn ẩm và khoan thai mặc quần áo. Anh mặc chiếc quần màu xanh nước
biển, cái áo va-rơi và thắt một chiếc thắt lưng mới. Anh đánh kỹ đôi ủng, đầu
tiên bằng bàn chải, rồi muốn cho bóng hơn, bằng một mầu vải len. Sau đó, anh
rửa lại tay một lần nữa, chải mái tóc ướt và ngửng đầu cao, anh vuốt lại áo
va-rơi, kiểm tra khẩu súng lục đút vào bao, lấy một khẩu súng lục nhỏ nữa ở
trong va-li ra bỏ vào túi; anh đề tấm ảnh vợ và con gái vào túi trên áo va-rơi.
- Xong. - Anh nói.
Sau khi xem đồng
hồ, anh đánh thức tham mưu trưởng dậy.
Trời bắt đầu sáng.
Một làn giỏ lạnh thổi sào sạc trong đám lau sậy giăng ra trên mặt sông như một
tấm lưới đương gợn; gió lướt nhanh qua cánh đồng, nhẹ nhàng leo qua các đường
hào, các hố chống tăng, quét một đám bụi trên nóc các hầm và thổi tạt các túp
cỏ gai về phía các hàng rào dây thép.
Mặt trời lên
nhanh, hệt như một người chánh án già lạnh lùng và thản nhiên đương sửa soạn
lên ngồi trên chiếc ghế cao của mình, bên trên mặt đất bao la. Như những tảng
than lớn, những đám mây đen sẫm rực lên một màu lửa đỏ gạch, sẫm màu và láng.
Đó là một buổi sớm mùa thu tang tóc, báo hiệu một ngày chiến đấu gian khổ và
chết chóc cho chán vạn người. Cũng một buổi sớm như thế này, một năm trước,
những người đánh cá về nghỉ an dưỡng đã đi dạo cũng trong những nơi đây. Đối
với họ, trời, đất, nắng và gió tràn ngập một không khí thanh bình, êm ả và một
vẻ đẹp thôn dã. Nhưng mùa hè này, nơi đây nhuốm màu ảm đạm: những giếng nước bị
thả thuốc độc, những đụn rạ sáng ánh trăng, những con đường mòn, làn gió thổi
vi vu trên đường dây điện thoại, những tổ cò bỏ trống, những thửa ruộng dưa hấu
và lúa mạch, tất cả cái thế giới kỳ diệu ấy của đất nước U-cơ-ren đẫm máu và
nước mắt chua cay.
Cuộc tấn công nổ
ra vào năm giờ sáng. Những máy bay cường kích màu đen bay trên đầu bộ binh. Đó
là những máy bay kiểu mới, vừa mới xuất hiện ngoài mặt trận. Chúng bay thấp, và
anh em bộ binh có thể nhìn thấy những quả bom gắn dưới đôi cánh chúng sẵn sàng
trút xuống. Những đám khói bốc lên bên trên chiến tuyến Đức, sấm rền từ đầu đến
cuối chân trời bát ngát. Pháo trung đoàn phát hỏa ngay đúng lúc phi cơ thả
những quả bom đầu tiên. Không trung vừa đây vắng ngắt, chỉ nghe thấy tiếng gió
sớm thổi qua, nay đầy những tiếng bom đạn rít và nổ.
Méc-xa-lốp ngứa
ngáy muốn lao lên tấn công cùng với tiểu đoàn đầu tiên, nhưng anh ghìm mình
lại. Trong những lúc này, lần đầu anh cảm thấy sự có mặt của anh ở cơ quan tham
mưu là quan trọng nhường nào.
“Cái anh chàng ấy nói thế mà có lý”. Méc-xa-lốp
nghĩ thầm, bực bội nhớ lại buổi mạn đàm đầu tiên, sao mà đến nặng nề, cùng với
Bô-ga-rép đêm hôm ấy. Buổi nói chuyện ấy hàng ngày cứ ám ảnh anh. Và giờ đây,
anh nhận ra rằng mình nắm biết bao nhiêu đầu mối trong tay để chỉ đạo trận
đánh. Ngày hôm trước, mỗi cán bộ đã nhận một nhiệm vụ nhất định và hoàn toàn
hiểu mình phải làm gì; những yêu cầu về máy bay ném bom, máy bay cường kích và
tiêm kích phối hợp đã được quy định rất chính xác, và thủ trưởng đơn vị chiến
xa hạng nặng, thiếu tá Xê-rê-ghin, đã cúi đầu nghiên cứu bản đồ trong hơn một
tiếng đồng hồ cùng với Méc-xa-lốp. Tuy nhiên, ngay từ những phút đầu của trận
đánh, quân địch đã hành động rất kiên quyết. Cho nên, ngay từ đầu, sự chỉ đạo
của cả cái hệ thống tổ chức phức tạp và cơ động ấy cần phải tỏ ra nhậy bén, kịp
thời.
Máy bay Xô-viết đã
hai lần lao xuống bắn phá nơi tiếp giáp của phòng tuyến địch; một đám khói đen
phủ lên các chiến hào và hầm hố quân Đức. Nhưng đến khi bộ binh tiến theo sau
các chiến xa hạng nặng, lao lên tấn công, thì quân Đức tung ra một hỏa lực dày
đặc của tất cả các cỡ pháo, súng cối và súng chống xe tăng. Các tiểu đoàn
trường gọi điện thoại báo cáo với Méc-xa-lốp là bộ binh phải nằm bẹp cả, vì hỏa
lực địch mạnh quá, không thể nào tiến được. Méc-xa-lốp đứng dậy, mở nắp túi
súng lục: phải làm cho bộ binh vùng dậy và tiến lên bằng được. Đối với một
người không biết sợ là gì, thì còn gì dễ hơn là hô: “Anh em, theo tôi, tiến!”
và xông vào khói lửa. Anh cảm thấy trong chốc lát một niềm thất vọng chua cay:
Trận đánh hôm nay chuần bị chu đáo là thế chẳng lẽ lại thất bại hay sao? Lần
đầu tiên, anh đã dự kiến được những tình huống của cuộc chiên đấu sẽ diễn ra và
có kế hoạch đối phó tỉ mỉ như một nhà bác học, như vậy chẳng lẽ lại vô ích hay
sao?
- Không, - anh gắt
gỏng nói với đồng chí tham mưu trưởng. - nghệ thuật chiến tranh đã và sẽ là:
không sợ cả kẻ địch lẫn thần chết! Phải cho bộ binh vùng dậy.
Tuy vậy, anh không
rời khỏi cơ quan tham mưu. Tiếng chuông điện thoại lại réo lên, và liền sau đó
là tiếng chuông, của một máy khác nữa.
- Máy bay oanh tạc
ít kết quả vì quân địch nấp trong hầm hố; hỏa lực của chúng vẫn còn nguyên vẹn.
- Cô-sê-cốp nói. - Đại bác và súng cối của chúng vẫn bắn liên tục.
Xê-rê-ghin báo
cáo:
- Xe tăng vấp phải
một hỏa lực pháo dày đặc, bộ binh đã nằm phục xuống cả, chiến xa thì vẫn tiến.
Hai chiếc đã bị đứt xích. Tôi cho rằng tiếp tục tiến càng không có lợi.
Lại tiếng chuông
điện thoại nữa: đồng chí sĩ quan liên lạc của không quân hỏi về hiệu quả của
các trận ném bom, và hỏi có nên thay đổi kế hoạch oanh tạc không, vì các phi
công báo cáo là bộ binh ta không tiến được mà pháo binh địch vẫn hoạt động như
thường. Lúc đó, một trung tá do bộ tư lệnh pháo binh phái tới, đến trình diện ở
đài chỉ huy; ông ta có vấn đề quan trọng cần hỏi và yêu cầu phải có biện pháp giải
quyết tức khắc.
Méc-xa-lốp châm
một điếu thuốc. Lông mày cau lại, anh cúi xuống bên bàn.
- Chúng ta có cho
không quân tiếp tục oanh tạc vào bộ binh địch nữa hay không? - Tham mưu trưởng
hỏi.
- Không. -
Méc-xa-lốp đáp.
Đang suy nghĩ
lung, anh chẳng để ý thấy chính ủy Sê-rê-nít-sen-cô vừa bước vào. Tham mưu trưởng
cũng không trông thấy ông ta nốt. Chính ủy đã bước vào hầm, qua trước mặt người
lính gác đang đứng nghiêm. Ông ta ngồi vào một góc tối, gần chiếc giường ván mà
anh em liên lạc thường ngồi, Vừa ngậm tẩu, ông vừa trầm tư nghe cuộc trao đổi
qua máy điện thoại, nhận xét Méc-xa-lốp và tham mưu trưởng.
Sê-rê-nít-sen-cô
đã đi tới chỗ Méc-xa-lốp; không qua đài chỉ huy của Xa-ma-rin. Ông muốn có mặt
ở đây ngay từ khi bắt đầu công kích và, biết rằng Xa-ma-rin thế nào cũng ra tận
nơi để tham dự trận chiến đấu quan trọng này, ông đã quyết định gặp ông ta ở vị
trí tiền tiêu.
Méc-xa-lốp nghiên
cứu bản đồ. Đẩu óc anh căng thẳng đến tột độ bao quát lấy cả toàn bộ trận chiến
đấu mà trong đó các đợt tấn công mãnh liệt cứ lần lượt hình thành đột ngột, rồi
yếu dần và tắt đi giống như những nút điện thế trên một từ trường đặt trong một
dòng điện xoay chiều, anh khám phá ra mấu chốt của hệ thống phòng ngự địch mà
mũi nhọn của nó đã bẻ gẫy được những đợt tấn công lúc mạnh lúc yếu của quân ta.
Anh thấy có những yếu tố chồng lên nhau chỉ là một cách máy móc và không hề
giao thoa như những chấn động có cùng bước sóng. Trong óc anh tái hiện lên một
cách sinh động những yếu tố nhiều vô kể của trận đánh phức tạp ấy. Anh căn cứ
vào tiếng rú của máy bay và của chiến xa hạng nặng mà đánh giá sinh lực và sức
bền bỉ; anh tính toán sức phá hoại của hỏa lực các cỡ pháo nặng nhẹ; anh phán
đoán khả năng của phân đội Bô-ga-rép ở phía sau lưng địch. Đột nhiên, một ánh
sáng chói lọi lóe lên bên trong anh. Anh đã tìm ra một câu giải đáp đơn giản lạ
lùng và chính xác một cách toán học. Một nhà toán học hay vật lý học, trong
giai đoạn đầu của công cuộc nghiên cứu tìm tòi của minh, cảm thấy bị chìm ngập
trong tính chất phức tạp và sức nặng đối lập của các yếu tố ông ta đã khám phá
ra trong một hiện tượng bề ngoài xem như đơn giản và tầm thường, là như vậy đó.
Một cách vất vả, nhà bác học tập hợp lại, cố chỉnh lý xếp sắp các hiện tượng cứ
rời rạc, mâu thuẫn lại với nhau, lọt đi một cách bướng bỉnh, mau lẹ, co giãn.
Và đề bù cho công việc phân tích vất vả ấy, sự khẩn trương tìm tòi một đáp số,
một câu giải đáp đơn giản và chói lọi nảy bật ra; nó hủy đi mọi cái rắc rối và
cho ta đáp số độc nhất đúng đắn, tuyệt vời trong sự đơn giản của nó. Quá trình
đó gọi là sáng tạo. Méc-xa- lốp cũng cảm thấy một cái gì tương tự như thế trong
khi tìm ra đáp số cho bài toán tinh vi mà anh phải giải quyết. Có lẽ chưa bao
giờ anh cảm thấy xúc động như vậy, cũng như vui sướng như vậy. Anh trình bày kế
hoạch của mình cho đồng chí tham mưu trưởng.
- Nhưng điểm này
mâu thuẫn với...
Và người tham mưu
trưởng nêu ra tất cả những gì theo anh ta là trái ngược với đề án của
Méc-xa-lốp.
- Mặc! -
Méc-xa-lốp nói. - Đồng chí hãy nhớ lại lời của Ba-bát-gia-nhi-an đã nói: có một
nguyên tắc, và nguyên tắc ấy là chiến thắng.
Anh nghĩ một lát.
Thực vậy, hạ một quyết tâm đầy trách nhiệm nặng nề, mà chỉ được dựa vào một tấm
bản đồ tham mưu, có khi đòi hỏi phải có rất nhiều nghị lực và dũng cảm hơn là
giành được một chiến công trên bãi chiến trường.
Và Méc-xa-lốp đã
tìm được trong mình sự dũng cảm ấy, sự dũng cảm của một quyết định có trách
nhiệm. Anh biết rằng một người sĩ quan Nga nào đó, bị đặt trong một hoàn cảnh
gay go, sẽ thoát ra khỏi lúng túng và bào chữa cho mình bằng cách liều mình.
Và, một khi trận đánh kết thúc, người ta yêu cầu anh giải thích thì anh ta trả
lời: “Khi thấy tình hình không ổn, tôi đã tiến lên hàng đầu. Còn biết làm thế
nào hơn được nữa?”. Nhưng Méc-xa-lốp biết rằng sự hy sinh tính mạng ấy có nghĩa
là trốn tránh trách nhiệm trước thắng bại của chiến đấu.
Tình hình là như
thế này. Những trận oanh tạc của không quân không tiêu hao được bộ binh Đức ẩn
nấp trong công sự. Pháo và súng cối địch cản trở chiến xa ta vận động, cắt đứt
chúng ra khỏi bộ binh. Những mũi xung kích của bộ binh thọc lên, bị hỏa lực
pháo và súng cối tiêu hao và đè bẹp, đương phơi mình ra trước hỏa lực tiểu liên
và súng máy. Pháo binh của ta, nhiều hơn pháo binh Đức gấp hai lần nhưng mật độ
hỏa lực vẫn bị giảm đi vì quá phân tán trên suốt dải tiếp giáp của phòng tuyến
Đức. Méc-xa-lốp nhận thấy rằng máy bay, chiến xa, pháo binh và bộ binh Nga, bị
chia đều để công kích tất cả các mục tiêu trên phòng tuyến địch, chỉ phát huy
được một phần tư hoặc một phần năm sức mạnh. Thế mà, điều quan trọng là phải
làm cho pháo binh địch câm họng, chìa khóa thắng lợi cho đợt đầu của trận chiến
đấu chính là đó.
Và, không cất cao
giọng, Méc-xa-lốp ra chỉ thị cho pháo binh trung đoàn và pháo binh phối thuộc
của sư đoàn, cho tiểu đoàn chiến xa hạng nặng, cho đội máy bay cường kích, máy
bay oanh tạc và máy bay tiêm kích đương ném bom và bắn phá quân Đức theo quy
định của trung đoàn. Anh ra lệnh cho bộ đội rút lui về bồ trí ở các hầm hố đã
được thử thách, để từ đó tấn công vào chủ lực của pháo binh và súng cối địch.
Méc-xa-lốp biết rằng quân Đức, tin vào sức mạnh của đại bác chúng, chỉ bố trí ờ
những nơi ấy một lực lưọng bộ binh mỏng manh ở tuyến ngoài. Anh biết rằng với
sức mạnh hỏa lực anh có, anh sẽ đè bẹp pháo binh Đức một cách không khó khăn
gì. Anh chọn địa đoạn rắn nhất của phòng tuyến Đức làm mục tiêu tấn công, vì
anh hiểu và linh cảm thấy rằng có khả năng biến nó đột nhiên trở thành điểm yếu
nhất, dễ phá vỡ nhất.
Tham mưu trưởng
rất đỗi ngạc nhiên khi nghe lệnh của Méc-xa-lốp. Bộ binh mà lại đem tập trung
đối diện với pháo binh và súng cối! Nó sẽ bỏ những khu vực đã phải mất bao
nhiêu sức lực và máu mới chiếm được!
- Đồng chí Méc-xa-lốp, bộ binh có cần thiết
phải rút không?
- Tên tôi là
Méc-xa-lốp đã ba mươi nhăm năm nay.
- Đồng chí
Méc-xa-lốp, chúng ta đã tiến được tám trăm mét, tại sao chúng ta lại không
khuếch trương thắng lợi ấy nữa?
- Lệnh đã hạ, và
tôi không có ý định thay đổi.
- Thế mà đồng chí
thừa biết rằng đồng chí Xa-ma-rin nghiêm khắc lên án bất cứ lệnh rút nào. -Tham
mưu trưởng hạ giọng nói. - Và bây giờ, mới mở đầu tấn công, và nhất là sau cuộc
rút lui thảm hại mới đây của chúng ta, đồng chí lại định đánh liều tất cả, dựa
vào mỗi tấm bản đồ.
- Phải, dựa vào tấm
bản đồ này, - Méc-xa-lốp chỉ vào bản đổ, nói với vẻ bực bội. - vả lại, thôi
không nói chuyện ấy nữa, đồng chí Xê-men Ghéc-mô-ghê-nô-vích, những điều ấy tôi
rõ hết, tôi không phải là một đứa trẻ con và lúc này không có bụng dạ đâu mà
đùa.
Có tiếng người nói
ở phía cửa hầm. Méc-xa-lốp và người tham mưu trưởng đứng vội dậy. Đó là tướng
Xa-ma-rin.
Ông nhin bộ mặt lo
âu của người tham mưu trưởng, gật đầu chào và hỏi:
- Thế nào, đồng
chí đã chọc thủng được phòng tuyến địch chưa?
- Thưa đồng chí
trung tướng, chưa, - Méc-xa-lốp trả lời. - nhưng sắp chọc được.
- Các tiểu đoàn
của đồng chí ở đâu? - Xa-ma-rin hỏi, giọng nhát gừng.
Trong khi đi tới
ban tham mưu trung đoàn, ông đã bắt gặp chiến xa và bộ binh đương rút, và đã
hỏi người trung úy xem ai ra lệnh rút.
- Lệnh của thủ trưởng trung đoàn Méc-xa-lốp, anh hùng Liên-xô. - Người trung úy trả lời, dằn
từng tiếng một.
Câu trả lời ấy đã
làm cho Xa-ma-rin điên tiết.
- Các tiểu đoàn
của đồng chí đâu, và tại sao lại rút? - Xa-ma-rin hỏi với một giọng thản nhiên
quá nghe phát ghê.
- Thưa trung
tướng, cuộc rút lui tiến hành là theo kế hoạch đã định, do tôi ra lệnh. -
Méc-xa-lốp trả lời
Và bỗng anh thấy
Xa-ma-rin đứng nghiêm lại khi có một người từ một góc tối của căn hầm, tiến về
phía ông.
Đến lượt
Méc-xa-lốp đứng cứng người lại theo tư thế quân sự. Ủy viên Hội đồng quân sự
mặt trận đang đứng trước mặt anh.
- Chào đồng chí
Xa-ma-rin, chào các đồng chí. - Sê-rê-nít-sen-cô nói. - Tôi đã vào hầm của các
đồng chí mà không chào hỏi gì cả. May mà đồng chí gác đã để cho tôi vào. Tôi đã
ngồi trên tấm phản kia để xem các đồng chí quán triệt công việc chiến tranh như
thế nào.
“Mình vẫn cứ là
đúng, - Méc-xa-lốp nghĩ thầm. - và mình sẽ chứng minh điều đó”.
Sê-rê-nít-sen-cô
lần lượt nhìn Xa-ma-rin, đồng chí tham mưu trưởng, và nói:
- Đồng chí
Méc-xa-lốp!
- Thưa đồng chí
chính ủy, có tôi...
Chính ủy nhìn
thẳng vào mặt anh một lát. Và trong cái nhìn bình thản, hơi buồn ấy, Méc-xa-lốp
đột nhiên tươi tỉnh và như cất được một gánh nặng, nhận thấy chính ủy đã hiểu
rõ rằng anh, trên cương vị trung đoàn trưởng, đương trải qua một giờ phút lớn
lao như thế nào, trang trọng như thế nào trong cuộc đời cán bộ quân sự của anh.
Chính ủy từ tốn
nói:
- Đồng chí
Méc-xa-lốp, tôi hoan nghênh đồng chí. Đồng chí chỉ huy trận đánh rất mẫu mực,
và tôi tin chắc vào thẳng lợi của đồng chí ngày hôm nay.
Ông liền nhìn
Xa-ma-rin, và nói tiếp:
- Thiếu tá
Méc-xa-lốp, thay mặt Bộ tư lệnh, xin cảm ơn đồng chí.
- Vì Liên bang
xô-viết phục vụ! - Trung đoàn trưởng trả lời.
- Nào đồng chí
Xa-ma-rin, ta đi thôi. -Sê-rê-nít-sen-cô đưa tay khoác lên vai trung tướng, và
nói. - Tôi có chuyện phải nói với đồng chí. Quả thật, hình như các đồng chí thủ
trưởng đã hẹn nhau đến đây cả thì phải. Thôi, để cho người ta làm việc chứ. Cứ
bắt họ phải đứng nghiêm, trong khi đương bận tối mắt tối mũi. Để cho họ làm
việc thôi.
Khi bước ra khỏi
hầm, ông đến gần Méc-xa-lốp, hỏi :
- Thế còn đồng chí
chính ủy của đồng chí thì ra sao rồi, đồng chí thiếu tá?
Rồi ông mỉm cười
nói tiếp rất nhỏ:
- Các đồng chí đã
có chuyện va chạm với nhau mấy lần? Tôi nói có đúng không? Cứ nhận đi.
Và Méc-xa-lốp có
cảm giác như Sê-rê-nít-sen-cô đã có mặt trong cuộc tranh luận đêm hôm ấy, khi
ngồi uống nước chè; rằng ông ta đã thừa hiểu cái sợi dây bí mật nối liền buổi
đêm ấy với cái ngày hôm nay.
------------
Còn
tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét