Thứ Sáu, 20 tháng 4, 2018

Hồ Sơ ODESSA - Chương 13

Hồ Sơ ODESSA

Tác giả: Frederick Forsyth
Người dịch : Cung Khắc Dũng
Nhà xuất bản Trẻ - Năm xuất bản: 1974

Chương 13

Con người Franz Bayer cũng tròn trịa và tánh tình dễ chịu không kém gì vợ hắn: Được Sài Kíu Tinh báo trước kẻ đào tẩu Miller Kolb sẽ đến viếng hắn trong đêm, Bayer tiếp đón Miller thật nồng hậu. Chàng phóng viên đến gặp hắn lúc tám giờ tối, và được Bayer kéo tay xuống bếp để ra mắt vợ hắn.
- Nào anh bạn Kolb, đã đến Wurttemberg bao giờ chưa? - Bayer hỏi.
- Thưa ông chưa!
- Dân Wurttemberg chúng tôi hãnh diện là những người hiếu khách nhất nước! Chắc anh đói bụng? Từ sáng tới giờ ăn gì chưa? - Bayer vồn vã hỏi.
Miller cho biết chàng chưa có gì trong bụng từ sáng tới giờ.
- Trời đất! Tội nghiệp chưa! Phải kiếm gì ăn mới được. Hai anh em chúng ta sẽ ra phố ăn cơm tiệm nhé! Đừng phản đối vô ích, ít ra tôi cũng phải đãi anh một chầu!
Bayer thót người xuống bếp xin phép vợ đưa Miller ra phố ăn tiệm. Mười phút sau, cả hai dùng xe của Bayer ra trung tâm thành phố.
* * *
Phải mất ít nhất hai giờ đồng hồ để đi từ Nuremberg đến Stuttgart nếu sử dụng xa lộ E. 12 và nếu chạy hết ga. Quả thật đêm đó Mackensen phóng xe hết ga trên xa lộ E. 12 này.
Nửa giờ sau khi nhận được cú điện thoại của Sài Kíu Tinh, được tên trùm Odessa tại Đức thuyết trình đầy đủ và thông báo địa chỉ của Bayer, Mack Dao Phay lên đường. Hắn đến Stuttgart lúc hai mươi hai giờ ba mươi, và chạy thẳng đến nhà Bayer.
Bà Bayer, được Sài Kíu Tinh thông báo thẳng thanh niên tự xưng là Kolb có thể là một nhân viên cảnh sát chìm, là một người đàn bà sợ hãi khi mở cửa cho Mackensen. Hắn rất lễ độ để khỏi gây thêm hoang mang cho bà này.
- Họ đi khi nào vậy?
- Khoảng tám giờ kém mười lăm tối. - Bà Bayer ấp úng.
- Họ có nói đi đâu không?
- Không. Nhà tôi, Franz, chỉ nói với tôi là ông đưa Kolb ra phố ăn cơm tiệm, vì từ sáng tới giờ hẳn chưa ăn gì hết, Tôi có nói với nhà tôi rằng nhà thiếu gì đồ ăn mà phải đi ăn tiệm. Nhưng nhà tôi thích đi ăn ngoài lắm, hề có dịp là…
- Thằng tên Kolb đó, bà nói hẳn đậu xe ở đâu?
Bà Bayer tả con đường đến chỗ xe Jaguar.
Mackensen suy nghĩ trong giây lát:
- Bà có thể đoán chừng ông Bayer dẫn Kolb đi ăn tiệm nào không?
Bà Bayẹr nhắm mắt suy nghĩ:
- Nhà tôi thích nhất tiệm Three Moors trên đường Friedrich. Nhà tôi luôn luôn đến đó trước rồi mới đi vòng các hộp đêm quán nhậu sau.
Mack Dao Phay rời khỏi nhà Bayer, đi đến chỗ Miller đậu chiếc xe Jaguar.
Hắn quan sát chiếc xe thật kỹ và đắn đo không biết nên ở lại canh chừng Miller tại đây hay đi tìm chàng phóng viên.
Sài Kíu Tinh đã ra lệnh cho hắn phải bằng mọi cách truy cho ra Bayer và Miller, báo nguy cho tên đầu mối Odessa, và thanh toán Miller. Nhưng hắn không gọi điện thoại cho Bayer tại nhà hàng Three Moors, vì như vậy sẽ làm cho Miller nghi ngờ, tạo cơ hội cho hắn thoát thân một lần nữa.
Mackensen nhìn đồng hồ: Hai mươi hai giờ bốn mươi lăm. Hắn leo lên xe, lái trở về trung tâm thành phố.
* * *
Tại một khách sạn nhỏ, tồi tàn, nằm trên một ngõ cụt của thành phố Munich, Josef đang nằm dài trên giường, suy nghĩ vẫn vơ, thì nhận được một cú điện thoại, cho biết có điện tín. Chàng bước xuồng phòng tiếp tân lầy điện tín mang trở lên phòng.
Ngồi vào chiếc bàn nhỏ, chàng mở điện tín ra, và đọc qua nội dung dài lê thê, mở đầu như sau:

        Rau cần……...481   Đức kim   53 Xu

        Dưa   ....         362   Đức kim   17 Xu

        Cam   . . . . .   627   Đức kim   24 Xu

        Bưởi   ....       313   Đức kim   88 Xu

Danh sách trái cây và rau cải thật dài, và tất cả những thứ này là những món hàng do Israel xuất cảng.
Bức điện tín Josef đang đọc được ngụy tích như là một danh sách khảo giá gởi cho một nhà đại diện xuất cảng tại Đức. Và bức điện tín này bề ngoài có vẻ vô hại nhưng bên trong chứa đựng toàn những tin tức tối mật.
Về phương diện bảo mật bản văn, hệ thống viễn ấn quốc tế dành cho công chúng sử dụng không mấy an toàn nhưng vì lưu lượng điện tín thương mại gởi sang Tây Âu quá nhiều, nên không có ai kiểm soát và giải mã hết được và nếu muốn làm công việc này phải cần đến hơn một Sư Đoàn Chuyên Viên Mã Thám. Dựa vào yếu tố này, Mossad chuyển những tin tức tình báo đến cho nhân viên qua trung gian hệ thống vô tuyến viễn ấn quốc tế mà không sợ bị lộ.
Không chú ý đến những chữ, Josef viết mấy con số ghi số tiền thành hàng. Nhóm số tiền Đức kim và Xu biến mất vì Josef chỉ viết số thôi. Khi có được những nhóm số xếp thành hàng rồi, Josef chia ra làm từng nhóm sáu số một. Từ mỗi nhóm sáu số này, Josef trừ ra nhóm ngày tháng năm trong ngày tức 20 tháng 2 năm 64 viết tắt là 20264. Tất cả các nhóm sáu số viết ra lúc nãy được trừ bớt đi 20264 và số thành của từng nhóm luôn luôn là một nhỏm sáu số.
Đây là một khóa Mật Mã hết sức đơn giản, và chìa khóa giải mã dựa trên cuốn Tự Điển Thông Dụng Webster New York Dictionary do Popular Library xuất bản. Ba số đầu tiên trong nhóm sáu số tượng trưng cho trang sách trong cuốn tự điển, số thứ tự có thể là một con số nào đó tự 1 đến 9. Số lẻ tượng trưng cho cột thứ nhất và số chẵn cho cột thứ hai. Hai số sau cùng trong nhóm sáu số, chỉ số chữ ở cuối cột tính từ trên xuống.
Josef làm việc không hở tay và nửa giờ sau đọc được bản văn vừa được giải mã. Nội dung của bức điện tín làm chàng điên đầu, vì tầm mức quan trọng của nó, và vì chàng bất lực chưa làm gì được.
Nửa giờ sau Josef đến gặp Leon tại nhà. Thủ lĩnh nhóm Do Thái cực đoan tại Đức đọc qua bức điện, chửi thầm trong bụng.
Leon thở ra:
- Tôi thành thật xin lỗi bạn. Tôi không thể nào biết được sự việc như vậy!
Hai ngưòi Do Thái này không biết được rằng từng mảnh tin vụn vặt đã được gửi đến Mossad trong ngày hôm qua.
Một mầu tin được điệp viên Israel nắm vững tại Buenos Aires điện về Mossad cho biết có một kẻ lạ mặt đã trả một số tiến tương đương với một triệu Mỹ kim cho một tên Vulkan nào đó, với mục đích giúp tên này hoàn tất giai đoạn chót trong dự án nghiên cứu!
Mầu tin thứ hai phát xuất từ một người Do Thái, tòng sự tại một ngân hàng Thụy Sĩ chuyên về dịch vụ chuyển ngân từ những trương mục bí mật của Đức Quốc Xã đến tay nhân viên ODESSA tại Tây Âu. Mẩu tin nảy nói đến vụ một triệu Đức kim được chuyển đến một ngân hàng tại Beirut, và được một người lạ mặt mở trương mục tại Ngân hàng này với tên Fritz Wegener rút tiền ra.
Mẩu tin thứ ba phát xuất từ một viên Đại tá Ai Cập đặc trách An Ninh tại xưởng 333. Tên này vì cần tiền nên đã tiết lộ cho điệp viên Mossad nằm vùng tại Cairo rằng hiện các hỏa tiễn Ai Cập chỉ còn thiếu có hệ thống điều khiển vô tuyến nữa là có thể rời khỏi dàn phóng, đồng thời cho biết máy vô tuyến viễn khiển của hỏa tiễn hiện được một xưởng máy vô tuyến điện chế tạo ngay trong nội địa Đức quốc, và dự án này đã làm cho ODESSA hao hụt hàng triệu Đức kim;
Cả ba mẩu tin này cùng với hàng ngàn mẩu tin khác được các máy tính điện tử của nhà bác học Youvel Neeman, thiên tài của Israel, diễn biến và suy diễn. Youvel Neeman là người đầu tiên trên thế giới đem máy điện tử ứng dụng vào việc phân tích tinh báo và cũng là cha đẻ của bom nguyên tử Israel.
Khi trí nhớ thông thường của con người có thể thất bại, các mạch điên tử phức tạp đã kết hợp ba mẩu tin trên lại và phát rà các dự kiện được trữ từ thuở xa xưa, thuở Eduard Roschmann bị tố cáo đội lốt Fritz Wegener năm 1955, và tổng hợp ba mẩu tin trên lại thành một bản phân tích tình báo thật chính xác:
Josef đi đi lại lại trong căn phòng bí mật của Leon:
- Bắt đầu từ giờ phút này tôi sẽ ở luôn đây canh máy điện thoại và sẽ không rời khỏi nó nửa bước. Phiền “bạn” kiếm cho tôi một chiếc moto thật mạnh, áo da và nón an toàn. Tất cả những thứ này phải có cho tôi trong vòng nửa giờ nữa, vì khi nào Miller gọi, tôi sẽ phải cấp tốc đến cấp cứu hắn.  
- Nếu ngụy tích hắn bị bể thì bạn sẽ không còn đủ thì giờ để đến cứu hắn. - Leon mỉa mai.
- Tôi không ngạc nhiên tại sao bọn ODESSA đã khuyến cáo hắn phải bỏ qua chuyện truy lùng Roschmann. Vì chưa đến gần Roschmann thì đã bị bọn cận vệ phơ rồi!
Khi Leon ra khỏi căn phòng, Josef đọc lại bức điện tín từ Tel Aviv gởi sang:

        BÁO ĐỘNG ĐỎ: Tin tức mới nhất cho biết chìa khóa thành công của dự án hỏa tiễn đang nằm trong tay chủ nhân xưởng Vô Tuyến Điện người Đức hoạt động trong vùng của bạn. Stop. Bí danh VULKAN, và VULKAN có thể là Roschmann. Stop. Rút Miller ra khỏi kế hoạch hành quân. Stop. Tìm và thù tiêu Vulkan. Stop. CORMORANT

Josef ngồi vào bàn, móc khẩu Walther PPK ra. Chàng tháo khẩu súng phòng thân yêu quý và bắt đầu lau chùi, cho dầu vô, lâu lâu đưa mắt liếc nhìn máy điện thoại.
* * *
Trong suốt bữa cơm tối Bayer đóng vai chủ nhân thật hoan hảo, rống cười lên từng hơi mỗi khi Miller hay chính hắn kể được một câu chuyện tiếu lâm đắc ý.
Miller dọ dẫm lời nói, thử để cập đến vần để thông hành với hẳn hơn năm bảy lần. Lần nào như lần nấy, Bayer chỉ đập mạnh lên vai Miller bảo đừng lo, hãy để hắn chu toàn hết mọi việc.
Một biệt tài khác hấp thụ được trong nghề làm phóng viên là khả năng uống rượu thật nhiều, nhưng vẫn giữ được sự minh mẫn. Miller không quen uống rượu vang trắng đi kèm theo thức ăn. Mà rượu vang trắng có điểm lợi hại là rất dễ say. Thứ rượu này được dọn ra cho thực khách đựng trong những chậu nước đá bào, để rượu luôn luôn lạnh, vừa uống, và Miller đã có đôi ba dịp đổ nguyên ly rượu vô trong chậu này, khi Bayer đang mải mê kể chuyên phiếm.
Khi thức ăn tráng miệng được dọn ra, hai người đã nồc hết hai chai rượu vang. Trong bộ quần áo chật hẹp, mồ hôi Bayer đổ như tắm. Với tác dụng làm giảm cơn “khát nước”, Bayer gọi thêm chai thứ ba.
Miller một lần nữa khoác lên bộ mặt lo âu, cho Bayer biết nếu không có được một sổ thông hành mới, chắc chắn thế nào bọn cớm cũng sẽ tìm ra chàng, vì những gì chàng đã làm tại Flossenburg.
- Ông cần hình tôi không? - Miller hỏi, giọng nói đầy lo lắng.
Bayer càu nhàu:
- Cần! Một vài tấm. Chuyện này không quan trọng. Ra tiệm chụp trong hai mươi phút sau là có hình ngay! Nhưng phải đợi cho râu tóc chú mọc dài ra rồi hãy đi chụp hình; lúc đó sẽ không còn ai nhận diện ra chú!
Bayer với tay qua bàn và đặt cánh tay to lớn lên vai Miller. Miller ngửi thấy mùi rượu nồng nặc bốc ngang qua mũi chàng.
Bayer nói tiếp:
- Có hình xong xuôi đâu đó rồi, lúc đó tôi sẽ gửi chú đến thằng bạn tôi, và một tuần sau chú sẽ có thông hành mới toanh. Với sổ này chúng tôi sẽ xin cho chú một cái bằng lái xe, dĩ nhiên chú phải thi cho đậu, và một số quốc gia danh bộ. Dưới mắt nhà chức trách, chú là một công dân Đức mới hồi hương sau mười lăm năm sống bôn ba ở hải ngoại. Chú đừng có lo. Đã có già Bayer đây!
Dù Bayer hơi say, hắn vẫn còn làm chủ được lưỡi của hắn. Hắn từ chối không tiết lộ thêm điều gì khác liên quan đến sổ thông hành, và Miller sợ nếu hỏi hắn nhiều quá, hắn sẽ sinh nghỉ.
Dù đang thèm cà phê, Miller vẫn không gọi cà phê vì sợ chất này sẽ làm cho Bayer nhả hết rượu. Bayer móc tiền ra trả, và khi hai người bước ra khỏi nhà hàng, đồng hồ chỉ đúng mưòi giờ ba mươi.
- Thật là một đêm tuyệt diệu. Xin cảm ơn ông Bayer!
- Ôi có gì đâu! - Bayer nói, khoác áo bành tô lên người.
- Chắc Stuttgart về đêm không có những trò vui giải trí nào hấp dẫn? - Miller hỏi, làm mặt ngớ ngẩn.
- Ha! Ha! Chú mày đúng là thằng nhà quê, và ngu ngốc nữa! Chú tưởng bề ngoài thành phố này sao thì bên trong như vậy? Thành phố Stuttgart mà ăn chơi về đêm thì đ... có thành phố nào trên thế giới sánh bằng. Sơ sơ mới có vài ba chục hộp đêm thôi!
- Ông muốn nói hộp đêm với mấy cô con gái cởi quần áo? - Miller hỏi thật ngây thơ.
Bayer ra mặt dân chơi:
- Bộ chú mày tưởng trong đó người ta làm gì? Đọc sách hả! Đ.M sao mà ngu quá vậy. Con gái không thoát y thì làm cái gì chớ!
- Stuttgart có những hộp đêm nào độc đáo đâu tỏi không thấy!
- Để thằng Bayer này kể cho chú mày nghe sơ sơ vài chỗ. Để coi. À, Moulin Rouge, Balzac, Imperial, Sayonara. Còn một chỗ ác ôn nữa: Madeleine, trên đường Eberhardt...
- Eberhardt? Trời đất! Trùng hợp gì lạ vậy? Đó là tên ông chũ cũ cũa tôi tại Bremen, người đã giới thiệu tôi với ông Luật sư tại Nuremberg đó!
- Hay lắm. Vậy chúng ta đi đến đó cho chứ mày biết. - Bayer nói, cầm tay Miller dẫn ra xe.
Mackensen đền nhà hàng Three Moses vào lúc hai mươi ba giờ mười lăm. Hắn hỏi thăm ông quản lý nhà hàng:
- Ông Bayer có đến đây không?
- Ông Bayer? Có. Đêm nay ông ta có ghé, và ra về cách đây chừng nửa giờ!
- Ông Bayer có đến đây với một người đàn ông tóc nâu hớt ngắn và để râu không?
- Dạ thưa ông có. Tôi nhớ cặp này rất rõ. Họ ngồi ở bàn phía kia. - Tên quản lý chỉ tay về phía chiếc bàn.
Mackensen nhét một tờ giấy bạc 20 Đức kim vô tay tên quản lý, nói:
- Tôi cần gặp ông Bayer, gấp, nội trong đêm nay! Vợ ông ta bị lên kinh phong.
Tên quản lý làm mặt hoảng hốt.
- Ông biết họ rời tiệm ăn này đi đâu không?
- Thú thật với ông, tôi không được biết. - Viên quản lý nói xong vẫy tay gọi một anh bồi bàn hỏi:
- Hanz phải chú hầu ông Bayer và người đàn ông tóc nâu ngồi ở bàn trong góc kia không? Chú có nghe họ nói định đi đâu sau khi ăn xong không?
- Thưa ông quản lý tôi không nghe!
Tên quản lý xoay qua Mackensen nói :
- Hay ông thử hỏi con bé giữ nón và áo bành tô xem sao, có thể nó nghe lỏm được vài điều gì!
Mackensen đến hỏi cô gái giữ nón và áo bành tô, nhưng cô này không biết gì hết.
Tên đao phủ thủ của ODESSA bỗng nảy ra một ý kiến hay. Hắn hỏi mua một tạp chí du lịch nói về sinh hoạt của Stuttgart về đêm, và duyệt qua danh sách những hộp đêm của thành phố này.
Hắn rời khỏi nhà hàng Three Moses, quay ra xe bắt đầu cuộc tìm kiếm Bayer và Miller qua các hộp đêm.
Bayer và Miller đang ngồi trong hộp đêm Madeleine. Bayer, với hai ly Whisky làm vốn, chăm chú nhìn không chóp mắt một cô gái đang trình diễn màn uốn éo thân thể và cởi bỏ đồ phụ tùng đàn bà.
Bayer thúc mạnh cùi chỏ vô hông Miller :
- Cặp bưởi bự ác há! - Bayer nói, hơi đớ lưỡi.
Lức đó quá nửa đêm, và hắn đã say mèm. Miller lợi dụng dịp này để moi thêm tin về thằng “Thợ” làm thông hành giả.
- Này ông Bayer. Không biết tại sao tôi lo quá. Tôi là một thằng trốn tránh pháp luật. Có thể nào làm thông hành tôi sơm sớm một chút được không? - Miller thủ thỉ bên tai Bayer.
Bayer choàng tay qua vai chàng, cà lăm nói:
- Rolf ơi là Rolf. Tôi nói với chú bao nhiêu lần rồi! Tôi bảo chú đừng lo. Vã lại tôi đâu phải là thằng làm thông hành giả cho chú mày. Tôi chỉ gởi hình đến thằng bạn và một tuần sau chú sẽ có thông hành mới. Không có khó khăn mẹ gì hết. Thôi bỏ chuyện này không nói nửa mà... mà... vô một ly cho đẹp với Franz già này!
Bayer giơ ly lên vẫy:
- Bồi ơi, bồi đâu rồi, làm một chầu nữa đi, mau lên!
Miller ngã người ra ghế suy nghĩ. Nếu chàng phải đợi cho tóc mọc dài ra để chụp hình, chàng phải chờ hàng tuần. Còn dùng đến rượu để cho thằng Bayer lòi ra tên tuổi và địa chỉ của tên “Thợ” làm thông hành cho ODESSA cũng không chắc gì thành công. Dù cho Bayer có say mèm ra, chưa chắc gì hẳn đã chịu hé môi cho chàng biết về nhân vật quan trọng này!
Miller không tài nào kéo Bayer về trước màn vũ thoát y thứ nhất.
Đúng một giờ sáng, cả hai mới rời khỏi hộp đêm Madeleine để bước ra xe. Bayer không đứng vững nữa, nên Miller phải quàng tay qua vai đế dìu hắn ra xe.
- Tôi nên lái xe đưa ông về thì hơn! - Miller nói với Bayer khi hai người ra gần tới xe. Bayer không ý kiến, và Miller tự động móc chìa khóa trong túi hẳn. Chàng đỡ Bayer ngồi vào xe một cách khó nhọc. Sau khi đóng cửa lại, chàng đi vòng đầu xe qua phía bên tay lái. Liền lúc đó một chiềc Mercedes màu xám cũng vừa trở tới ngay ngã tư sau lưng họ. Chiếc xe Mercedes thắng gấp lại cách sau xe Bayer chừng hai mươi thước. Ngồi sau tay lái chiếc Mercedes, Mackensen đâu mày lại để nhìn cho kỹ bảng số của chiếc xe phía trước đang từ từ chuyển bánh. Đúng là số xe bà Bayer cho hắn. Đạp chân lên ga, Mackensen theo bén gót xe của Bayer do Miller lái.
Miller chạy rất cẩn thận để còn tĩnh tâm chống đỡ với cơn say đang lần hồi vật chàng. Chàng không cho xe chạy về nhà Bayer ngay, mà đi về khách sạn chàng trú ngụ. Bayer đã lăn ra ghế ngáy sùi bọt mép.
Đến trước cửa khách sạn, Miller đánh thức Bayer dậy:
- Nào mở mắt dậy đi ông “thầy”! - Miller nói. - Lên phòng tôi tán dóc chơi!
Bayer mắt nhắm mắt mở nói:
- Tôi phải về nhà. Vợ tôi ghen lắm!
- Thôi kệ bà ấy. Lâu lâu một lần. Lên uống vài ly nữa nhắc lại chuyện xa xưa chơi!
Bayer gật gù:
- Xa xưa! Ôi thuở xa xưa ấy! Tuyệt diệu làm sao! - Hắn lè nhè.
Miller leo xuống xe đi vòng qua phía bên kia để đỡ Bayer.
Chiếc Mercedes xám vừa đến cuối đường, tắt hết đèn và cặp vô lề.
Miller đã thủ sẵn chìa khóa phòng trong người. Tên gác dan khách sạn đang há hốc mồm ngủ thật say. Bayer bắt đầu lảm nhảm.
- Đừng làm ồn! - Miller nói.
- Đuợc rồi, được rồi! - Bayer càu nhàu.
Rất may cho Miller là phòng chàng ở lầu hai, vì nếu ờ tầng cao hơn thì chắc chàng sẽ không bao giờ có đủ sức để vác Bayer lên đến đó cả. Chàng mở cửa phòng ra, bật đèn lên và đẩy Bayer ngồi xuống chiếc ghế độc nhất trong phòng, một chiếc ghế dựa có hai tay chống.
Ngoài đường, Mackensen đứng trước khách sạn ngắm nhìn mặt tối om của cao ốc này. Vào hai giờ sáng không còn ai thức hết, nhưng ngọn đèn vừa bật lên ở một ô cửa sổ trên tầng lầu hai cho Mackensen biết đó là phòng của Miller.
Tên đao phủ thủ của ODESSA đắn đo suy nghĩ không biết nên đi thẳng lên đó, đập nát đầu thằng phóng viên chó chết ra không. Có hai điểm làm hắn do dự. Qua cửa kính của phòng khách hẳn thấy rõ hình dáng của tên gác dan đang nằm ngủ. Chắc chắn tên này thế nào cũng để ý đến một người lạ mặt không phải là khách của khách sạn lẻn vô đó lúc hai giờ sáng, và chắc chắn sẽ báo cáo sự việc này nếu trong đêm có chuyện rắc rối gì xảy ra. Điểm thứ hai là tình trạng sức khỏe của Bayer. Mackensen đã thấy rõ tên mập này được Miller dìu lẻn phòng, và biết chắc không thể nào lôi tên này ra khỏi phòng, trong trường hợp vừa thanh toán xong Miller và phải chuồn thật gấp. Nếu Cảnh Sát túm Bayer thì chắc chắn Mackensen sẽ gặp phiền phức với Sài Kíu Tinh. Tên Bayer này bề ngoài trông có vẻ hiền lành chất phác, nhưng sự thật hẳn là một nhân vật rất quan trọng trong tổ chức ODESSA tại Tây Đức.
Điểm then chốt thuyết phục Mackensen chọn giải pháp thủ tiêu Miller bằng súng trường là một cao ốc đang xây cất dở dang trước mặt khách sạn. Sườn nhà của cao ốc này đã được dựng lên và có cả cầu thang nữa. Hắn có thể dùng chỗ này để chờ một dịp tốt nào đó tặng cho Miller vài viên kẹo đồng. Chắc chắn Miller sẽ không còn đi đâu nữa.
Mackensen lững thững đi về chiếc xe Mercedes, mở cốp ra lấy khấu súng săn thân yêu.
Bayer choáng váng mặt mày khi nhận quả đấm của Miller, phản ứng chậm lại vì chất men nên không tránh kịp quả đấm.
Chàng phóng viên chưa bao giở có dịp sử dụng những quả đấm học được tại quân trường khi thi hành nghĩa vụ quân dịch mười năm trước đây, và không mấy tin vào hiệu năng của chúng. Chiếc cổ to lớn của Bayer trông như một miếng thịt bắp đùi nhìn từ phía sau tới, và chiếc cổ này gợi ý cho Miller phải dùng hết sức đấm mạnh vô đó, thừa lúc hắn sơ ý.
Quả đấm tung vô chiếc cổ của Bayer không thuộc loại những quả đấm thôi sơn, dứt điểm, vì tay Miller quá mềm mại, quen cầm viết hơn là đánh đấm. Nhưng quả đấm này cũng đủ làm cho tên giao liên của Odessa đo ván. Đến khi tinh hồn lại thì đã thấy hai tay mình bị buộc chặt vô thành ghế rồi. Bayer chửi thề “Cái con c... gì đây!”. Hắn càu nhàu, lắc đầu qua lại cho hoàn hồn. Chiếc cà vạt của hắn được Miller tháo ra và buộc đầu gối trái hẳn vô chân ghế trái, trong khi sợi dây điện bứt ở điện thoại ra giữ chặt đầu gối mặt của Bayer vô chân ghế mặt. Hắn nhìn Miller với cặp mắt cú vọ, đầu óc bắt đầu thấm hiểu những gì xảy đến cho hắn.
Bayer giận dữ nói:
- Mày không có cách gì mang tao ra khỏi nước được. Mày sẽ không bao giờ dẫn độ tao về Israel được. Mày không có con c... gì để kết tội tao hết! Tao chưa bao giờ đụng đến dân Do Thái tụi mày!
Tiếng nói của Bayer bỗng tắt nghẽn vì một chiếc vớ được Miller nhét vô miệng hắn, đồng thời một chiếc khăn choàng được trùm lên đầu hắn.
- Nghe cho kỹ đây, thằng chó chết! Thứ nhất, tao không phải là người Do Thái được Israel gửi đến Stuttgart để bắt mày. Thứ hai, mày sẽ không được dẫn đi đâu hết. Mày sẽ ngồi trong phòng này và trả lời tất cả những câu hỏi của tao! Rõ chưa?
Miller ngừng nói một vài giây rồi tiếp:
- Những gì tao muốn biết trước khi mặt trời mọc là tên tuổi địa chỉ của tên thợ làm thông hành giả cho Odessa.
Miller đảo mắt nhìn quanh quất trong phòng, bắt gặp chiếc đèn để trên bản ngủ. Chàng đi đến đó rút phích cắm ra, và xách chiếc đèn về phía Bayer.
- Nghe tao nói đây Bayer. Tao sẽ gỡ chiếc khăn và chiếc vớ ra khỏi miệng mày. Nếu mày hét lên một tiếng, tao sẽ đập cái đèn này lên đầu mày. Tao không cần biết có đập nát đầu mày ra không!
Chiếc vớ vừa được gở ra thì Bayer đã rít lên:
- Đ.M đồ chó săn. Tao sẽ không cho mày biết cái con c... gì hết!
Bayer chưa kịp nói ra những điều chất chứa trong đầu thì lại bị chiếc vớ ấn vô miệng.
- Thật vậy sao? Để xem mày lỳ đến độ nào! Tao sẽ bẻ gãy từng ngón tay mày!
Miller chụp ngón út và áp út của bàn tay Bayer bẻ ngược về phía sau. Bayer ưỡn người theo độ cong của hai ngón tay hắn. Miller thúc mạnh cùi chỏ vô hông hắn, thả hai ngón tay này ra.
Gỡ chiếc vớ ra khỏi miệng Bayer, Miller nói láo:
- Tao quên cho mày biết tao mắc bệnh khổ dâm, và tao sẽ thỏa mãn thú tính của tao bằng cách bẻ gãy từng đốt tay của mày, xong đâu đó rồi tao sẽ tháo bóng đèn ra và lấy của quý mày nhét vô đó, cắm điện vô!
Bayer nhắm khít mắt lại, mồ hôi trên trán và trong người hắn đổ ra như tắm. Hắn lạy lục:
- Không! Không! Tao lạy mày, tha cho tao. Điện giật chỗ đó chắc tao chết mất!
- Mày dư biết cảm giác bị điện giật như thế nào rồi? - Miller nói, kê miệng sát tai Bayer.
Bayer vẫn chưa chịu mở mắt ra. Hẳn quá quen thuộc với cực hình này. Hai mươi năm trước, hắn là một trong số những chuyên viên tra tấn của SS, đã dợt Trung tá Yeo Thomas như một cái bao cát trong một căn hầm bí mật của nhà lao Fresnes tại Ba Lê. Hắn biết quá nhiều về cực hình tra điện, nhưng lần này hắn lại biết qua một hình thức khác, một kẻ chịu cực hình.
- Mày chịu nói chưa? - Miller rít lên. - Tên thợ là ai? Ở đâu?
Bayer lắc đầu:
- Tao nói không được. Tụi nó sẽ giết tao chết!
Miller nhét chiếc vớ vô miệng hẳn. Chàng nắm chặt ngón tay út của Bayer, nhắm mắt lại bẻ ngược ngón tay này về phía sau. Bayer chỉ kịp nghe một tiếng “rắc” khô khan thì đã nảy người ra phía sau, cụp người xuống trở lại và ói ngay vô chiếc vớ.
Miller rút vội chiếc vớ ra khỏi miệng trước khi hắn ngộp thở.
Đầu Bayer cụp về phía trước, và bữa cơm tối thịnh soạn cùng với hai chai rượu vang, một vài ly rượu mạnh, được hắn cho ra hết.
- Giờ mày chịu nói chưa? - Miller nói: - Mày còn tới chín ngón tay nữa.
Bayer nuốt nước miếng, nhắm mắt lại:
- Winzer! - Hắn thều thào.
- Ai? - Miller hỏi, nghe không rõ.
- Winzer. Klaus Winder. Hẳn là tên Thợ làm thông hành.
- Hắn thuộc loại nhà nghề?
- Hắn có nhà in!
- Ở đâu?
- Tụi nó giết tao chết!
- Tao giết mày trước nếu mày không chịu nói!
- Onasbruck! - Bayer thều thào.
Miller nhét chiếc vớ vô miệng Bayer, bắt đầu suy tính. Thằng thợ là Klaus Winder, chủ nhà in tại Onasbruck. Mở xách tay đựng cuốn nhật ký của Salomon Tauber và một vài tấm bản đồ, Miller lấy ra tấm bản đồ đường xá tại Đức quốc.
Xa lộ đến Onasbruck, một thành phố nằm ở miền Bắc Rhine và Westfalen, chạy qua Mannheim, Frankfurt, Dormund và Munster. Cuộc hành trình đi đến đó lâu chừng bốn năm giờ đồng hồ và thời gian này còn tùy thuộc vào tình trạng đường xá nữa.
Đồng hồ chỉ đúng ba giờ sáng ngày 21 tháng 2 khi Miller thẩm vấn xong Bayer và dò ra được xa lộ đến Onasbruck.
Bên kia đường, Mackensen đang cóng người lại vì lạnh trong căn phòng trên tầng lầu ba của cao ốc đang xây cất dở dang.
Đèn vẫn còn sáng trong phòng bên kia đường. Hắn không ngớt nhìn hết căn phòng này đến cửa ra vô của khách sạn. Hắn nghĩ, nếu Miller bước ra khỏi cửa này, hắn có thể chơi tay đôi với Miller. Hay ngược lại, nếu Miller thò đầu ra cửa sổ, hắn có thể cho tên phóng viên về bên kia thể giới với một viên đạn súng săn. Mackensen rùng mình, nắm chặt khẩu Remington 300. Trong tầm 15 thước, hắn sẽ không gặp khó khăn nào. Mackensen có thể đợi đến ngày mai cũng còn được, vì hẳn là một tên sát nhân nhà nghề và rất kiên nhẫn.
Miller lặng lẽ thu dọn hành lý. Miller cần Bayer ngồi yên trong sáu giờ đồng hồ là ít. Có thể tên cán bộ nòng cốt của Odessa sẽ không dám báo cáo sự việc cho thượng cấp hắn biết vì sợ bị trừng phạt nặng, nhưng Miller không thể dựa vào đó để quá lạc quan. Chàng phóng viên mất thêm vài giây nữa để siết chặt các mối dây trói Bayer và để ấn chiếc vớ vô miệng tên này. Miller đạp chiếc ghế Bayer ngồi ngã xuống đất để cho tên này hết cơ hội gây tiếng động bằng cách tự ý làm ngã chiếc ghế về phía sau hay qua một bên. Đảo mắt qua căn phòng một lần chót, Miller bước ra ngoài hành lang, khóa trái cửa phòng lại sau lưng mình.
Ra gần đền cầu thang, Miller bỗng rút chân lại vì vừa nghĩ ra một điều thật hay: tên gác dan có thể đã trông thấy chàng dìu Bayer lên cầu thang. Hắn sẽ nghĩ gì khi chỉ có một người lặng lẽ rời khỏi khách sạn không trả tiền phòng, để lại một người lạ mặt bị trói ké trong phòng?
Millet quay trở lại đi về cuối hành lang, nơi có một khung cửa hẹp ngó ra chiếc thang cấp cứu; bật then cài cửa lên, chàng phóng viên leo ra ngoài, bước xuống cầu thang cấp cứu.
Một vài phút sau Miller đã bước xuống đường và cố đi mau để đến chiếc Jaguar đậu cách đó gần bốn cây số. Tác dụng của rượu và những hoạt động vừa qua đã làm cho Miller mệt rã người ra và thèm ngủ kinh khủng, nhưng phải tìm Winzer cho ra trước khi Odessa được Bayer báo động.
Gần bốn giở sáng Miller mới trèo lên chiếc Jaguar và nửa giờ sau đã có mặt tại xa lộ miền Bắc đi Heillbrown và Mannheim.
Ngay lúc Miller vừa khóa cửa phòng lại, Bayer bắt đầu vùng vẫy để cố mở trói. Hẳn cố khum đầu về phía trước để dùng hàm răng và lưỡi tống chiếc vớ ra khỏi miệng, và để mở những chiếc gút dây ra. Nhưng thân hình phì nộn của hắn không cho phép hắn cụp đầu xuống, thêm vào đó chiếc vớ làm tê cứng hai hàm răng hắn lại.
Hắn bỗng chợt bắt gặp chiếc đèn ngủ nằm lăn lóc dưới đất.
Bóng đèn còn nguyện vẹn, và nếu đập nát bóng đèn này ra, những mảnh thủy tinh có thể cứa đứt sợi dây trói hắn.
Hắn phải mất hơn một giờ đồng hồ mới nhích chiếc ghế lại cạnh cây đèn, và vùng vẫy một hồi lâu hẳn mới làm úp chiếc ghế lại để đập nát bóng đèn ra.
Nghe nóỉ thì dễ nhưng thử cứa một sợi dây điện thoại với một mảnh kiếng vụn thì sẽ biết. Bayer làm việc này vói sức lực còn lại của một con thú bị thương, và đến gần bảy giờ sáng mới mở được trói.
Vào giờ đó Miller đang cho xe chạy vòng quanh công trường Cologne, cách Onasbruck chừng 150 cây số. Trời bắt đầu đổ mưa và nhịp điệu điều hòa của hai chiếc gạt nước qua lại trước mắt càng làm cho Miller buồn ngủ thêm.
Chàng phóng viên cho xe chạy chậm lại, không muốn thử thời vận làm gì trên xa lộ trơn trượt này khi đã đến gần đích.
Với bàn tay trái được tự do, Bayer gỡ chiếc vớ ra khỏi miệng, thở hổn hển, Căn phòng tỏa một mùi thum thùm pha trộn mồ hôi, đồ ói mửa, và whisky. Hắn tháo sợi dây trói tay phải hẳn ra, nhăn mặt khi vô tình đụng phải ngón tay út cong vẹo.
Ý nghĩ đầu tiên của hắn là chạy ra cửa, nhưng cửa này đã bị Miller khóa lại rồi. Hẳn thử gọi điện thoại nhưng vô hiệu. Hắn thất vọng đi cà nhắc lại phía cửa sổ kéo màn che qua một bên, vặn ổ khóa kéo cánh cửa về phía trong, Bên kia đường, Mackensen mắt nhắm mắt mở chợt thấy tấm màn che cửa được kéo qua một bên. Chụp lấy khẩu Remington, đưa lên vị thế nhắm, Mackensen chờ đợi. Dáng người bên kia đường mở cánh cửa sổ về phía trong, chưa kịp nhìn thấy bầu trời bên ngoài thì đã lãnh ngay một viên đạn.
Mackensen nhắm bắn thẳng vào cổ và Bayer tắt thở trước khi thân hình đồ sộ của hắn ngã xuống đất. Tiếng nổ của phát súng có thể làm cho dân chúng xung quanh đó lầm tưởng là tiếng động của một chiếc xe moto bị nghẹt ống thoát hơi.
Không chậm trễ một giây phút nào dù để liếc nhìn qua căn phòng bên kia đường, Mackensen chạy mau xuống đường trong vòng không đầy ba mươi giây. Và thêm nửa phút nữa là tên sát nhân nhà nghề đã an toàn rời khỏi đó trên chiếc Mercedes.
Khi ngồi vào tay lái rồi, Mackensen mới định thần lại và nhận biết mọi việc không trôỉ chảy như hắn dự tưởng. Hắn nghi ngờ đã lầm lẫn mục tiêu. Con người Sài Kíu Tinh ra lệnh thanh toán cao lớn. Bóng dáng của người hắn vừa cho đi tàu suốt mập và lùn, và không ai khác hơn là Bayer.
Nhưng tai nạn nghề nghiệp này chưa đến nỗi nào.
Thấy Bayer nằm chết trong phòng, thế nào Miller cũng phải co giò bỏ chạy và hắn cần có chiếc Jaguar.
Mackensen lái về chỗ chiếc Jaguar đậu hồi đêm hôm trước. Hẳn chỉ bắt đầu thực sự lo lắng khi bắt gặp khoảng trống giữa chiếc Opel và chiếc xe hàng nơi chiếc Jaguar đã đậu.
Mackensen không thể nào trở thành đao phủ thủ chính thức cho Odessa nếu dễ bị mất bình tĩnh. Hẳn từng bị kẹt trong nhiều vụ còn ác liệt hơn tai nạn này nữa. Hẳn dừng xe lại, gục đầu xuống tay lái suy nghĩ, và khi tìm ra được cách đối phó với Miller thì chàng phỏng viên đã ở cách hẳn hàng bốn năm trăm cây số!
Mackensen nghĩ bụng nếu Miller còn để cho Bayer sống đến sáng là vì tên phóng viên đã moi ra được những gì hắn cần biết. Trong trường hợp này. Miller chỉ được một mớ tin tức sống thôi, chưa thể đem ra áp dụng được, và chỉ Sài Kíu Tinh mới biết được loại tin tức nào Bayer có thể đã tiết lộ cho Miller. Nghĩ vậy, dù biết không tránh khỏi bị Sài Kíu Tinh xài xế, Mackensen vẫn gọi điện thoại cho tên trùm Odessa. Hẳn mất mười phút mới tìm ra được một phòng điện thoại công cộng,
Sài Kíu Tinh không dằn được cơn tức giận khi được Mackensen thông báo tin tức không lành. Tên trùm ODESSA chửi Mackensen không tiếc lời. Hẳn hét lên trong điện thoại:
- Phải tìm cho ra hắn nghe chưa, đồ vô dụng! Bằng mọi giá. Dù hắn lên trời đi nữa chú mày cũng phải lên trên đó để tìm cho ra hẳn, rõ chưa!
Mackensen giải thích cho tên trùm ODÈSSA biết nhu cầu hiện tại của hẳn là loại tin tức nào mà Bayer có thể đã tiết lộ cho Miller trước khi bị nạn.
Bên kia đường dây, Sài Kíu Tinh im lặng. Hẳn chợt hét lên trong điện thoại:
- Chết cả lũ rồi! Thằng Thợ. Miller biết được danh tánh của tên Thợ rồi!
- Tên Thợ nào, thưa đồng chí? - Mackensen hỏi.
- Tên Thợ làm thông hành chớ còn ai nữa, thằng ngu!
Sài Kíu Tinh lấy lại bình tĩnh:
- Để tôi liên lạc trước cho hẳn biết để phòng! Đúng rồi. Chắc chắn thể nào thằng Miller cũng đến gặp tên Thợ.
Tên trùm ODESSA cho Mackensen biết địa chỉ tên Thợ và nói:
- Chú hãy đến Onasbruck ngay lập tức. Tìm ra Miller ở chỗ tôi vừa cho chú biết. Nếu không thấy hắn, hãy mở mắt ra cho lớn để tìm chiếc Jaguar.
Sài Kíu Tinh cúp máy. Hắn gọi điện thoại lại cho Ban Chỉ dẫn điện thoại. Khi được biết số điện thoại vừa hỏi, hắn liền xin liên lạc với Tổng đài Onasbruck.
Tại Stuttgart, Mackensen gượng gạo nói vài tiếng “Allo” trong điện thoại, và sau một đôi phút không thấy ai trả lời, hắn thất vọng gác ống điện thoại lên giá, trở ra xe.
Đầu óc hắn không muốn nghĩ đến công việc sắp đến. Hắn mệt mỏi không kém gì Miller, lúc đó đang ở cách Onasbruck chừng 50 cây số. Cả hai đã không chợp mắt trong vòng hai mươi bốn giờ qua, riêng Mackensen không có gì trong bao tử ngoài buổi cơm trưa hôm trước.
Chưa hết lạnh vì phải ngồi cóng người suốt nửa đêm hôm trước, miệng thì thèm một tách cà phê nóng, hắn chán nản leo lên xe bắt đầu cuộc hành trình về phía Bắc.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét