Hồ Sơ ODESSA
Tác giả: Frederick Forsyth
Người dịch: Cung Khắc Dũng
Nhà xuất bản Trẻ - Năm xuất bản: 1974
Chương 15
Vị bác sĩ nhìn Miller với cặp mắt thiếu thiện cảm. Miller rất
ghét bận áo cổ cứng và thắt cà vạt, nên mỗi khi có thể được chàng thường bận áo
thun trắng cao cổ và khoác bên ngoài chiếc áo vét đen. Thái độ của bác sĩ cho
biết là lối phục sức của Miller không mấy thích hợp vói bầu không khi trang trọng
của bệnh viện.
Vị bác sĩ cau mày hỏi lại:
- Ông là cháu bà Wendel? Lạ quá! Tôi không bao giờ nghĩ bà
Wendel còn bà con thân thích!
Miller làm mặt tỉnh :
- Tôi là đứa cháu duy nhất còn lại của cô Wendel. Đúng lý
tôi phải đến sớm hơn để phục dịch cô tôi, nếu biết được tình trạng nguy ngập,
nhưng ông Winzer chỉ mới điện thoại cho tôi hay hồi sáng sớm hôm nay.
- Ông Winzer thường đến thăm bà Wendel vào giờ này, - vị bác
sĩ nhận xét.
- Theo tôi được biết thì hôm nay ông ấy có việc phải đi xa,
và có thể vắng khoảng ba bốn ngày. Trước khi đi ông Winzer có nhắn tôi gởi lời
thăm cô Wendel!
- Đi xa? Lạ thật. - vị bác sĩ do dự trong giây lát rồi nói
tiếp: - Xin lỗi ông trong vài phút nhé!
Miller nhìn vị bác sĩ đi thẳng vô văn phòng và thoáng nghe
được vài lời ông ta nói với người đối thoại bên kia đầu dây:
- Đi thật sao? Hồi sáng nay? Vài ngày nữa về? Không, không.
Cám ơn cô... Tôi chỉ muốn xác nhận ông Winzer có muốn đến thăm bà Wendel vào
chiều hôm nay không? Thôi... Phiền cô nhiều... Chào cô.
Vị bác sĩ gác điện thoại xuống và trở ra hành lang. Ông ta lắc
đầu nói:
- Lạ thật. Ông Winzer luôn luôn đến thăm bà Wendel vào mỗi
buổi sáng, ngày nào cũng như ngày nào, từ ngày bà ta nhập viện cho đến nay. Tuy
nhiên muốn nhìn mặt bà ta lần chót thì ông ta phải về gấp mới được! Tôi xem bà
ta gần đi rồi.
Miller làm bộ mặt đưa đám ma:
- Ông nói thật sao? Cô tôi không còn sống bao lâu nữa hả?
Ông cho phép tôi được vô thăm người trong vài phút được không?
- Là bà con thân thích của bà Wendel, ông có thể vô phòng
thăm bà ấy trong vài phút. Nhưng tôi dặn hờ ông
trước. Bà Wendel hiện đang hôn mê và nếu ông muốn nói gì với bà ấy, xin
ông vắn tắt, Nào, mời ông hãy theo tôi.
Vị bác sĩ dẫn Miller đi qua bốn hành lang và dừng chân lại
trước một phòng bệnh.
- Bà Wendel nằm trong này! - Vị bác sĩ nói, chỉ tay về phía
cánh cửa khép kín. Để Miller bước vô trong rồi vị bác sĩ nhẹ nhàng khép cửa lại.
Miller phải mất gần hai phút mới tập cho cặp mắt làm quen với
ánh sáng yếu ớt trong phòng, và chàng phải bỏ ra ba phút nữa mới nhìn rõ thân
hình gầy đét của bà Wendel đang nằm dưới ba lớp chăn, chỉ để thò cái đầu ra
ngoài. Đôi mắt bà ta nhắm chặt lại.
Miller nghĩ bụng sẽ không tìm hiểu được gì mới lạ về tên thợ
nơi người đàn bà bệnh hoạn này.
Chàng xích gần lại đầu giường, nói nhỏ bên tai bà Wendel:
- Bà Wendel?
Hai mí mắt người đàn bà sắp chết bỗng chớp chớp và người đàn
bà này mở cặp mắt ra.
Bà ta nhìn Miller với cặp mắt không hồn, và Miller tự hỏi
không biết bà ta có thấy được chàng không.
Bà Wendel vội nhắm mắt lại và cái miệng móm xọm bắt đầu lẩm
bẩm những chuyện không đâu. Chàng ghé sát tai gần miệng bà ta đế cố nghe xem bà
ta nói gì.
Bà Wendel nói những chuyện không vào đâu cả. Nào là
Rosenheim, một ngôi làng nhỏ tại miền Bavaria, có thể là nơi sinh quán của bà
ta, nào là “những người bận toàn đồ trắng trông thật xinh đẹp”, nào là một
tràng lời nói vô nghĩa.
Miller ghé sát tai gần miệng bà Wendel. Chàng nói nhỏ:
- Bà Wendel, bà nghe tôi rõ không?
Người đàn bà sắp về bên kia the giới tiếp tục lẩm bẩm trong
miệng. Miller chợt nghe được những chữ: “Mỗi người tay cầm cuốn Thánh Kinh và một
xâu chuỗi, bận đồ trắng, thơ ngây quá!”. Miller cau mày suy nghĩ và hiểu ngay
bà Wendel muổn nhắc nhở đến những gì: trong cơn mê sảng, bà ta đang hồi tưởng lại
ngày đầu tiên đi rước lễ. Như chàng, bà Wendel có thời là một tín đồ trung
thành của Thiên Chúa Giáo.
- Bà nghe tôi nói không? - Chàng nhắc lại câu hỏi.
Bà Wendel bỗng mở mắt lớn ra, nhìn đăm đăm vô ngực Miller,
vô chiếc áo thun cao cổ và chiếc áo vét đen khoác bên ngoài.
Chàng kinh ngạc thấy bà ta nhắm nghiền mắt lại, hơi thở dồn
dập hơn.
Miller bắt đầu lo lắng. Chàng định chạy ra gọi bác sĩ vô
ngay, nhưng khi nhìn thấy hai hàng nước mắt chảy dài xuống hai bờ má thóp,
chàng cầm chân lại.
Với một sức mạnh lạ thường hay chỉ vì quá tuyệt vọng, tay bà
Wendel bám chặt vô khuỷu tay Miller, Miller tính gỡ bàn tay này ra, và bỏ về,
nhưng miệng bà Wendel lầm bầm câu: “Xin Cha ban phước lành cho con vì con có tội!”,
làm chàng phóng viên chợt hiểu ý muốn sau cùng của bà ta.
Chàng liếc nhìn xuống y phục mình và hiểu ngay vấn để: Bà
Wendel đã lầm tưởng chàng là một vị linh mục. Chàng đắn đo không biết có nên bỏ
rơi tất cả mọi việc, và trở về Hamburg, hay phải tiếp tục đóng kịch làm linh mục.
Chàng nghiêng đầu về phía bà Wendel nói :
- Cha sẳn sàng nghe lời xưng tội của con!
Bà Wendel bẳt đầu nói. Với một giọng trầm buồn, mệt mỏi, đời
sống của bà ta được giải bày ra cho “Cha” Miller.
Bà Wendel chào đời và lớn lên tại miền Bavaria. Bà chào đời
năm 1910 và có thể nhớ lại một cách rõ ràng cảnh người cha rời bỏ gia đình ra mặt
trận trong thời đệ I Thế Chiến, và cảnh trở về cố hương của người ba năm sau
đó, giận dữ và chua xót trước sự đầu hàng nhục nhã của những tên đầu sỏ tại
Berlin. Bà Wendel nhắc lại những bất ổn về chính trị trong những năm 20, và cú
đảo chánh hụt do tên Adolf Hitler cầm đầu, dự tính lật đổ chính phủ đương thời.
Cha bà Wendel nghe theo lời đường mật của Hitler và gia nhập Đảng Quốc Xã. Vào
năm bà Wendel được hai mươi ba tuổi, tên độc tài và bè đảng đã lên cướp chánh
quyền. Bà Wendel còn nhớ lại những năm làm thư ký riêng cho Gauleiter tại miền
Bavaria, và những đêm khiêu vũ với những chàng trai trẻ oai vệ trong bộ quân phục
hào nhoáng. Nhưng bà ta đã lớn lên trong sự xấu xí, với dáng người cao lêu
khêu, khuôn mặt chữ điền. Bao nhiêu đó cũng đủ cho bà ta biết sẽ không bao giờ
có chàng trai nào sẽ đến hỏi cưới bà ta cả. Hận đời, năm 1939 bà Wendel xin được
một chức cai tù tại trại tập trung Ravensbruck.
Bà Wendel thú thật với “Cha” Miller những điều gian ác đã
làm với đám tù nhân Do Thái. Bà ta vừa nói vừa thút thít khóc. Đôi tay gầy ốm của
bà bám chặt vô tay “Cha” Miller, như sợ “Cha” sẽ bỏ đi vì đã nghe qua những điều
ghê tởm mà bà ta đã làm.
- Còn về sau này “con” làm những gì?
Bà Wendel kể rõ những năm tháng dài sống lê lết hết chỗ này
đến chỗ khác, những năm tháng bị tập đoàn SS bỏ rơi như con chó, bị quân đội Đồng
Minh truy lùng, những đêm lạnh lẽo nằm trong xó bếp, những ngày dài rửa chén
bát đầu tắt mặt tối, và ăn những bửa cơm thừa của Đội Binh cứu rỗi linh hồn.
Vào năm 1950, bà Wendel gặp Klaus Winzer đang sống tại một khách sạn ở
Onasbruck trong khi chở mua nhà riêng. Lúc đó bà Wendel đang làm bồi phòng cho
khách sạn này. Klaus Winzer mua nhà xong mướn bà ta về làm quản gia kiêm bồi
phòng cho hắn.
- Chỉ bao nhiêu đó thôi sao con? - Miller hỏi.
- Thưa Cha, con chỉ làm bao nhiêu đó thôi.
- Con biết là Cha không thể nào cầu nguyện Đức Chúa Trời cứu
rỗi linh hồn con được, khi con chưa thú thật với Cha hết mọi tội lỗi?
- Thưa Cha con chỉ có bao nhiêu tội đó thôi!
Miller hít một hơi thở vô lấy can đảm hỏi:
- Còn chuyện những sổ thông hành giả thì sao? Những sổ thông
hành Winzer làm giúp cho bọn SS đào tẩu đó!
Bà Wendel im lặng trong giây phút. Miller sợ bà ta sẽ ngất
đi mất.
- Thưa Cha, Cha biết chuyện này sao?
- Phải, Cha biết hết!
- Thưa Cha, con không dự phần vào việc làm thông hành giả!
- Nhưng con biết Winzer làm chuyện này?
- Thưa Cha con biết.
- Hiện nay Klaus Winzer đã đi rồi. Đi xa rồi! - Miller nói.
- Không. Không, Winzer không đi đâu cả. Winzer không đờí nào
bỏ con.
- Con biết Winzer đi đâu không?
- Thưa Cha không!
- Con chắc không? Suy nghĩ kỹ đi con. Winder bị ép buộc phải
đi xa! Nhưng ông ta đi đâu?
Khuôn mặt gầy mòn lắc qua lắc lại trên chiềc gối:
- Thưa Cha, con không biết. Nếu “họ” đe dọa Winzer, ông ta sẽ
trưng hồ sơ ra. Winzer thường nói với con như vậy!
Miller cau mày, không hiểu người đàn bà sắp chết muốn nói
gì.
Chàng hỏi:
- Hồ sơ gì con?
Hai người nói chuyện qua lại trong năm phút sau đó. Có tiếng
gõ cửa. Miller gỡ tay bà Wendel ra.
- Thưa Cha! - Bà Wendel kêu giật lại. - Thưa Cha ban phép
lành cho con.
Bà Wendel nói, trừng mắt nhìn thẳng vào Miller.
Miller thở ra. Chàng cầu mong Thượng Đế sẽ thông cảm và chứng
giám cho hành động sắp đến của chàng. Chàng giơ tay phải lên, làm dấu thập.
- Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần, Cha tha tội cho con!
Bà Wendel thở dài, thỏa mãn. Bà nhắm khít mắt lại và rơi vào
tình trạng hôn mê.
Ngoài hành lang, vị bác sĩ lúc nãy đang sốt ruột đứng đợt
Miller.
- Ông vô thăm hơi lâu!
Miller gật đầu:
- Thưa đúng! Cô tôi đang ngủ nên tôi không dám quấy rầy. À,
thưa bác sĩ, cô tôi còn cầm cự chừng bao lâu nữa?
Vị bác sĩ do dự nói:
- Tôi cũng không biết nữa. Khó nói quá. Hai, ba ngày không
chừng. Tôi rất tiếc vì không biết phải làm gì hơn.
- Tôi hiểu. Xin cám ơn bác sĩ đã cho phép tôi được nhìn bà cô
lần chót. - Miller nói.
Vị bác sĩ tiễn chàng ra tới cửa. Miller bỗng sực nhớ ra điều
quên nói với bác sĩ:
- Còn chuyên này nữa, phiền bác sĩ giúp hộ. Gia đình chúng
tôi đều theo Thiên Chúa giáo. Cô tôi đã nhờ tôi xin được gặp một vị linh mục.
Chắc thế nào bác sĩ cũng biết qua những nghi thức của lễ xức dầu?
- Dĩ nhiên! Được, để tôi lo liệu cho!
- Phiền bác sĩ giúp hộ. Xin cám ơn bác sĩ!
- Được, được, không có gì đâu. Quả thật tôi không biết bà
Wendel có đạo. Đế tôi cố gắng dàn xếp nội chiều hôm nay cho. Thôi chào ông!
Trời đã sụp tối khi Miller về đến công trường Theodor Heuss
và đậu xe cách khách sạn chừng mười lăm thước. Miller leo xuống xe, băng qua đường,
bước vô khách sạn và đi thẳng lên lầu.
Trong một căn phòng khác cũng trong khách sạn này, nhưng ở tầng
lầu trên, Mackensen đã chứng kiến cảnh này.
Tên sát nhân chuyên nghiệp cẩn thận đặt túi bom vô va li. Hẳn
rời khỏi phòng, đi xuống phòng tiếp tân của khách sạn, trả tiền phòng trước,
không quên dặn tên quản lý rằng hắn sẽ đi sớm vào sáng ngày hôm sau, rời khỏi
khách sạn, băng qua đường, đi về phía chiếc xe Jaguar.
Đôi mắt hắn đảo một vòng quanh chiếc xe để tìm một địa điểm
thuận tiện để có thể vừa quan sát chiếc xe vừa chú ý đến cửa ra vô của khách sạn.
Trong vùng còn có nhiều khách bộ hành qua lại, và Miller có
thể đi ra ngoài bất cứ lúc nào.
Mackensen nghĩ bụng nếu tên phóng viên lấy xe đi trước khi hắn
gài bom thì hẳn sẽ chọn giải pháp theo sát tên phóng viên, đợi dịp tốt để ra
tay, Nếu Miller ngủ đêm tại khách sạn, Mackensen sẽ lợi dụng, đêm tối để gài
bom vô xe, lựa những giờ thật khuya khi không còn một ma nào đi ngoài đường.
Trong phòng, Miller đang moi óc nhớ ra một cái tên. Miller
có thể hình dung được gương mặt, nhưng tên thì chịu thua, Sự việc liên quan đến
tên này xảy ra trước mùa Giáng Sinh năm 1961. Miller đang ngồi đợi theo dõi một
vụ án quan trọng tại Tòa Án Hamburg, Miller để ý đến phần kết của một phiên xử,
chú ý đến một người đàn ông nhỏ thó đang đứng bên vành móng ngựa, và những lời
biện hộ của Luật sư xin Tòa khoan hồng, nhấn mạnh đến Lễ Giáng Sinh sắp đến, và
trình bày tình cảnh gia đình quá nặng của bị cáo: một vợ và năm con dại. Miller
nhớ lại lúc chàng nhìn xuống hàng ghế dành cho công chúng, chàng không tài nào
quên được khuôn mặt thiểu não vô vọng của người vợ bị cáo, và cảnh người đàn bà
này ôm mặt vào tay khóc nức nở khi nghe Tòa kêu án chồng 8 tháng tù ở. Công tố
viên đã mô tả bị cáo như là một trong những tay tổ khoan cốp và mở tủ sắt.
Hai tuần sau, Miller vô quán Reeperbahn nhậu cùng với một
vài tuy dô và mật báo viên. Lúc đó túi Miller đầy nhóc tiền mới lãnh được nhờ một
loạt phóng sự. Trong lúc nhậu, Miller để ý đến một người đàn bà đang lau nhà.
Miller nhận ra người vợ của tên tổ khoan cốp đã gặp hai tuần trước tại Tòa Án
Hamburg. Không biết lúc đó chàng hơi quá chén hay tự dưng lên cơn hào hiệp, nên
chàng đã dí một tờ giấy bạc 100 Đức kim vô tay người đàn bà đang lau nhà.
Vào tháng giêng năm sau, Miller nhận được một lá thư xuất xứ
từ Trung Tâm cải huấn Hamburg. Người đàn bà mà Miller đã cho tiền một tháng trước
đó có lẽ đã biết tên và địa chỉ chàng nơi tên bồi hầu rượu, nên đã bảo người chồng
viết thơ cảm tạ Miller.
Miller nhớ lại đại ý lá thơ như sau :
Thưa ông
Miller,
Vợ tôi vừa cho
biết nghĩa cử cao đẹp của ông nhân dịp lễ Giáng Sinh. Tôi chưa bao giờ gặp ông,
và cũng không quen biết ông, nên không tài nào hiểu được tại sao ông lại cho
gia đình chúng tôi tiền. Nhưng tôi muốn cám ơn ông, cám ơn ông thật nhiều. Ông
quả là một con người tốt. Số tiền ông cho gia đình chúng tôi đã đem lại một mùa
Giáng Sinh tươi vui cho gia đình tôi, nhất là cho mấy cháu...
Nếu sau này
tôi có thể làm bất cứ chuyện gì để đền ơn ông, xin ông đừng ngại...
Nhưng tên ký dưới lá thơ là gì? Koppa? Không. Koppal? Không
! Koppel. Đúng rồi Koppel, Viktor Koppel.
Miller thầm khấn vái Thượng Đế sao cho tên này không vô nằm ấp
trở lại.
Miller móc một cuốn sổ nhỏ ghi địa chỉ trong túi ra, xách
chiềc máy điện thoại đặt lên đùi mình và bắt đầu liên lạc từng tên ghi trong sổ
tay và bắt liên lạc được với Koppel lúc bảy giờ rưỡi tối.
Vì là tối thứ sáu nên tay tổ khoan cốp đang nhậu nhẹt với
đám bạn bè.
Koppel nhận ra Miller ngay. Hắn nhắc lại những gì Miller đã
làm cho gia đình hắn hai năm trước đó.
- Ông chơi đẹp quá! Cám ơn ông một lần nữa!
Miller ngắt lời hắn:
- Koppel, anh nhớ anh có viết thơ nói khi nào tôi cẩn gì thì
đừng ngại hỏi anh, anh nhớ không?
Koppel trả lời:
- Nhớ!
- Bây giờ tôi đang kẹt chuyện này. Không có gì khó hết, anh
giúp tôi được không?
- Tôi cũng đang kẹt, không còn bao nhiêu…
- Tôi không muốn hỏi vay tiền anh đâu! Tôi muốn mướn anh làm
giúp tôi việc này!
- Được! Được! Hiện nay ông ở đâu?
Miller dặn dò tên đạo chích:
- Anh cứ việc ra thẳng nhà ga Hamburg và đáp chuyến xe lửa sớm
nhất đến Onasbruck. Tôi sẽ đứng đón anh ở nhà ga này. À, mà đừng quên mang đồ
nghề theo nhé!
Koppel ngần ngại:
- Xin ông hiểu cho tôi việc này. Tôi chủ trương không bao giờ
ăn hàng ngoài khu vực của mình. Tôi không muốn đụng chạm với bạn đồng nghiệp, vả
lại tôi không quen địa thế ở Onasbruck.
Miller dùng tiếng lóng miền Hamburg thuyết phục Koppel:
- Vua ơi, đây là một cú lương chắc như bắp. Nhà hoang, chủ vắng.
Mập lắm. Tôi canh rồi, không sợ bị cớm chém vè đâu! Nội sáng mai anh sẽ có mặt
trở lại Hamburg để ăn sáng. Dọn sạch cả nhà hắn trước khi hắn trở về cũng còn kịp
chán thì giờ! Tụi cớm địa phương thế nào cũng nghĩ đây là một vố hàng nội hóa!
Koppel có vẻ xiêu lòng:
- Còn phí tổn chuyên chở thì sao!
- Tôi sẽ hoàn lại ngay khi anh đặt chân đến Onasbruck. Rán bắt
chuyến xe lửa khởi hành lúc chín giờ tối. Anh còn hơn một giờ đồng hồ nữa để
chuẩn bị đồ nghề!
- Được. Tôi sẽ có mặt trên chuyến xe lửa này!
Miller buông máy điện thoại xuống, và bấm chuông gọi bồi
phòng lên dặn đánh thức chàng dậy lúc mười một giờ khuya, Chàng phóng viên lăn
ra giường ngủ thiếp liền sau đổ,
Ngoài đường, Mackensen tiếp tục canh chừng. Hắn quyết định bắt
tay vào việc lúc quá nửa đêm nếu Miller không thò mặt ra khỏi khách sạn,
Nhưng Miller bước ra khỏi khách sạn lúc mười một giờ mười
lăm. Mackensen nhìn thấy tên phóng viên băng ngang qua công trường, đi về phía
nhà ga.
Tên sát nhân leo xuống xe Mercedes và đi theo Miller tới nhà
ga. Liếc mắt qua cửa kính hắn thấy Miller đang đứng lóng ngóng, hình như đang đợi
xe lửa đến.
- Mấy giờ xe lửa đến? - Hắn hỏi một viên lao công nhà ga,
- Mười một giờ ba mươi!
Mackensen tự hỏi tại sao Miller phải dùng xe lửa khi hắn có
xe đang đậu ngoài kia. Chưa hết thắc mắc, hắn lủi thủi trở về vị trí canh phòng
cũ.
Vào lúc mười một giở ba mươi lăm tối, thắc mắc của Mackensen
được giải đáp.
Miller rời nhà ga cùng với một người đàn ông lạ mặt, người
thấp lùn, tay xách một chiếc cặp da đen. Bọn chúng ra vẻ thân tình lắm.
Mackensen chửi thể trong bụng. Việc cuối cùng mà hẳn muốn thấy
là sự kiện Miller xách chiếc Jaguar cho tên lạ mặt này đi, và sẽ gây cho hắn
không biết bao nhiêu là rắc rối. Nhưng hắn cười thật đắc chí khi thấy hai tên
này vẫy một chiếc xe tắc xi, bước lên xe rồi vọt mất trong đêm tối, Hắn quyết định
đợi thêm hai mươi phút nữa rồi bắt tay vào việc.
Vào nửa đêm, công trường Theodor Heuss vắng hoe, Mackensen lẻn
ra khỏi xe, cầm theo một ngọn đèn bấm và bao dụng cụ nhỏ, băng qua đường về chỗ
chiếc Jaguar đang đậu.
Ánh sáng của ngọn đèn bấm tìm ra ngay chốt khóa ca pô. Hắn
phải mất hơn hai mươi phút để nạy chốt này ra. Khi muốn đóng ca pô lại, chỉ cần
sập nó xuống là xong.
Hắn đi trở lại phía chiếc Mercedes của hắn và xách túi bom
đem đến chiếc Jaguar. Một người lục đục sửa xe dưới ca pô sẽ không làm cho người
ngoài chú ý,
Mackensen dùng dây kẽm và chiếc kềm để cột hộp đựng chất nổ
vô hông sườn xe, ngay trước mặt chỗ ngồi của tài xế. Bộ phận kích thích trái
bom nối liền với hộp đựng chất nổ bởi hai sợi dây điện dài được hắn gài vô hệ
thống ống nhún của bánh xe trước, để khi chiếc xe này xả hết tốc lực và gặp phải
ổ gà thì cả tài xế lẫn xe sẽ nổ tan thành khói. Mackensen thu dọn hết đồ nghề,
đóng sập ca pô xuống và trở về vị trí canh chừng cũ. Hẳn ngã người ra ghế xe,
nhắm mắt lại để đánh một giấc ngủ.
Miller ra lệnh cho tên tài xế tắc xi đưa chàng và Koppel đến
Saarplatz.
Koppel, tên đạo chích khôn ngoan, đã không hé môi trong suốt
cuốc xe. Khi chiếc tắc xi đã khuất dạng ở cuối đường, hắn mới mở miệng :
- Tôi hy vọng ông biết ông đang làm những gì! Tôi không hiểu
tại sao một người phóng viên như ông lại đổi nghề!
- Anh không có gì phải lo cả. Chúng ta bắt tay vào việc nhé!
Mà quên, chỗ đó còn có một con bé làm bồi phòng ngủ lại đêm!
- Ông nói với tôi nhà đó bỏ hoang mà! - Koppel hớt hải. - Nếu
con nhỏ đó xuống nơi chúng ta đang hành sự, tôi cho ông biết trước là tôi sẽ vọt
lẹ à. Thằng Koppel này không chơi với bạo lực!
- Vậy chúng ta đợi đến gần hai ba giờ sáng rồi làm việc nhé!
Lúc đó con nhỏ sẽ ngù say, lên hãm nó, nó cũng không hay nữa!
Hai người đi bộ đến nhà Winzer, lâu lâu đảo mắt nhìn về phía
sau xem có ai theo dõi không. Đến nhà tên thợ, cả hai nhảy phốc qua hàng rào vô
nhà.
Họ băng qua bãi cỏ tiến đến những cửa sổ bằng kiếng của một
căn phòng có vẻ như một văn phòng riêng.
Koppel di chuyển như một con mèo, đi rảo quanh khu vườn để
Miller ở lại canh chừng đồ nghề. Hắn trở ra nói nhỏ bên tai Miller:
- Phòng con bé vẫn còn để đèn!
Một giờ sau Koppel đi thám thính một lần nữa và báo cáo lại
cho Miller rằng phòng của con nhỏ đã tắt hết đèn rồi. Hai ngươi ngồi trong bóng
tối đợi thêm khoảng gần một giở rưỡi nữa. Koppel quyết định ra tay. Hẳn dắt
Miller chạy nhanh về phía những cửa sổ bằng kính.
Koppel mở túi đồ nghề ra, lấy một cuộn băng keo, một vành
cao su hút, một dao cắt kính và một chiếc búa bằng cao su. Một cách tài tình, hắn
vạch một vòng tròn trên cửa kính ngay giữa then cài cửa. Để chắc ăn, hẳn dán
thêm hai đường băng keo ngang qua vòng tròn này. Giữa hai đường băng keo hắn áp
vành hút vô. Dùng chiếc búa cao su hắn vỗ nhẹ vô chiếc vòng. Một tay giữ chặt
cái vòng hút, hẳn từ từ lột hai đường băng keo ra và kéo nhẹ vòng kính được cắt
về phía sau.
Thò tay vô lỗ, hẳn mở then cài, đẩy cửa vô phía trong và nhảy
phóc vô phòng như một con mèo. Miller vụng về bắt chước theo. Căn phòng tối om,
nhưng hình như Koppel có thêm biệt tài nhìn trong tối như ban ngày.
Hắn đưa ngón tay trỏ lên miệng ra hiệu cho Miller phải giữ
im lặng. Miller đứng run lầy bẩy khi Koppel gài then cửa sổ lại. Tên đạo chích
luồn qua căn phòng, tài tình né tránh bàn ghế như nhờ vào một giác quan thứ
sáu, tiến về phía cửa ngăn căn phòng với hành lang. Hắn đóng nhẹ cửa này lại rồi
bật đèn bấm lên.
Ánh sáng của ngọn đèn bấm quét qua căn phòng, bắt gặp một
bàn làm việc, một máy điện thoại, một tấm vách tường đầy dẫy kệ sách, và trong
một góc chạm phải một lò sưởi.
Hắn ghé miệng sát tai Miller nói :
- Đây đúng là phòng làm việc của hắn rồi. Trong một nhà như
thế này, không thể nào có đến hai lò sưởi, kinh nghiệm tôi cho biết như vậy. Lò
sưởi này được dùng để ngụy trang tủ sắt của hắn! Ông biết cái cần dùng để mở lò
sưởi này nằm ở chỗ nào không?
- Tôi không biết. Anh phải tìm nó chớ tại sao lại hỏi tôi?
Koppel than trời:
- Vậy biết chừng nào mới mò ra!
Nói vậy chớ hắn cũng đi đến túi đồ nghề, lấy một chiếc vành
sắt, và ra lệnh cho Miller ngồi xuống ghế nghỉ nhưng phải giữ im lặng, Hắn tiến
vể phía cái lò sưởi, lấy cái vành sắt đội lên đầu sau khi đã gắn chiếc đèn bấm
lên đó. Hắn chui vô bên trong lò sưởi, mò mẫm những viên gạch từng khe hở. Lúc
ba giờ sáng hắn mò ra được cái cần. Cái cần này được giấu giữa hai viên gạch,
và khi được bật xuống để lộ một cái tủ sắt đặt tuốt bên trong lò sưởi. Koppel đặt
ống nghe - thứ ống nghe của bác sĩ - vào tai, mò mẫn núm số của bổn bộ số liên
hợp trên tủ sắt. Hắn để hết tinh thần để nghe từng tiếng tích khi chiếc núm được
quay. Và hẳn chỉ mất có bốn mươi phút để mở tủ sắt Winzer ra.
Miller nảy người đứng phóc dậy, chạy lại giật chiếc đèn bấm
trên tay Koppel, chiếu thằng ngọn đèn vô bên trong tủ sắt. Trên ngăn trên có
vài bó tiền mà Miller liền với lấy trao hết cho Koppel, và ngăn dưới chỉ thấy
có một phong bì. Miller chụp lấy phong bì này mở ra. Bên trong đựng khoảng hơn
bốn mươi tờ giấy, mỗi tờ đều có dán ảnh. Lật đến tờ thứ mười, chàng không thể
nào cầm được sự vui sướng hét lớn lên:
- Hắn đây! Chính hắn! Roschmann!
- Im lặng! - Koppel trách.
Miller nhét vội tập giấy vô phong bì, trả ngọn đèn bấm cho
Koppel và bảo tên này khóa tủ sắt lại.
Hai người ra đến đường một cách an toàn.
- Cứ từ từ, bình tĩnh mà đi, vừa đi vừa trò chuyện như hai
người bạn vừa đi nhậu về! - Koppel dặn dò
Quãng đường đến nhà ga xe lửa hơn ba cây số, và lúc hai người
đột kích nhà Winzer ra đến đường thì đã gần năm giờ sáng.
Đường phố không đến nỗi vắng vẻ, dù là sáng thứ bảy, vì dân
Đức có lệ là thích thức khuya dậy sớm. Họ đi đến nhà ga bình an vô sự.
Bảy giờ sáng mới có xe lửa về Hamburg, nhưng Koppel cho
Miller biết hắn muốn vô quán ngồi đợi tàu, thay vì về khách sạn Miller nghỉ.
- Cú này mình ăn đẹp quá ông Miller há! Tôi hy vọng ồng tìm
được những gì ông muốn.
- Phải! Cám ơn anh nhiều lắm!
- Vậy thì mình chia tay, đường ai nấy đi! Chào ông!
Tên đạo chích bắt tay Miller và bước vô tiệm cà phê. Miller
quay về khách sạn, Chàng đi băng qua công trường Theodor Heuss, không để ý đến
cặp mắt cú vọ của người ngồi trong chiếc xe Mercedes đang chăm chú quan sát
chàng.
Lúc đó quá sớm để Miller lên đường tiếp tục cuộc điều tra,
nên chàng tự cho phép mình hưởng ba giờ ngủ xả hơi.
Thức giấc lúc chín giờ ba mươi sáng, Miller gọi bồi mang thức
ăn điểm tâm. Trong khi nhâm nhi tách cà phê chàng nghiên cứu hổ sơ vừa chộp được
của Winzer. Trong hồ sơ này Miller nhận diện được ít nhất là một chục tai to mặt
lớn.
Tờ thứ mười là tờ được Miller chú ý kỹ nhất, Người đàn ông
trong hình trông có vẻ già, tóc để dài ra, lại thêm một hàm râu nữa, nhưng đôi
tai và chiếc mũi không thay đổi.
Tên của hắn ghi dưới hình là một cái tên được hầu hết mọi
công dân Đức biết đến. Miller chú ý đến địa chỉ của hắn, có thể là một cao ốc nằm
ngay trung tâm thành phố.
Trước mười giờ sáng, Miller gọi điện thoại đến Ban Điện Thoại
chỉ dẫn của thành phố ghi trên tờ giấy thứ mười, và dò hỏi số điện thoại của
viên quản lý cao ốc ghi trên tờ giầy này. Quả thật, đúng như Miller nghĩ, địa
chỉ này là một cao ốc, và một cao ốc đắt giá.
Miller gọi điện thoại đến viên quản lý, cho tên này biết là
chàng đã liên lạc với một nhân vật mướn văn phòng trong cao ốc nhưng không kết
quả, có lẽ vì điện thoại của người này hư?
Người bên kia đường dây cho biết ông Giám Đốc đã đến xưởng
hoặc đang nghĩ mát tại tòa lâu đài riêng.
- Xưởng gì? Xưởng của ông Giám Đốc chớ xưởng gì? Xưởng Vô
Tuyến Điện đó!
- À phải! Dĩ nhiên! Ồ, sao tôi đãng trí quá!
Miller làm bộ ngớ ngẩn trả lời. Được những gì cẩn biết chàng
cảm ơn người đối thoại, rồi để điện thoại xuống. Ban điện thoại chỉ dẫn cho
Miller biết số của xưởng Vô Tuyến Điện. Tổng Đài tại đây chuyển đường dây của
Miller đến máy điện thoại của cô thư ký riêng của ông Giám Đốc. Cô này cho biết
ông Giám Đốc đang nghỉ mát tại biệt thự của người và sẽ trở về làm việc vào
ngày thứ hai tới; cô này cũng từ chối không cho chàng biết địa chỉ nghỉ mát của
ông Giám Đốc.
Người cho Miller biết địa chỉ nghỉ mát của ông Giám Đốc là một
đặc phái viên Kinh Tế Tài Chính của một tờ nhật báo lớn tại Hamburg, đồng thời
là một người bạn rất thân của Miller.
Miller ngồi trên giường, cặp mắt dán chặt vào tấm hình của
Roschmann, tên mới và địa chỉ mới của hắn. Miller ghi những điểm sau này vô cuốn
sổ tay. Đến giờ phút này Miller mới chợt nhớ ra đã nghe nói tới hắn nhiều lần.
Một đại kỹ nghệ gia tên tuổi của miền Ruhr. Miller cũng đã thấy máy móc vô tuyến
điện do hãng của hẳn sản xuất bày bán khắp nước. Miller lật bản đồ nước Đức ra,
xác định lần chót vị trí của tòa lâu đài.
Miller thu xếp xong hành lý lúc quá nửa trưa. Bước xuống
hành lang để tính tiền phòng, chàng phóng viên, đói rã người, đi vô nhà hàng của
khách sạn, không quên xách chiếc cặp đen theo, tự đãi cho mình một đĩa thịt bò
Beefsteak.
Trong buổi ăn, Miller quyết định đi nốt đoạn đường truy lùng
Roschmann ngay vào chiều hôm đó, và giáp mặt mục tiêu vào sáng hôm sau. Miller
vẫn còn giữ mảnh giấy ghi số điện thoại của luật sư cộng tác với Ủy ban Z tại
Ludwigsburg. Lúc đó chàng có thể gọi điện thoại cho ông ta, nhưng Miller muốn
chính chàng là người đầu tiên giáp mặt Roschmann.
Đến gần hai giờ trưa, Miller mới rời khỏi khách sạn. Chàng cất
va ly vô cốp xe và giữ chiếc cặp sát bên mình trong buồng xe.
Miller không để ý đến chiếc Mercedes đang theo sát gót chàng
ra tới ngoại ô Onasbruck.
Chiếc Mercedes chạy vô xa lộ chánh, dừng lại trong vài giây
cho chiếc Jaguar vọt về phía Nam, rồi quanh đầu xe lại trở về trung tâm thành
phố.
Mackensen dừng xe lại bên một trạm điện thoại công cộng để
liên lạc với Sài Kíu Tinh tại Nuremberg.
- Hắn đang trên đường đi ra xa lộ miền Nam! - Mackensen báo
cáo.
- Bộ máy của đồng chí có đi kèm theo hẳn không?
Mackensen cưòi:
- Có. Gắn chất nổ vô hệ thống ống nhún. Chừng vài ba chục
cây số nữa thì hắn sẽ tan thành bụi, mặt mày hắn sẽ không giống ai vì không còn
ai nhận diện ra hắn được nữa!
- Tốt lắm! Chắc đồng chí mệt lắm phải không? Thôi về khách sạn
nghỉ đi!
Mackensen không đợi mời lần thứ hai. Hắn đã không nhắm mắt từ
đêm thứ tư.
* * *
Miller chạy được ba bốn chục cây số và làm thêm một trăm cây
số nữa. Mackensen đã lầm lẫn, không đế ý đến một điểm hết sức quan trọng.
Bộ phận kích thích do Mackensen chế tạo chắc chắn sẽ làm cho
trái bom nổ ngay nếu được gắn vô hệ thống ống nhún của một chiếc xe Hoa Kỳ.
Nhưng chiếc Jaguar là một chiếc xe thể thao do Anh Quốc chế tạo, và hệ thống ống
nhún của xe này có tiếng là cứng rắn. Khi chiếc Jaguar vọt mau trên xa lộ đi về
hướng Frankfurt, các ổ gà hay mu rùa sẽ làm cho các lò xo cứng hai bên bánh xe
trước thun lại, đập vỡ chiếc bóng đèn chêm giữa hai lưỡi cưa sắt, nhưng hai lưỡi
cưa này không vì vậy mà chạm vào nhau, vì dù được xáp lại nhưng vẫn còn để hở
khoảng một ly rồi lại bung trở ra.
Không biết mình đang gần với cõi chết, Miller tiếp tục cuộc
hành trình, chạy qua Munster, Dortmund, Wetzlar và Bad Homburg để đi về
Frankfurt. Đến đó Miller cho xe rẽ qua Konigstein để đi đến trạm chót của cuộc
hành trình: miền núi tuyết Taunus.
------------
Còn tiếp.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét