Thứ Bảy, 14 tháng 12, 2019

Thiên Thần Nổi Loạn - Chương 30

Thiên Thần Nổi Loạn

Tác giả: Anatole France
Dịch giả: Đoàn Phú Tứ
Nhà xuất bản Hội nhà văn - 1987

Chương 30

Kể lại một vụ chuyện danh dự, và ở đó ta sẽ xét xem có đúng như Arcade chủ trương, là kinh nghiệm những lỗi lầm của chúng ta làm cho chúng ta trở nên tốt hơn không.

Đấu trường là khu vườn của đại tá Manchon, ở đại lộ Hoàng hậu, ở Versailles. Các ông de la Verdelière và le Truc de Ruffec, cả hai đều có một thực tiễn thường xuyên về chuyện danh dự và biết rành mạch các quy tắc, trợ tá cho Maurice d’Esparvieu.
Không có một cuộc quyết đấu nào, trong giới xã giao Thiên chúa giáo, mà không có ông de la Verdelière, và khi yêu cầu đến tay kiếm sĩ đó, Maurice đã làm đúng theo tục lệ, không phải là không có đôi chút ngại ngùng, vì anh đã là nhân tình ai cũng biết của bà de la Verdelière; song ông de la Verdelière không thể coi là một người chồng được; đó là một thiết chế.
Còn ông le Truc de Ruffec, thì chuyện danh dự là nghề nghiệp duy nhất của ông mà người ta được biết và nguồn thu nhập duy nhất được thú nhận của ông; và, khi có những kẻ ác ý nhận xét điều đó ở chốn xã giao, thì người ta hỏi họ xem ông le Truc de Ruffec còn có thể theo đuổi cái nghề nghiệp nào tốt đẹp hơn là nghề nghiệp danh dự.
Các người làm chứng của Arcade là hoàng thân Istar và Théophile. Không phải là sẵn lòng và hoàn toàn tự nguyện mà thiên thần nhạc sĩ đã đến tham dự vào việc này. Anh vốn ghét mọi sự hung bạo và phản đối các cuộc độc chiến. Tiếng nổ của súng lục, tiếng loảng xoảng của những thanh kiếm, anh không chịu nổi, và trông thấy máu chảy là anh ngất đi. Anh chàng con trời hiền lành đó đã khăng khăng từ chối làm trợ tá cho người anh em Arcade và, để làm cho anh ta quyết tâm, chàng Chérubin đã phải dọa đập một chai axit vào đầu anh ta.
Ngoài những đấu thủ, những người làm chứng và những thầy thuốc, thì trong khu vườn chỉ có vài sĩ quan của đội quân đồn trú ở Versailles và nhiều nhà báo. Tuy rằng chàng trai d’Esparvieu chỉ được mọi người biết là một con nhà tử tế và Arcade thì cả trần gian không ai biết đến, nhưng cuộc quyết đấu cũng đã thu hút khá đông người hiếu kỳ, và các cửa sổ những nhà lân cận đầy ứ những nhà nhiếp ảnh, những phóng viên và những người trong xã hội thượng lưu. Cái điều đã kích thích rất nhiều đầu óc hiếu kỳ, đó là người ta biết rằng một người đàn bà là nguyên nhân của chuyện xô xát. Nhiều người nói đến tên Bouchotte, số đông hơn lại chỉ bà des Aubels. Ngoài ra, người ta đã để ý nhận thấy rằng những cuộc quyết đấu mà có ông de la Verdelière làm người làm chứng vẫn thu hút tất cả Paris.
Trời hôm đó xanh dịu, khu vườn đầy hoa hồng đang nở, một con sáo hót trên một cành cây.
Ông de la Verdelière, tay cầm can, điều khiển cuộc đấu, đặt hai mũi kiếm đối điểm với nhau và nói:
- Nào, mời các ngài!
Maurice d’Esparvieu tấn công bằng những mũi double(1) và những cái đập má lưỡi kiếm vào nhau. Arcade trở về thế thủ, cầm kiếm giữ thế. Hiệp đầu không có kết quả. Các người làm chứng đều có ấn tượng là anh d’Esparvieu đương ở trong một trạng thái cáu kỉnh bực dọc đáng ngại, và địch thủ của anh thì có lẽ không biết mệt là gì. Sang hiệp thứ hai, Maurice tấn công tới tấp, dang hai tay và để hở ngực. Anh vừa bước đi vừa tấn công, đâm một nhát thẳng, mũi kiếm của anh trúng Arcade vào vai. Ai cũng tưởng là anh này bị thương. Và các người làm chứng ngạc nhiên nhận thấy rằng chính là Maurice bị một vết xây xước ở cổ tay. Maurice khẳng định rằng anh không cảm thấy gì hết và bác sĩ Quille tuyên bố, sau khi xét nghiệm, rằng khách hàng của ông có thể tiếp tục cuộc đấu.
Sau một khắc đồng hồ tuân theo quy tắc, cuộc đấu tiếp tục. Maurice tấn công hung dữ. Đối thủ của anh rõ ràng là gượng nhẹ anh, và, điều này làm cho ông de la Verdelière băn khoăn, anh ta có vẻ không chú ý gì mấy đến sự chống đỡ. Vào đầu hiệp thứ năm, một con chó xù đen vào vườn không biết bằng cách nào, từ một khóm hồng xổ ra, chạy vào khu vực dành cho các đấu thủ và mặc dầu bị gậy đánh và tiếng kêu hô đuổi, nó chui xuyên qua hai cẳng chân của Maurice. Hình như anh này bị cánh tay cứng đờ, chỉ còn dùng vai để đẩy lưỡi kiếm vào đối thủ không thể bị thương của anh. Anh đâm một nhát thẳng, tự mình lao vào mũi kiếm của đối thủ và bị một vết thương sâu ở chỗ gập khuỷu tay.
Ông de la Verdelière dừng cuộc đấu, nó đã diễn ra được một tiếng rưỡi đồng hồ. Maurice có cảm giác bị một cơn choáng đau đớn. Người ta đặt anh ngồi trên một cái ghế dài sơn xanh dựa vào một bức tường có cây hoàng đậu leo. Trong khi các phẫu thuật viên băng bó vết thương, anh gọi Arcade và chìa cho anh ta cánh tay bị thương của mình. Và khi người thắng trận, buồn bã về cuộc chiến thắng của mình, đi lại gần, Maurice ôm hôn anh ta một cách âu yếm và bảo rằng:
- Hãy có lượng khoan dung, Arcade ạ, hãy tha thứ cho tôi cái tội phản bội của anh. Bây giờ chúng ta đã đánh nhau xong rồi, tôi có thể yêu cầu anh dàn hòa với tôi.
Anh vừa ôm hôn bạn vừa khóc, và nói thầm với anh ta:
- Lại thăm tôi và đưa cả Gilberte lại.
Maurice, đã bất hòa với bố mẹ, bảo đưa anh đến căn hộ bé nhỏ tầng dưới ở phố La Mã.
Vừa mới ngả lưng trên giường, ở trong cùng gian buồng có những màn che buông rủ như ở cái giây phút hiện hình, anh đã trông thấy Arcade và Gilberte lại gần. Anh bắt đầu đau dữ dội vì vết thương; nhiệt độ của anh tăng, nhưng anh bình thản, hài lòng, sung sướng. Thiên thần và chị đàn bà, nước mắt chứa chan quỳ xuống chân giường. Anh chập đôi bàn tay của họ vào lòng bàn tay trái của anh, mỉm cười với họ, hôn mỗi người một cái hôn âu yếm:
- Bây giờ tôi chắc chắn sẽ không giận nhau với hai người nữa; hai người sẽ không lừa dối tôi nữa, vì tôi biết rõ hai người cái gì cũng dám làm.
Gilberte khóc lóc thề với Maurice rằng anh đã bị lầm vì những vẻ bề ngoài hư ảo, rằng bà ta không hề lừa dối anh với Arcade, rằng chưa bao giờ bà ta lừa dối anh. Và trong một cơn sôi nổi chân tình, bà ta cũng tự thuyết phục mình như thế.
- Em tự làm hại mình đấy, Gilberte, - anh chàng bị thương trả lời. - Chuyện đã có thật, và cần thiết phải như thế. Và như thế là tốt, Gilberte, em đã làm đúng lẽ khi lừa dối anh một cách xấu xa, với người bạn tốt nhất của anh, trong gian phòng này. Ví thử em đã không làm như thế, thì chúng ta đã không được đoàn tụ cả ba ở đây và anh đã không được hưởng cái vui sướng lớn nhất đời anh. Ồ! Gilberte, em đã sai lầm mà chối những cái đã chu toàn và hoàn hảo.
- Nếu anh muốn, anh bạn ạ, - Gilberte đối đáp, hơi có vẻ chua chát, - thì em sẽ không chối nữa. Nhưng chỉ là để vui lòng anh.
Maurice kéo nàng ngồi lên giường và mời Arcade ngồi vào chiếc ghế bành.
 - Anh bạn ơi, - Arcade nói, - tôi vốn ngây thơ vô tội. Tôi đã hóa thân làm người. Ngay tức khắc, tôi đã làm điều tội lỗi. Chính như vậy mà tôi đã trở thành tốt hơn.
- Ta chả nên nói ngoa ngoắt cái gì, - Maurice nói, - và ta hãy đánh một ván bài bridge(2).
Nhưng anh chàng bệnh nhân, vừa thoáng trông thấy bài của mình có ba con át và báo không bài chủ, thì mắt anh ta đã mờ đi; những cây bài tuột khỏi tay, đầu nặng trĩu rơi vật xuống gối và anh ta kêu la nhức đầu dữ dội. Hầu như ngay tức khắc, bà des Aubels ra đi làm những cuộc thăm viếng; bà nhất định ra mặt trong giới xã giao để cải chính bằng tư thế vững vàng và bình thản những lời đồn đại về bà. Arcade đưa tiễn bà ra đến tận cửa và bằng một cái hôn, thở hít vào những hương thơm mà anh đem trở vào gian phòng Maurice đang thiu thiu ngủ.
- Tôi rất hài lòng, - anh chàng này nói thì thầm, - rằng mọi chuyện đã xảy ra như thế.
- Cái đã có, là đúng lẽ phải có, - thiên thần trả lời. - Tất cả các thiên thần phản loạn như tôi, thì lâm thời cũng xử sự như tôi với Gilberte. “Các đàn bà, vị Sứ đồ(3) đã nói, phải đeo mạng che khi cầu nguyện, vì những thiên thần”. Và vị Sứ đồ nói như vậy bởi vì ông ấy biết rằng các thiên thần rối loạn khi trông thấy những người phụ nữ đẹp. Họ vừa đụng chân đến trái đất là họ thèm muốn và thực hiện ngay cái trò ôm ấp hôn hít của người trần. Sự ôm siết của họ thật ghê gớm, và thú vị; họ có bí quyết những vuốt ve mơn trớn không lời nào tả xiết, nó dìm các con gái của loài người vào những vực thẳm của khoái lạc. Đổ vào môi của những nạn nhân sung sướng của họ một thứ mật ong nóng bỏng, làm chảy lâu dài trong tĩnh mạch của những nạn nhân đó những dòng thác lửa mát rượi, họ làm những nạn nhân đó mệt nhừ và sướng khoái.
- Cút đi, đồ nhơ nhớp! - Anh chàng bị thương quát lên.
- Một lời nữa thôi! - Thiên thần nói, - chỉ một lời thôi, anh Maurice thân mến ạ, để thanh minh cho tôi, rồi tôi sẽ để anh yên nghỉ lặng lẽ. Chẳng gì bằng những tham chiếu tốt. Để cho anh tin chắc là tôi không lừa dối anh, Maurice ạ, anh hãy tham khảo về chuyện ôm ấp hôn hít của các thiên thần với đàn bà: Justin(4), Những biện giải I và II; Flavius Josephus, Những cổ tích Do Thái, quyển I, chương III; Athénagore, Nói về sự phục sinh; Lactance(5), quyển II, chương XV; Tertullien(6), Nói về tấm mạng che của những gái Đồng trinh; Marc d’Éphèse trong Psellus; Eusèbe(7), Chuẩn bị tin lành quyển V, chương IV; thánh Ambroise, trong quyển Noé và Tàu hồng thủy, chương V; thánh Augustine, Đô thành của Đức Chúa Trời, quyển XV, chương XXIII; cha Meldonat, tu sĩ dòng tên, Khảo luận về ma quỷ trang 218; Pierre Lebyer cố vấn của nhà vua...
- Arcade, im đi, hãy thương tôi! Im đi! Và đuổi con chó kia đi, - Maurice kêu lên, mặt đỏ nhừ, mắt lồi ra khỏi đầu, và trong cơn mê sảng, anh tưởng trông thấy trên giường anh một con chó xù đen.
Bà de la Verdelière, vốn có kinh nghiệm thực tiễn về tất cả mọi phong cách ưu nhã của giới xã giao và của dân tộc, được kể vào hàng những nữ khán hộ duyên dáng nhất của xã hội thượng lưu Pháp. Bà thân hành đến hỏi thăm tin tức của Maurice và tự nguyện chăm sóc bệnh nhân. Nhưng dưới sự khuyến dụ cực lực của bà des Aubels, Maurice đóng cửa không tiếp bà kia. Những biểu lộ đồng cảm đổ xô đến nhà Maurice. Chồng chất trên một cái khay, những danh thiếp trình bày cho anh vô vàn những góc gấp(8) xinh xinh. Ông le Truc de Ruffec, là một trong những người đầu tiên đem đến cho căn hộ tầng dưới nhà ở phố La Mã sự biểu lộ của mối đồng cảm cứng cỏi của ông ta, và chìa bàn tay trung thực, hỏi xin chàng trẻ d’Esparvieu, như một con người danh dự hỏi xin một con người danh dự, hai mươi nhăm louis để trả một món nợ danh dự.
- Úi chà, anh Maurice thân mến ơi, đó là những việc nhờ cậy mà người ta không phải bất cứ ai cũng hỏi đâu.
Cùng ngày hôm đó, ông Gaétan đến bắt tay anh cháu, anh này giới thiệu với ông chàng Arcade.
- Đây là thiên thần hộ mệnh của cháu, mà bác đã thấy có một cái bàn chân rất đẹp, khi trông thấy vết in những bước của nó trên lớp bụi phấn phát hiện, bác ạ. Anh ấy đã hiện hình cho cháu, năm ngoái, cũng trong gian buồng này... Bác không tin à?... Vậy mà đúng sự thật đấy!
Và ngoảnh lại phía thiên thần.
- Anh nghĩ sao, Arcade? Linh mục Patouille là một nhà thần học danh tiếng và một giáo sĩ tốt, không tin rằng anh là một thiên thần; và ông bác Gaétan của tôi đây, không thuộc kinh bổn và không có tín ngưỡng, cũng không tin gì hơn. Cả hai vị đều phủ nhận anh. Một vị vì có tín tâm, vị kia vì không có tín tâm. Theo chuyện đó, thì người ta có thể chắc chắn rằng tiểu truyện của anh, nếu có bao giờ anh kể lại, sẽ không có vẻ gì là giống chuyện thực. Vả chăng, ví thử có kẻ nào tính chuyện kể lại truyện đó, thì kẻ đó không phải là một người thức giả và sẽ không tiếp thụ được nhiều lời tán thành lắm. Vì nó chẳng đẹp gì, cái tiểu truyện của anh! Tôi yêu anh, nhưng tôi xét đoán anh. Từ khi anh rơi vào chủ nghĩa vô thần, anh đã trở thành một kẻ vô đạo khả ố. Thiên thần xấu, bạn xấu, phản bội, sát nhân. Vì tôi nghĩ rằng chính là để hạ sát tôi mà trên đấu trường, anh đã xua một con chó xù đen cho nó chui vào giữa hai cẳng chân của tôi.
Thiên thần nhún vai và nói với Gaétan:
- Than ôi, thưa ngài, - anh nói, - tôi không lấy làm ngạc nhiên thấy được ít tín nhiệm của ngài: tôi có nghe nói rằng ngài đã bất hòa với bầu trời Do Thái Cơ đốc giáo, nó là quê hương của tôi.
- Thưa ông, - Gaétan trả lời, - tôi không tin gì lắm ở Jéhovah nên chẳng tin được ở những thiên thần của ông ta.
- Thưa ngài, kẻ mà ngài gọi tên là Jéhovah, thật ra là một thần sáng tạo dốt nát và thô thiển, tên là Ialdabaoth.
- Thế thì, thưa ông, tôi hoàn toàn sẵn sàng tin ở y. Y dốt nát, thiển cận: sự hiện hữu của y chẳng làm khó khăn gì cho tôi nữa. Hiện trạng của y ra sao?
- Xấu! Chúng tôi sắp lật đổ y tháng sau.
- Đừng nên tự phụ, ông ơi. Ông làm cho tôi nghĩ đến ông anh rể của tôi, là ông Cuissart, từ ba chục năm nay, mỗi buổi sáng lại chờ đợi được nghe tin nền Cộng hòa sụp đổ.
- Anh xem đấy, Arcade, - Maurice kêu lên, ông bác Gaétan của tôi cũng đồng ý kiến với tôi. Ông biết rằng anh sẽ không thành công.
- Thế vì lẽ gì, xin ngài cho biết, thưa ngài Gaétan, ngài lại cho rằng tôi sẽ không thành công?
- Ông Ialdabaoth của anh hãy còn mạnh lắm ở thế giới này, nếu không ở thế giới bên kia. Ngày xưa ông ta được ủng hộ bởi các thầy tế lễ của ông ta, bởi những kẻ tin ở ông ta. Ngày nay ông ta lại có chỗ tựa, là những người không tin ở ông ta, những nhà triết học. Mới đây, có một anh đồ gàn muốn đưa khoa học vào chỗ phá sản, để cải thiện công việc của Nhà thờ. Và người ta đã sáng chế ra, những ngày gần đây, chủ nghĩa thực dụng cố ý để làm cho tôn giáo được tín nhiệm trong những đầu óc hay lý luận.
- Ngài đã nghiên cứu chủ nghĩa thực dụng?
- Đâu có! Tôi xưa kia phù phiếm và chuyên tâm về siêu hình học. Tôi học Hegel và Kant(9). Có tuổi rồi, tôi trở thành nghiêm túc và chỉ bận tâm về những hình thể cảm thấy được, những cái mà mắt hoặc tai có thể lĩnh hội được. Nghệ thuật là tất cả con người. Ngoài ra chỉ toàn là mơ mộng.
Cuộc đàm thoại tiếp tục đến tận chiều tối, và trong đó nghe thấy có những chuyện tục tĩu đến làm đỏ mặt không những một anh giáp kị binh, nói như thế chưa có nghĩa gì lắm, vì các giáp kị binh thường trinh khiết, mà cả một phụ nữ Paris nữa.
Ông Sariette đến thăm học trò cũ. Khi ông bước vào gian phòng, cái tượng bán thân của Alexandre d’Esparvieu hiện lên bên trên cái đầu hói của nhà bảo quản thư viện. Ông ta lại gần giường. Các tấm màn gió màu xanh, tủ gương, lò sưởi, bị thay thế ngay tức khắc bởi những tủ đứng đầy sách của căn phòng các hình cầu và các tượng bán thân, và không khí bị ngạt ngay tức khắc bởi những cặp các tông, những hồ sơ và những tấm thẻ. Ông Sariette không được phân biệt với thư viện của ông lắm, nên người ta không thể tưởng tượng được ông và trông thấy ông mà không có nó. Chính bản thân ông cũng xanh xao hơn, mờ nhạt hơn, mơ hồ hơn, huyền tượng hơn cả những hình tượng mà ông gợi nên.
Maurice trở thành rất hiền hậu, lấy làm cảm động vì sự biểu lộ tình thân ái đó.
- Mời ông ngồi xuống, ông Sariette, ông đã biết bà des Aubels rồi. Tôi xin giới thiệu với ông, anh Arcade, thiên thần hộ mệnh của tôi. Chính anh ấy, trong khi còn vô hình, đã tàn phá trong hai mươi năm trời cái thư viện của ông, đã làm ông mất uống mất ăn và đưa ông đến chỗ suýt nữa phát điên. Chính anh ấy đã vận chuyển từ căn phòng những Hình cầu sang biệt thất của tôi hàng đống những thứ sách cũ. Một hôm, anh ấy đã cướp đi, ngay trước mũi ông, chả biết cuốn sách quý báu nào đó và đã là nguyên nhân để ông ngã trong cầu thang. Một hôm khác, anh đã lấy của ông một cuốn sách khâu chỉ của ông Salomon Reinach và bắt buộc phải đi theo tôi (vì, từ hồi đó tôi được biết, không bao giờ anh ấy rời tôi), anh đánh rơi cuốn sách xuống rãnh nước ở phố Bà Chúa. Ông hãy lượng thứ cho anh ấy, ông Sariette ạ, anh ấy không có túi. Anh ấy thích vô hình. Tôi tiếc cay tiếc đắng, ông Sariette ạ, rằng tất cả các cuốn sách của ông không bị hủy diệt bởi một trận hỏa hoạn hoặc bị đắm chìm trong một trận lụt. Chúng nó đã làm cho thiên thần của tôi mất trí, anh ta hóa thành người và chẳng còn tín ngưỡng và đạo lý gì nữa. Chính tôi, bây giờ, là thần hộ mệnh cho anh ấy. Có trời biết tất cả những chuyện này rồi sẽ ra sao!
Khi nghe bài diễn từ đó, nét mặt ông Sariette biểu lộ một nỗi buồn vô hạn, không thể nào nguôi được, vĩnh viễn muôn đời, một nỗi buồn của xác ướp. Đã đứng dậy để cáo lui, ông quản thư viện nói thầm với Arcade:
- Anh chàng tội nghiệp mệt nặng lắm; nói mê nói sảng.
Maurice gọi ông già lại:
- Hãy ở lại đã nào, ông Sariette. Ông đánh một ván bài bridge với chúng tôi. Ông Sariette ạ, ông hãy nghe lời khuyên của tôi. Đừng làm như tôi, đừng giao du với những bạn bè xấu. Vì ông sẽ bị nguy hại. Ông Sariette, đừng đi vội, tôi còn có cái này rất quan trọng phải yêu cầu ông: khi nào ông trở lại thăm tôi, xin ông đem đến cho tôi một quyển sách về chân lý của tôn giáo để tôi nghiên cứu. Tôi cần phải trả lại cho thiên thần hộ mệnh của tôi lòng tin mà anh ấy đã mất.
--------------
Chú thích.

1. Double: thuật ngữ trong kiếm thuật, chỉ một kiểu đánh kiếm.

2. Bài bridge: một trò đánh bài lá 52 quân, rất thịnh hành trong giới thượng lưu.

3. Vị sứ đồ (l’apôtre): đây là sứ đồ thánh Paul, trong bức thư thứ nhất gửi cho người Corinto (XI, 5-6, 10).

4. Justin: thánh Justin, tác giả bộ sách Biện giải Cơ đốc giáo (Apologie de la religion chrétienne), tử vì đạo năm 165.

5. Lactance: nhà biện giải Cơ đốc giáo, sinh năm 250 ở châu Phi, tác giả sách Nói về công cuộc của Đức Chúa Trời (De l’œuvre de Dieu) và Những thiết chế thần thánh (Les institutions divines).

6. Tertullien: giáo sư của giáo hội, sinh ở Carthage.

7. Eusèbe (265-340): Giám mục địa phận Césarée (thành phố xưa ở Palestine, nay đã điêu tàn), tác giả bộ sách nổi tiếng Lịch sử truyền giáo (Histoire ecclésiastique).

8. Góc gấp (cornes): theo tục lệ ở Pháp, khi thân hành đến thăm viếng ai, mà chủ nhà đi vắng hoặc mắc bận, ốm đau, không được gặp, thì để lại tấm danh thiếp có gập góc nhỏ, để phân biệt với những tấm danh thiếp gửi bưu điện hoặc sai người nhà đưa đến.

9. Hegel, Kant:
- Hegel (1770-1831), nhà triết học Đức, chủ trương biện chứng phép duy tâm.
- Kant (1724-1804), nhà triết học Đức, chủ trương rằng những sự vật ta được biết chỉ là hiện tượng (phénomènes), còn những sự vật tự thân gọi là bản thể (noumènes) thì ta không thể nào biết được.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét