Phi Vụ Cuối
(Nguyên tác: Hit and Run)
Tác giả: Lawrence Block
Người dịch: Hồng Thanh
Nhà Xuất Bản Văn Học - 2011
Chương 20
Mười ngày sau đó, hắn lại lang thang trong
rạp chiếu phim với gói bỏng ngô trong tay, hắn đã nhấm nháp sạch gói bỏng trong
suốt bộ phim về một đội thiếu niên đam mê vi tính đã có một cú lừa ngoạn mục cả
một băng nhóm Mafia sừng sỏ để cuỗm đi vài triệu đô la; người hùng của chúng
ta, một chàng trai có vẻ ít “siêu” về máy tính hơn so với các bạn của mình, cuối
cùng lại chiếm được cảm tình của cô gái.
Bộ phim rõ ràng nhắm tới đối tượng
khán giả trẻ, và những người cao tuổi hơn những người sẽ được mua vé với cái
giá chỉ bằng một nửa giá thông thường khi đến xem vào một ngày trong tuần thì
chắc hẳn phải biết rằng đây là thứ mà tốt nhất họ nên tránh xa.
Keller đáng lẽ cũng đã bỏ qua không thèm
xem bộ phim này, nhưng cuối cùng thì nó lại là bộ phim duy nhất mà hắn chưa
xem. Rạp chiếu phim đó có tất cả tám phòng chiếu và chiếu tổng cộng sáu bộ phim
- hai bộ phim ăn khách nhất mỗi bộ sẽ được chiếu cùng lúc ở hai phòng chiếu, tức
là bạn sẽ không phải đợi quá một tiếng để được xem bất kỳ phim nào trong hai bộ
phim đó. Keller thì đã xem hết cả hai phim, và thậm chí là cả ba trong bốn bộ
phim còn lại, và bây giờ hắn cũng đã xem nốt bộ phim về những con mọt vi tính.
Hắn nhìn đồng hồ, lúc đó vẫn còn khá sớm nên hắn có thể chuồn qua một trong những
phòng chiếu khác và xem lại một trong những bộ phim kia lần thứ hai, nhưng đúng
là tất cả những bộ phim đó đều không thể hấp dẫn như lần đầu tiên hắn xem, và hắn
không thể hiểu tại sao người ta lại nghĩ rằng việc xem lại một bộ phim sẽ giúp
phát hiện ra những điều thú vị tinh tế mà lần đầu đã bỏ lỡ.
Rạp chiếu phim đó thuộc khu mua sắm nằm ở
vùng ven quận Jackson, Mississippi. Hắn đã nghỉ lại đêm hôm trước tại một nơi
mà hắn nghĩ là có thể được gọi bằng cái tên nhà nghỉ bình dân của Patel, như thể
nó nằm trong một chuỗi các nhà nghỉ thuộc tập đoàn Patel khổng lồ nhưng lại làm
ăn hoàn toàn độc lập. Nhà nghỉ này không cách xa Grenada, Mississippi là mấy,
văn phòng của nó được đặt tại một bãi đất khá rộng rãi ở ngay bên đường với một
cái tên rất không đâu - Tie Plant. Hắn bắt đầu cân nhắc lại các lựa chọn của
mình trong khoảng thời gian còn lại của bộ phim, nhưng hắn vẫn không thể nào
quyết định được là nên lái xe thêm một chút nữa hay là lại tìm một nhà nghỉ
bình dân nào đó trên đường rời khỏi Jackson.
Những quyết định kiểu như thế này, cũng giống
như tiếp theo sẽ đi đâu hoặc sẽ làm gì và khi nào thì đến đó, làm việc đó, đều
sẽ tự tìm đến chứ không thể nghĩ mà ra ngay được.
Hắn rời khỏi rạp chiếu phim và đi bộ ra xe
ôtô. Hắn đang đội chiếc mũ Homer Simpson, giống như hắn vẫn làm mọi khi, nhưng
vài ngày trước đó cái tủ quần áo của hắn đã được bổ sung thêm một chiếc áo
jacket bằng vải bông chéo mà ai đó đã vô tình bỏ quên lại ở một rạp chiếu phim ở
Tennessee. Đó là một buổi tối ấm áp, vì thế có lẽ là người chủ của chiếc áo đã
hoàn toàn không nhớ gì đến nó cho đến khi về tận nhà, và khi mà ông ta quay lại
tìm nó sau một, hai ngày và nhận ra rằng ông ta đã mất nó thì lúc ra về chắc hẳn
ông ta sẽ phải vò đầu bứt tai tự hỏi tại sao lại còn có người dám ra đường với
một chiếc áo cũ nát đến như vậy, cổ tay và cổ áo của nó đều đã sờn rách hết cả,
những đường may cũng sắp tuột ra.
Keller thì lại khá là thích chiếc áo đó. Nó
vẫn còn ám mùi của người chủ cũ, cũng giống như chiếc áo cộc tay màu xanh hải
quân của hắn vẫn còn ám mùi hắn, nhưng điều đó không đủ để Keller từ chối chiếc
áo. Nó tạo ra một sự thay đổi rõ rệt, và một sự thay đổi rất phù hợp với những
trang phục bên ngoài hắn đang có. Một chiếc áo cộc tay màu xanh hải quân, theo
như lời quảng cáo của tờ tạp chí Playboy
và GQ đã khẳng định với độc giả của
mình không biết bao nhiêu lần mỗi năm, rằng đây chính là thứ không thể thiếu
trong tủ quần áo của người đàn ông, nó được sử dụng rộng rãi và thích hợp cho mọi
tình huống, từ một bữa tối trang trọng cho đến một cuộc thi lặn mặc áo phông.
Và điều đó có vẻ cũng đúng, Keller đánh giá rất cao tính đa dụng, tiện lợi của
chiếc áo đó kể từ khi rời khỏi Des Moines, nhưng ở một vùng nông thôn phía nam
như thế này thì chiếc áo đó lại tỏ ra không thích hợp để mặc trước đám đông.
Keller không định tham gia hò reo cổ vũ cho những cuộc thi kéo xe tải cũng như
không định cầm một chiếc kèn Trumpet lên thổi trong những buổi liên hoan chè
chén mang tính chất tôn giáo hay rửa tội nào, nhưng dù sao đi nữa thì hắn vẫn cảm
thấy ít bị để ý hơn trong chiếc áo jacket bằng vải bông chéo của một người đàn
ông cũ kỹ quê mùa này.
Có hai loại hành động có thể được coi là biểu
hiện của kẻ tình nghi, hoặc ít nhất là hai biểu hiện dễ làm người khác nghi ngờ
mà Keller dễ mắc phải. Thứ nhất là lái xe quá nhanh và quá vội vã; thứ hai là tới
một nơi nào đó và sống chui lủi ở đó, suốt ngày giấu mình trên giường lấy chăn
đệm làm vỏ bọc.
Rõ ràng là cùng một lúc bạn không thể thực
hiện cả hai loại hành vi đó. Nhưng theo Keller bạn không được có bất kỳ hành vi
nào trong hai hành vi đó, bạn sẽ không được phép làm vậy nếu bạn còn muốn được
an toàn.
Nếu bạn vẫn ngoan cố, nếu bạn tìm được một
nơi nào đó thích hợp và quyết định ở lại đó, bạn sẽ phải chạm trán với cùng những
người hàng xóm ngày này qua ngày khác. Và chẳng sớm thì muộn, một ai đó trong số
họ sẽ có cơ hội nhìn rõ gương mặt bạn, tất nhiên việc làm tiếp theo của anh ta
sẽ là nhấc điện thoại lên và quay số.
Còn nếu như bạn chạy ra vùng biên giới, giả
sử bạn đã đến được đó, và rồi vượt qua cửa khẩu an ninh Post-9/11 mà không có hộ
chiếu cũng không có bằng lái xe trong khi gương mặt bạn lại là thứ mà mọi cảnh
sát trên khắp đất nước này đều đang kiếm tìm thì đó hẳn là một phép lạ. Và giả
sử như có phép lạ giúp bạn vượt qua được biên giới thì bạn sẽ lại có mặt ở một
trong những thị trấn giáp biên nào đó của Mexico, một nơi đầy rẫy cảnh sát và
những kẻ săn tin chuyên nghiệp, tất cả đều đang tìm kiếm những kẻ tình nghi người
nước ngoài, chủ yếu là từ Mỹ chạy sang. Đó là nơi mà hắn hoàn toàn không muốn đến
một chút nào.
Vì vậy giải pháp tốt nhất ở đây, theo như
suy luận của hắn vào lúc này, thì chỉ có thể giữ cho những hành vi của hắn luôn
nằm giữa hai hành vi nói trên, tức là hắn sẽ phải di chuyển suốt đời nhưng sẽ
giữ sao cho không di chuyển quá xa hoặc quá nhanh. Một trăm dặm mỗi ngày, hoặc
cùng lắm là hai trăm dặm, rồi sẽ tìm một nơi an toàn nào đó để ngủ qua đêm và
những con đường an toàn để tiếp tục chạy vào ban ngày.
Tất nhiên là bạn không thể bỏ qua những buổi
chiếu phim ban ngày. Rạp chiếu phim lúc đó hoàn toàn vắng vẻ, còn những nhân
viên làm việc ở đó thì cũng quá chán nản khi công việc đang nằm ngoài guồng. Buổi
tối thì tất nhiên là không có lựa chọn nào tốt hơn những nhà nghỉ ven đường cho
khách lái ôtô, những cánh cửa được khóa chặt trong chiếc phòng có ti vi, và bạn
sẽ bật tiếng đủ nhỏ để không làm phiền những người xung quanh.
Tuy nhiên không phải đêm nào hắn cũng mạo
hiểm vào nhà nghỉ bình dân. Ở Virginia, khi rời khỏi đường I-81, hắn đã đi bộ đến
tận cửa của một nhà nghỉ bình dân điển hình và cũng hoạt động độc lập nhưng rốt
cuộc cũng chỉ để nhận thấy một số dấu hiệu buộc hắn phải dừng lại và quay về xe
ngay lập tức. Đó đơn giản chỉ là do quá căng thẳng, hắn tự nói với mình như vậy,
nhưng chỉ cần hắn cảm thấy có dấu hiệu nguy hiểm thì tốt nhất hắn nên nghe theo
và tránh xa. Đêm hôm đó hắn đã buộc phải ngủ lại tại bãi nghỉ đỗ xe và thức dậy
vào buổi sáng hôm sau với một chiếc xe tải khá lớn đỗ ngay bên cạnh. Phía bên
kia thì có cái gì đó trông như thể một chiếc xe chở cả gia đình Partridge nào
đó đi dã ngoại. Hắn dám chắc là như vậy sẽ có ai đó đã nhìn hắn, hắn ở ngay cạnh
họ, dưới ánh sáng ban mai tươi đẹp và mặt trời rực rỡ, nhưng hắn lại đang ngủ,
hắn ngồi đó đầu gật về phía trước và chiếc mũ gạt xuống che khuất gương mặt, và
tất nhiên hắn vẫn rời khỏi đó mà không có chuyện gì xảy ra.
Hai đêm trước, ở Tennessee, hắn đã rời khỏi
nơi đó rất xa rồi, và hắn đã tìm được ba nhà nghỉ bình dân nằm trên cùng một
con đường nhưng lại đều có tấm biển “Hết phòng”. Cuối cùng hắn đã gặp được một
tấm biển khác “Bán trang trại”, hắn đã phải lái xe thêm nửa dặm trên con đường
nhỏ bụi bẩn để đến được cái nơi mà người ta quảng cáo. Không có một ánh đèn nào
phát ra từ ngôi nhà trong trang trại, cũng không thấy một phương tiện đi lại
nào ngoài chiếc ôtô Ford cũ kỹ đã bị tháo hết bánh. Ban đầu hắn nghĩ đến việc sẽ
đột nhập vào trong ngôi nhà, nếu như thực sự cần thiết thì hắn sẽ làm một cuộc
cạy cửa đột nhập thực thụ, nhưng có vẻ như là người ta vẫn đang bỏ lại những
cánh cửa không khóa.
Nhưng sẽ thế nào nếu sáng hôm sau có ai đó
đến để xem căn nhà? Hoặc một người hàng xóm nào đó có một trang trại nằm sâu
hơn trên con đường bụi bặm này lại vô tình nhìn thấy xe ôtô của hắn và rẽ vào
xem thế nào?
Thế nên cuối cùng hắn quyết định lái xe đến
chuồng ngựa thay vì đến ngôi nhà. Hắn đỗ xe ở một nơi mà người ta không thể
nhìn thấy nó. Hắn phải chia sẻ cái chuồng ngựa đó với một con cú - cái con vật
đó thậm chí còn gây ra nhiều tiếng ồn ở nơi đó hơn cả hắn, và một vài loài động
vật gặm nhấm khác mà hắn không xác định được là con gì, những con vật này thì
ngược lại, cố gắng giữ trật tự đến mức có thể, như thể chúng đang cố gắng tránh
xa sự rình mò của con cú, cũng giống như hắn đang cố gắng tránh xa sự nhòm ngó
của con người. Cái nơi đó nồng nặc mùi súc vật và mùi cỏ khô đã mục nát, ngoài
ra còn một số mùi khác khó có thể định nghĩa rõ ràng là mùi gì. Nhưng hắn đoán
chắc rằng hắn đã ở cách một đoạn khá xa, kể cả so với con người đang ở gần hắn
nhất, và đó mới là điều thực sự có ý nghĩa với hắn. Hắn trải một ít rơm ra sàn
nhà rồi đập đập chúng cho thật êm, hắn nằm dài ra đó và bắt đầu chìm vào một giấc
ngủ ngon lành sau tất cả những rắc rối hắn đang gặp phải.
Trên đường rời khỏi trang trại sáng hôm
sau, hắn đã đi đến chỗ chiếc xe Ford và xem xét nó. Bánh xe đã bị tháo đi, đúng
như thấy lúc mới vào, và hắn còn thấy mất cả động cơ xe, nhưng chiếc xe cũ kỹ nọ
vẫn còn được gắn hai tấm biển số rất đầy đủ. Tennessee / Bang Volunteer, hắn đọc,
nhưng lại không có cái gì trên biển số xe chỉ ra tấm biển đó năm bao nhiêu. Bụi
bặm làm cho một trong những cái bu-lông khó vặn hơn, nhưng hắn vẫn cố làm xong
việc đó, và khi hắn lái xe khỏi nơi này thì chiếc Sentra của hắn đã có những tấm
biển Tennessee, còn tấm biển Iowa thì được tháo ra và giấu ở một nơi mà không
ai có thể nhìn thấy dưới đống rơm trong một góc chuồng ngựa.
Cái nhà nghỉ bình dân mà hắn tìm thấy ở ngoại
ô quận Jackson có một tấm biển trên bàn quầy tiếp tân nói rằng một anh chàng
Sanjit Patel nào đó là chủ sở hữu của nó, nhưng rõ ràng là cái anh chàng Patel
đặc biệt này đã nâng mình lên một tầm cao mà chính một người Mỹ thực thụ cũng
phải mơ ước, đó là có thể thuê được nhân viên không phải là người trong gia
đình mình hay người cùng dân tộc với mình. Người thanh niên trẻ phía sau bàn quầy
là một anh chàng lai Mỹ - Phi với nước da sáng và theo như cái thẻ ghi tên mà
anh ta đang đeo thì anh chàng tên là Aaron Wheldon. Anh ta có khuôn mặt trái
xoan với mái tóc cắt ngắn và đang đeo một cặp kính gọng đen dày cộp. Anh chàng
cười rất tươi khi Keller bước đến, để lộ hàm răng trắng bóng. “Bart Simpson!
Người đàn ông quan trọng của tôi!”.
Keller mỉm cười đáp lại đồng thời hỏi luôn
giá thuê phòng, câu trả lời là bốn mươi chín đô la. Hắn đặt ba tờ hai mươi đô
lên bàn và đẩy cái thẻ đăng ký về phía chàng trai trẻ.
- Có lẽ là cậu có thể giúp tôi làm việc
này, - hắn nói. Dừng lại một lúc hắn nói thêm, - Tôi không cần ghi hóa đơn đâu.
Đằng sau cặp kính dày cộp, đôi mắt Wheldon
thoáng chút nghĩ ngợi. Rồi sau đó cậu ta lại nở một nụ cười rất tươi và đưa
chìa khóa phòng cùng với một tờ bạc mười đô la cho Keller. Nếu tính cả tiền thuế
thì giá thuê phòng sẽ lên tới khoảng năm mươi ba đô la, Keller đương nhiên là
hiểu rõ điều đó, nhưng việc trả lại mười đô la khiến hắn cảm thấy đây đúng là một
sự thỏa hiệp thành công, bởi vì ở bang Mississippi thì người ta không quan tâm
nhiều đến thuế, cũng như anh chàng Sanjit Patel sẽ chẳng quan tâm nếu đã thu được
đến năm mươi đô la.
- Mà hình như tôi đã nói nhầm, - Wheldon
nói, - tôi lại đi nói Bart Simpson trong khi ai cũng có thể dễ dàng nhận ra đó
là ông bố Homer của anh ta trên mũ của ngài. Chúc ngài một buổi tối tốt lành,
ngài Simpson.
Chắc
chắn rồi, và tôi cũng sẽ coi như chưa bao giờ gặp ngài, thưa ngài.
Vào trong phòng, hắn bắt đầu bật tivi và
chuyển hết kênh này sang kênh kia cho đến khi tìm được kênh CNN, giống như thường
lệ, hắn dành nửa tiếng đồng hồ xem những bản tin quý báu rồi mới kiểm tra xem
có những gì trong phòng. Sáng hôm sau hắn lại tìm được một máy bán báo tự động
và mua một tờ.
Trên đường đi về phương nam qua
Pennsylvania, hắn mua được tờ Thời báo
New York. Keller đã được đọc kỳ hai của bài báo viết về vụ hỏa hoạn ở White
Plains, và bây giờ tờ báo này cho hắn biết rằng người ta đã có thể khẳng định
chắc chắn cái xác bị cháy rụi thành than tìm thấy ở hiện trường chính là
Dorothea Harbison thông qua giám định nha khoa. Điều đó đã xóa tan hi vọng cuối
cùng của hắn mà hắn vẫn lấy đó để tự an ủi bản thân mình, rằng biết đâu cái xác
đó lại là của một người khác.
Từng ngày qua đi, Keller vẫn không ngừng
mua những tờ báo tiếp theo - tờ USA Today
vào những ngày trong tuần và bất cứ tờ báo nào mà hắn có thể tìm mua được vào
những ngày cuối tuần. Những ảnh hưởng của vụ ám sát và hậu quả của nó xem chừng
cũng đang dần trở nên mờ nhạt và chìm đi ngay cả đối với hắn. Nhiều năm về trước
Keller đã thường xuyên luyện tập các bài tập tinh thần để có thể đối diện với
thực tế tàn khốc của công việc hắn đang làm, hắn tưởng tượng ra hình ảnh của
các nạn nhân, rồi sau đó xóa dần các màu sắc trong bức ảnh đó đi và cuối cùng
chuyển nó thành ảnh đen trắng. Một loạt các hành động tiếp theo được thực hiện
nhằm giảm nhẹ những ảnh hưởng của chúng và thoát khỏi chúng hoàn toàn, hắn làm
cho chúng trông ngày càng nhỏ đi cho đến khi nó chỉ còn là một cái chấm màu xám
mờ mờ, cái chấm đó nhấp nháy và cuối cùng biến mất hẳn. Kỹ thuật đó đúng là hiệu
quả nhưng lại không thể hiệu quả mãi mãi - vài năm sau đó, một người mà hắn phải
vất vả lắm mới quên đi được bỗng nhiên lại nhảy bụp ra trước mắt hắn, đúng với
kích thước con người thật, và đúng với màu sắc thật - nhưng dù sao thì nó cũng
đã giúp hắn vượt qua được một thời gian dài gian khó, và bây giờ hắn đã hiểu ra
rằng, tất cả những gì xảy ra đối với hắn đều là một sự thật hiển nhiên mà người
ta có thể đoán trước được. Bởi vì thời gian, cho dù không cần đến sự tác động của
con người, thì cũng sẽ vẫn tự biết cách giải quyết mọi việc theo đúng cách như
vậy, giống như những câu chuyện hàng ngày vẫn cứ bùng nổ, thu hút sự quan tâm rồi
lại mờ đi và chìm vào quên lãng cùng với các bản tin trên báo, đài, trên các
phương tiện truyền thông, sự xuất hiện và ảnh hưởng của chúng bị mờ nhạt đi bởi
những câu chuyện mới bùng nổ trở thành sự kiện nóng bỏng mới của cả xã hội.
Tất nhiên đó là chuyện xảy ra trong giới
truyền thông, nhưng khi ngẫm lại hắn nhận ra rằng nó cũng xảy ra y như vậy
trong nhận thức của con người, mà không cần phải có một sự cố gắng nỗ lực nào,
và thậm chí là chẳng cần đến một sự cố gắng nỗ lực nào. Mọi thứ cứ mờ nhạt dần
đi và mất dần ảnh hưởng của chúng hoặc đơn giản chỉ là chúng xuất hiện trong
trí óc của chúng ta ngày một ít đi và cũng ít tác động đến chúng ta hơn.
Hắn chẳng cần phải lấy ví dụ đâu xa mà ngay
bản thân hắn. Vài năm về trước hắn đã nuôi một con chó, một con chó chăn gia
súc của Úc rất đẹp tên là Nelson, và hắn thậm chí đã thuê hẳn một cô gái trẻ
tên là Andria để đưa Nelson đi dạo mỗi ngày. Việc này kéo theo việc kia, mọi thứ
cứ thế diễn ra theo lẽ tự nhiên và cuối cùng hắn với Andria đã cùng chia sẻ với
nhau nhiều hơn sợi dây xích của Nelson. Hắn bắt đầu quan tâm đến cô gái và mua
cho cô rất nhiều đồ trang sức, rồi một ngày cô gái biến mất, và dắt theo cả con
chó của hắn.
Đó là một chuyện mà bạn buộc phải chấp nhận,
và vì thế hắn cũng đã chấp nhận điều đó, nhưng rõ ràng nó đã làm hắn bị tổn
thương sâu sắc, và đã có những lúc mà không ngày nào hắn không nghĩ đến Nelson
và Andria.
Cho đến một ngày, hắn đã không còn nghĩ đến
họ nữa.
Và tất nhiên điều đó không có nghĩa là mọi
chuyện đã đột ngột kết thúc mãi mãi, không có nghĩa là cô gái và chú chó kia
không bao giờ xuất hiện trong óc hắn nữa. Họ vẫn cứ xuất hiện, cả cô gái và cả
chú chó, và khi đó hắn lại có cảm giác đau đớn, mất mát, hụt hẫng như ngày đầu
tiên họ ra đi vậy, và thậm chí hắn còn cảm thấy đau đớn hơn gấp bội vào ngày
hôm sau khi cơn sốc đã qua đi. Nhưng rồi những nỗi nhớ đó cũng ngày một vơi đi,
xuất hiện ít đi và những cảm xúc đau đớn đi kèm với chúng cũng ngày một trở nên
ít dữ dội hơn cho đến một ngày khi mà cả hai sự mất mát đó, dù vẫn biết rằng sẽ
không bao giờ có thể quên được, đã trở thành một phần trong cái quá khứ dài đằng
đẵng và rất ly kỳ của hắn.
Nhưng cần gì phải lật lại cái quá khứ đau
buồn đó của hắn mới có được một ví dụ? Hắn đâu cần phải viện đến những ký ức xa
xôi như thế. Mới chỉ một tuần trước thôi hắn còn đang đau khổ trước hai sự mất
mát lớn nhất trong cuộc đời mình, hai sự mất mát đến với hắn trong vòng một
ngày. Người bạn tốt nhất của hắn đã bị giết và bộ sưu tập tem của hắn đã bị
đánh cắp, và hắn đã nghĩ về họ suốt cả ngày, nhưng ngay bây giờ đây hắn đã cảm
thấy rằng những suy nghĩ đó bắt đầu ít xuất hiện ám ảnh hắn hơn và mỗi ngày
trôi đi là một ngày tầm quan trọng của họ trong đầu hắn lại giảm đi một chút, là
một ngày họ lại lùi dần vào quá khứ. Hai sự mất mát đó vẫn làm cho hắn phải đau
đớn và nhớ tiếc khôn nguôi, hai nỗi nhớ đó vẫn thiêu đốt ruột gan hắn như axit,
nhưng mỗi ngày hắn phải sống chung với nỗi nhớ đó hắn càng cảm thấy rằng hắn
đang rời xa chúng thêm một chút.
Vì vậy, thực ra là bạn chẳng cần phải cố
quên đi mọi thứ, thực sự không cần phải làm vậy. Đơn giản là bạn chỉ cần thoải
mái đón nhận chúng, và chúng sẽ tự tìm đường biến mất trong ký ức của bạn.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét