Nhân Dân Bất Diệt
Tác giả: Vasily
Grossman
Người dịch: Trần
Mai Chính
NXB Quân Đội Nhân
Dân - Năm 1963
Thành Phố Trong
Buổi Hoàng Hôn
Trước chiến tranh,
Xê-mi-ôn I-nha-chi-ép, chiến sĩ thuộc đại đội bộ binh I, một gã trai vóc người
chắc nịch, sống ở một nông trang tập thể vùng Tula. Một đêm anh ta đang ngủ
trong nhà chứa rơm thì người ta đưa lệnh động viên tới. Cũng đúng giờ ấy, một
tin điện thoại báo cho Bô-ga-rép biết ngày hôm sau anh phải có mặt ở Tổng cục
Chính trị Hồng quân. I-nha-chi-ép thường ưa nhắc lại những kỷ niệm ấy với chúng
bạn:
- Chà, thật là
tiễn ra tiễn! Buổi tối, ba anh trai tớ làm việc ở nhà máy chế tạo súng máy đều
cùng với vợ đến tiễn tớ, cả tay tổ trưởng thợ máy ở trạm máy kéo nữa. Chúng tớ
đã uống một chầu rượu ra trò và hát.
Giờ đây nhớ lại,
anh ta thấy cuộc tiễn đưa ấy đến là vui vẻ, linh đình, nhưng thật ra khi từ
biệt nhau, phải nhìn mẹ anh khóc lóc và cha già của anh cố làm ra vẻ bình tĩnh
thì đâu có phải là chuyện dễ chịu.
- Xê-mi-ôn, nhìn
đây, - ông cụ nói. - đây là hai chiếc huân chương Thánh Ghê-oóc-ghi bằng bạc. Trước,
tao còn hai chiếc khác bằng vàng nữa kia, tao đã đem cúng vào kỳ mua công trái “vì
tự do” rồi. Mày hãy nhìn tao đi, nhìn bố mày đi; lão công binh già này đã từng
giật đổ một chiếc cầu với cả một trung đoàn Đức ở trên ấy đấy.
Tuy ông cụ cố làm
ra vẻ bình tĩnh nhưng trong thâm tâm ông, ông vẫn muốn khóc cùng với đám phụ nữ
trong nhà. Trong năm người con trai, Xê-mi-ôn là đứa vui tính, dễ thương, được
ông yêu nhất.
Xê-mi-ôn muốn lấy
Ma-ru-xi-a Pê-xô-si-na, con gái ông chủ tịch nông trang tập thể. Cô ta theo học
lớp kế toán ở thành phố Ô-đô-i-ép, tới ngày mồng Một tháng Bảy cô ta sẽ trở về
nhà. Chị em bạn và nhất là mẹ cô đã nhiều lần bảo cô dè chừng. Họ thấy Xê-mi-ôn
I-nha-chi-ép là một người đàn ông ít đứng đắn và quá vui. Gã mê hát, nhảy,
thích rượu, thích chơi đùa. Người ta bảo gã không thể nào yêu chân thành và
chung thủy được. Ma-ru-xi-a bèn trả lời:
- Mặc kệ, các bạn
ạ; tôi đã yêu anh ta đến nỗi hễ cứ nom thấy anh là chân tay tôi đã bủn rủn rồi.
Anh ta đã làm cho tôi mê như điếu đổ.
Chiến tranh vừa
bùng nổ, Ma-ru-xi-a xin phép trên cho nghỉ hai ngày. Cô đi ba mươi cây số chỉ
trong một đêm để về nhìn lại người chồng chưa cưới. Tảng sáng về tới nhà, cô
được biết những người có lệnh động viên đã được chuyển tới ga xe lửa từ hôm
trước. Thế là, không nghỉ gì hết, cô lại đi mười tám cây số tới nhà ga, nơi bộ
đội tập hợp. Đến đây, cô được biết đoàn tàu đã chạy đi hướng nào không rõ. Một
trung úy bảo cô: “Bí mật quân sự”. Cô bỗng thấy bủn rủn, chỉ còn đủ sức bước
tới nhà một bà người quen làm việc ở phòng ghi nhận hành lý. Buổi chiều, bố
Ma-ru-xi-a phải tới tìm cô để đưa cô về nhà.
Chẳng mấy chốc,
I-nha-chi-ép đã được anh em trong đại đội chú ý. Mọi người đều biết anh chàng
tráng kiện, vui tính, không biết mệt ấy. Đó là một tay lao động cừ, biết sử dụng thành thạo bất cứ một dụng cụ nào. Anh làm việc dễ dàng và mải mê đến nỗi
chỉ nhìn anh cũng đã cảm thấy muốn nắm lấy chiếc rìu, chiếc cưa, chiếc xẻng để
làm theo anh rồi. Giọng anh hát hay và anh biết nhiều bài hát cổ học được của
mụ Bô-gát-si-kha. Mụ là một người rất ít giao du, cấm cửa không cho ai lạ vào
nhà. Có hồi mụ hãm mình trong im lặng như vậy tới suốt một tháng. Đến nỗi đêm
đến mụ mới dám ra giếng lấy nước để khỏi phải trả lời những tràng câu hỏi của
những bà người làng. Bà con đều lấy làm lạ không hiểu vì sao chỉ riêng có mình
I-nha-chi-ép là được mụ đối xử khác với mọi người, mụ kể chuyện cho anh nghe,
dạy cho anh hát.
Một thời gian,
I-nha-chi-ép đã từng làm việc với mấy người anh ở xí nghiệp Tu-la nổi tiếng,
nhưng chỉ được ít lâu anh lại bỏ việc trở về nông thôn. “Tôi không thể không
sống ở ngoài trời được. - Anh nói - Được bước trên đất của chúng ta đối với tôi
là một nhu cầu, chẳng khác gì nhu cầu ăn bánh uống nước. Thế mà đất ở trên
Tu-la lại bị lát đá kín mất cả”.
Anh thường đi dạo
qua cánh đồng, xuyên rừng, dọc theo bờ sông. Anh đem theo một chiếc cần câu
hoặc một khẩu súng săn cà khổ, nhưng chỉ là để cho có hình thức, cho mọi người
khỏi chế. Thường thường anh đi nhanh. Đôi lúc anh dừng chân nghe chim hót, lắc
lắc đầu, rồi thở dài, xong lại đi. Hoặc giả anh trèo lên một ngọn đồi cao sừng
sững bên sông, phủ kín cây dẻ, rồi cất tiếng hát. Và mắt anh cứ long lanh như
say rượu. Giá ở làng thì anh đã bị coi là một tay lập dị, và nếu anh không có
sức khỏe và cái tài khéo léo nhất mực khiến chung quanh đều phải mến phục thì
hẳn là mọi người sẽ chế nhạo anh, khi họ nhìn thấy anh cứ khoác cây súng trên
vai mà đi chơi như vậy. Anh có thể lập mẹo trêu người khác để mua vui, có thể
uống rượu thùng bất chi thình mà vẫn không say, có thể kể một sự tích thú vị
hoặc một câu chuyện nhỏ pha chút ít ranh ma: anh chưa bao giờ tỏ ra bủn xỉn vể
khoản thuốc mời người nào ngồi chuyện trò cùng anh. Vừa về đại đội, anh đã thu
hút ngay được cảm tình của mọi người và Moóc-vi-nốp, tay thượng sĩ lầm lì ít
nói, đã phải bảo anh, vừa ra vẻ mến phục vừa thoáng chút chê trách:
- Ồ, mà quả là cậu có một tâm hồn rất là Nga,
I-nha-chi-ép ạ.
Anh thân nhất với
hai người đổng đội: Xê-đốp, thợ nguội ở Mát-xcơ-va, và Rô-đim-xép, xã viên nông
trang tập thể vùng Ri-a-dan, thuộc thế hệ 1905, người mập, mặt rám nắng.
Rô-đim-xép đã để vợ và bốn con ở nhà.
Thời gian gần đây,
đơn vị của họ làm nhiệm vụ dự bị, đóng tại ngoại thành. Một số anh em bộ đội đã
vào trú trong những căn nhà không người ở. Thành phố hiện có nhiều loại nhà ấy
lắm. Trong số 14 vạn dân, hơn mười vạn đã tản cư vào sâu trong hậu phương.
Người ta đã di chuyển nhà máy nông cụ, các xưởng sửa chữa toa tàu và một nhà
máy diêm lớn. Một không khí ảm đạm bao trùm lên tất cả: những tòa nhà bỗng
nhiên im ắng như tờ trong các xí nghiệp, những ống khói không còn nhả khói,
những đường phố vắng ngắt trong khu công nhân, những quán hàng màu xanh da trời
nơi vừa bán kem mới đây. Anh lính giữ trật tự giao thông, tay nắm bó cờ ngũ
sắc, thường vào một trong những ngôi quán này để trú mưa. Qua cửa sổ các căn
nhà bị bỏ trống, còn thấy những chậu trồng những nhánh hoa đã phai màu: hoa
sung lá nặng chĩu, hoa tử dương và hoa giáp trúc đào đã vàng úa. Những chiếc
cam-nhông quân sự ẩn dưới bóng cây quen thuộc viền lấy đường phố; những xe bọc
sắt sơn xanh vàng nham nhở chạy qua các vườn trẻ vắng tanh còn điểm những đống
cát vàng nhạt; tiếng còi xe nghe giống tiếng chim săn mồi the thé. Vùng ngoại
thành đã bị thiệt hại nặng vì các trận bom. Người nào đến gần thành phố cũng
đều thấy những bức tường của một nhà kho bị thiêu hủy, còn mang một hàng chữ
lớn đen những khói: “dễ cháy”.
Các hiệu ăn, một
nhà máy nước ngọt nhỏ, các hàng thợ cạo vẫn tiếp tục hoạt động trong thành phố.
Sau cơn mưa, nước long lanh trên lá cây, nước óng ánh trong các vũng dưới
đường, khí trời dìu dịu, trong trẻo. Ngươi ta có cảm tưởng, một cảm tưởng chỉ
thoáng qua rồi lại mất, rằng không phải là đất nước đang gặp cơn tai họa khủng
khiếp, không phải là kẻ địch đang chỉ còn cách nhà người ta ở có năm mươi cây
số. Các cô gái và các chiến sĩ Hồng quân nhìn nhau; các ông già ngồi rên trên
ghế ở các khoảnh vườn nhỏ; trẻ em thì chơi với cát phòng bom cháy.
Được ở cái thành
phố xanh um và gần như bỏ trống này, I-nha-chi-ép rất thú. Anh đâu có cảm thấy
nỗi buồn ủ rũ của những người dân còn ở lại. Anh không để ý thấy những đôi mắt
ảo não, lo lắng hướng vào khuôn mặt của mỗi quân nhân đi ngang qua. Anh không
nghe thấy các bà già khóc thút thít; anh không biết các ông cụ ban đêm bị mất
ngủ. Đứng bên cửa sổ, các cụ dõi con mắt ướt át nhìn vào đêm tối. Môi các cụ
nhợt nhạt lẩm nhẩm cầu nguyện. Các cụ lại bên các con gái của mình đang khóc và
rú lên trong giấc ngủ thảng thốt, lại bên các đứa cháu đang quẫy cựa, kêu rên.
Rồi các cụ lại quay ra cửa số, lo lắng muốn biết những chiếc cam-nhông của ta
biến đi trong đêm về hướng nào.
10 giờ đêm, đơn vị
được lệnh báo động. Các chiến sĩ lái xe mở máy kêu ì ì. Nhân dân kéo ra đứng ở
các ngưỡng cửa, im lặng nhìn bộ đội chuẩn bị lên đường. Một bà cụ người
Do-thái, nom giống một con bé gầy guộc, đầu và vai phủ một tấm khăn len dày,
hỏi các chiến sĩ:
- Các đồng chí ơi,
chúng tôi nên ở lại hay là cũng nên đi nốt?
- Mẹ muốn đi đâu
kia mẹ? - Anh chàng Gia-vê-lép vui tính hỏi. - Với cái tuổi chín mươi của mẹ,
mẹ chẳng cuốc bộ được bao xa đâu!
Bà cụ ngán ngẩm
gật đầu. Cụ đứng gần một chiếc cam-nhông sáng lên trong một ánh đèn pha xanh.
Cụ lấy một đầu tấm khăn san chùi cho cái chắn bùn của chiếc xe, nhè nhẹ như thể
sờ vào bát đĩa thờ vậy. I-nha-chi-ép để ý thấy cử chỉ của bà cụ. Và đột nhiên
lòng anh chứa chan thương hại. Như đoán được niềm trắc ẩn ấy, bà cụ òa khóc.
- Làm thế nào bây
giờ, làm thế nào bây giờ? Các đồng chí đi đấy có phải không?
Tiếng súng nổ át
tiếng kêu yếu ớt của cụ, và cụ khẽ nói tiếp, không ai nghe thấy cả:
- Chồng tôi bị bại
liệt; ba con trai tôi ở bộ đội; hôm qua, lại đến đứa út đi gia nhập dân quân.
Các con dâu tôi tản cư theo nhà máy. Tôi biết làm gì bây giờ, các đồng chí?
Trong sân, một
trung úy gọi I-nha-chi-ép:
- I-nha-chi-ép, ba
người sẽ ở lại tới sáng để đi theo chính ủy. Trong số đó có đồng chí.
- Báo. cáo trung
úy, rõ. - I-nha-chi-ép vui vẻ trả lời.
Anh không mong gì
hơn là được ở lại thành phố đêm nay. Chả là anh rất ưa cô gái tản cư Vê-ra.
Nàng làm công vụ ở trụ sở ban biên tập tờ báo địa phương. Quá 11 giờ đêm, nàng
từ nơi làm việc trở về nhà, những khi ấy I-nha-chi-ép thường đợi nàng ở trong
sân. Anh thích ngồi trên một chiếc ghế, bên cô gái dong dỏng, có đôi mắt đen và
tấm thân đầy đặn ấy, nghe nàng nói tiếng nói êm dịu miền U-cơ-ren. Nàng không
ngớt thở dài mà kể cho anh nghe nàng đã sống ở Pơ-rốt-xcu-rốp trước chiến tranh
như thế nào, nàng đã trốn bọn Đức ra đi giữa ban đêm như thế nào, chỉ mang theo
có một chiếc áo dài và một túi nhỏ bánh bít-cốt. Nàng để cha mẹ già và em trai
nhỏ ở lại nhà; khi nàng qua cầu sông Xô với một đoàn người tản cư, cầu đã bị
ném bom dữ dội. Nàng chỉ nói chuyện chiến tranh, chuyện những người bị giết
trên các nẻo đường, những trẻ em bị chết, những đám cháy ở các xóm làng. Một
nỗi buồn vô hạn đọng trong đôi mắt đen của nàng. Khi I-nha-chi-ép ôm lấy người
nàng, nàng gạt tay anh chàng ra mà nói:
- Sao lại làm thế?
Ngày mai anh đi một ngả, em đi một ngả, anh sẽ không nghĩ tới em nữa, còn em
rồi cũng sẽ quên anh thôi,
- Thế thì có sao?
- Gã nói. - Rất có thể anh sẽ không quên em đâu.
- Có chứ, anh sẽ
quên em. Chao ôi! Giá như anh biết em từ trước, anh sẽ được nghe em hát biết
bao nhiêu là bài hát hay. Giờ thì bụng dạ em lại để cả vào chuyện khác mất rồi.
Và nàng tiếp tục
gạt tay I-nha-chi~ép. Tuy nhiên, anh chàng vẫn thích ngồi gần nàng, anh hy vọng
cuối cùng nàng sẽ đổi ý và sẽ không khước từ mối tình của anh. Hồi này, anh chỉ
còn thỉnh thoảng mới nghĩ tới Ma-ru-xi-a Pê-xô-si-na, và anh thấy hình như một
khi anh đã đi chiến đấu mà lại đâm mê một cô gái đẹp nào đó thì cũng chẳng phải
là tội to gì lắm. Khi Vê-ra cất tiếng nói, anh chỉ nghe lơ đãng, anh bị hút vào
đôi mày đen màu huyền và đôi mắt xinh của cô gái, anh hít lấy mùi hương của
thân nàng.
Cam-nhông chuyển
bánh từng chiếc một, hướng về đường đi Séc-ni-gốp. Chúng chạy thành một hàng
dài trước chiếc ghế I-nha-chi-ép đang ngồi, và bốn bề đột nhiên tích mịch, Đêm
tối đen, không một vật động đậy. Chỉ có những chòm râu trắng của các ông già và
những mái tóc bạc của các bà lão in thành những vệt sáng trên các khung cửa sổ.
Trời sao toát lên
một vẻ bình yên bất tận. Chốc lát, lại một vì sao đổi ngôi lóe sáng, và những
con người của chiến trận có cảm giác nó đã bị một máy bay chiến đấu nào bắn
rơi.
Cuối cùng, Vê-ra
đã đến. I-nha-chi-ép cố khuyên nàng ngồi xuống ghế, cạnh minh.
- Em mệt lắm. -
Nàng nói.
- Thì em cứ ngồi
lại một chút đã nào. - Anh chàng van. -
Mai anh đi.
Nàng ngồi. Qua
bóng đêm, anh ngắm kỹ khuôn mặt nàng. Nàng đẹp và đáng thèm ước đến nỗi anh
không thể nào không cất lên một tiếng than thở. Nàng đẹp, sự thật quả là như
thế.
------------
Còn
tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét