Thiên Thần Nổi Loạn
Tác giả: Anatole France
Dịch giả: Đoàn Phú Tứ
Nhà xuất bản Văn Học - Hà Nội, 1987
Chương 1
Đôi ba dòng về lịch sử một dòng họ Pháp từ 1789 đến
nay.
Dưới bóng nhà thờ St. Sulpice, dinh thự của
dòng họ d’Esparvieu sừng sững ba tầng cao khắc khổ giữa một cái sân xanh rêu và
một khoảnh vườn, đời này qua đời khác, đã bị thu hẹp bởi những tòa nhà xây càng
ngày càng cao hơn và sát hơn, và từ trong vườn đó hai cây dẻ lớn vẫn còn vươn
lên những cái chòm heo hắt. Chính đó, từ 1825 đến 1857, là nhà ở của bậc danh
nhân dòng họ, ngài Alexandre Bussart d’Esparvieu, phó chủ tịch Tham chính viện
dưới Chính thể tháng Bảy, viện sĩ Học viện
Khoa học nhân sinh và chính trị (1), tác giả bộ sách Khảo luận về các thiết
chế dân sự và tôn giáo của các dân tộc, gồm ba tập in khổ 13 x 19, tác phẩm
đáng tiếc là chưa hoàn thành.
Nhà lý thuyết lỗi lạc, theo chế độ quân chủ
tự do đó có người thừa kế cả về huyết thống, cơ nghiệp và vinh quang là
Fulgence-Adolphe Bussart d’Esparvieu sau này là nguyên lão nghị viên (2) dưới
thời Đệ nhị đế chế (3), đã làm phình to sản nghiệp của mình bằng cách tậu những
khu đất sau này sẽ nằm hai bên đại lộ Nữ Hoàng và đã đọc một bài diễn văn xuất
sắc bênh vực quyền lực thế tục của các Giáo Hoàng.
Fulgence có ba con trai. Con cả,
Marc-Alexandre nhập quân ngũ và làm nên sự nghiệp lớn: ông ta nói giỏi. Con thứ
hai, Gaétan, không thấy biểu lộ một năng lực đặc biệt nào, thường sống nhiều ở
nông thôn săn bắn, nuôi ngựa, chơi nhạc và vẽ tranh. Con thứ ba, René, từ tuổi
thơ ấu đã được hướng theo nghề pháp quan, đã từ chức phó biện lý để khỏi dính dấp
vào việc thi hành những sắc lệnh của Ferry về các giáo đoàn, và, sau này, dưới
thời tổng thống Fallières (4) thấy đã trở lại thời kỳ đàn áp các tín đồ Cơ đốc
giáo (5) ông đã đem tài học và lòng nhiệt thành ra phục vụ cho Nhà thờ bị ngược
đãi.
Kể từ thỏa ước năm 1801 (6) đến tận những
năm cuối cùng Đệ nhị đế chế, mọi người trong dòng họ d’Esparvieu đều đi lễ nhà
thờ để làm gương. Thâm tâm họ hoài nghi, họ coi tôn giáo là một phương tiện trị
dân. Các ông Marc và René là những người đầu tiên trong tầng lớp ấy đã tỏ ra có
một niềm mộ đạo chân thành. Ông tướng thì khi còn là đại tá đã hiến dâng trung
đoàn của ông cho nhà thờ Thánh Tâm (7) và ông theo đạo với một niềm sốt sắng rõ
rệt, dù là một quân nhân, tuy ai cũng biết rằng lòng sùng tín, con gái của Trời,
đã chọn trái tim các tướng lĩnh Đệ tam Cộng hòa làm nơi cư ngụ yêu thích hơn cả
trên trái đất. Lòng tín mộ cũng có những bước thăng trầm. Dưới chế độ cũ, dân
chúng tin đạo; giai cấp quý tộc thì không, cả giai cấp tư sản có học thức cũng
không. Dưới Đệ nhất đế chế, quân đội từ trên xuống dưới hết sức vô tín ngưỡng.
Ngày nay dân chúng chẳng tin cái gì cả.
Giai cấp tư sản muốn tin và đôi khi đạt tới niềm tin, cũng như các ông Marc và
René d’Esparvieu đã đạt được. Trái lại, người anh em ruột của họ, ông Gaétan
nhà quý tộc nông thôn lại không đạt được cái đó: ông ta theo thuyết bất khả
tri, như người ta thường nói trong chốn xã giao, để khỏi phải dùng các từ ngữ
khả ố là tự do tư tưởng. Và ông tuyên bố rõ là theo thuyết bất khả tri, trái với
phép lịch sự muốn chuyện đó phải kín đáo. Trong thời đại chúng ta đây, có biết
bao nhiêu là cách tin và không tin, các sứ giả sau này khó mà lần được ra. Cũng
như chúng ta, liệu có lần ra nổi tình trạng tín ngưỡng thời kỳ đa thần giáo hay
không?
Là người Cơ đốc giáo nhiệt thành, René
d’Esparvieu lại gắn bó chặt chẽ với những tư tưởng tự do mà tổ tiên ông đã truyền
lại cho như một thứ hương hoa thiêng liêng. Bị dồn đến bước phải chống lại nền
Cộng hòa vô thần và Dân chủ tiến bộ, ông ta vẫn còn tuyên bố là thuộc phái Cộng
hòa. Chính là nhân danh tự do, mà ông đòi Nhà thờ phải có độc lập và chủ quyền.
Trong thời gian có những cuộc tranh luận lớn về sự phân lập (8) và những cuộc
tranh chấp về các vụ Tổng kê (9), các hội nghị Giám mục và các hội đồng giáo hữu
đều họp ở nhà ông ta.
Ở phòng khách lớn màu xanh lục, nơi các thủ
lĩnh có uy tín nhất của phe đảng Thiên chúa giáo tụ hội lại, chủ giáo, tướng lĩnh,
nghị viện, hạ nghị viện, nhà báo, mọi tâm hồn hiện diện đều hướng về La Mã với
một niềm thuần phục dịu dàng hoặc một vẻ thuận lòng cưỡng ép, và ông
d’Esparvieu, tỳ khuỷu tay trên tấm đá hoa mặt lò sưởi, đem giáo luật đối lập với
dân luật và hùng hồn phản kháng sự cưỡng đoạt tài sản của Giáo hội nước Pháp,
hai bức họa cổ câm lặng, bất động, ngó nhìn cuộc hội họp hiện đại. Bên phải lò
sưởi là bức họa của David (10), vẽ ông Romain Bussart, dân cày ở Esparvieu, mặc
áo ngắn và quần cụt bằng vải gai, vẻ mặt thô và láu, hơi chút ngạo nghễ. Ông ta
có lý do để cười: ông lão đã xây nên cơ nghiệp của dòng họ bằng cách mua những
tài sản của Nhà thờ. Bên trái là bức họa của Gérard (11) vẽ chân dung nam tước
Emile Bussart d’Esparvieu y phục đại khánh tiết, lòe loẹt những huân chương, là
con trai ông lão nông dân kia, đã từng là giám cung của đế chế (12) và làm chưởng
ấn đại thần dưới triều vua Charles X, chết năm 1837. Khi đương giữ chức vụ ủy
viên quản lý tài sản giáo hội và khi chết vẫn lẩm nhẩm những câu thơ nho nhỏ
trong tác phẩm Nàng trinh nữ (13).
Năm 1888 René d’Esparvieu đã lấy
Marie-Antoinette Coupelle, con gái nam tước Goupelle, chủ xưởng luyện sắt ở
Blainville trong tỉnh Haute Loire. Bà René d’Esparvieu, từ năm 1903, làm chủ tịch
Hội những bà mẹ Cơ đốc giáo. Đôi vợ chồng tuyệt hảo đó đã gả chồng cho con gái
lớn năm 1908, nay chỉ còn ba người con, một gái và hai trai, ở với họ.
Léon, cậu con út, lên sáu tuổi, có buồng
riêng bên cạnh buồng của mẹ và của chị Berthe. Maurice con trai cả, ở trong một
biệt thất nhỏ gồm hai căn phòng ở cuối vườn. Ở đó chàng trai này được tự do, vì
thế mà cuộc sống gia đình cũng thành dễ chịu. Anh chàng khá xinh trai, lịch sự,
mà không có vẻ kiểu cách quá đáng, nụ cười mỉm của anh, chỉ nhếch một bên mép
lên, cũng không phải là không có duyên. Mới hai mươi nhăm tuổi, Maurice đã có đủ
cái khôn ngoan trong kinh Người truyền đạo
(14). Không tin rằng mọi khổ cực tự chuốc lấy trên đời sẽ có lợi lộc gì cho con
người nên anh không bao giờ chịu nhọc công một chút gì hết. Ngay từ hồi còn bé
tí teo, anh chàng con nhà nòi đó đã chuyên tâm học cách lẩn tránh việc học
hành, và chính do thờ ơ với sự dạy dỗ của nhà trường, mà anh ta đã có bằng tiến
sĩ luật khoa và trở thành luật sư Tòa thượng thẩm.
Anh không tranh tụng và cũng không làm tố tụng
(15). Anh không biết gì hết, không muốn biết gì hết, bằng cách đó anh xử sự phù
hợp với thiên tư của anh, cái thiên tư bé mọn đáng yêu anh không bắt nó phải chứa
chất quá nặng nề, và may mắn sao bản năng cũng khuyên anh nên hiểu ít còn hơn
là hiểu sai.
Theo cách diễn đạt của linh mục Patouille,
Maurice bẩm sinh đã thu nhận của trời những ơn huệ của một nền giáo dục Cơ đốc
giáo. Từ hồi còn trẻ thơ, lòng sùng đạo của anh đã được hình thành nhờ những
gương sáng ngay trong nhà, và khi học xong trung học rồi vào trường Luật, anh
thấy học thuật của các bậc tiến sĩ, đạo hạnh của các cha nghe tội, đức kiên
trinh của các phụ nữ đầy sức mạnh đều đã có nền nếp ở ngay gia đình bố mẹ anh.
Nhưng được vào cuộc sống xã hội và chính trị vào thời kỳ giáo hội nước Pháp bị
ngược đãi lớn, Maurice không vắng mặt trong một cuộc biểu tình nào của thanh
niên Công giáo, hồi tiến hành những vụ tổng kê. Anh góp công đi dựng chướng ngại
vật của giáo khu và cùng với các bạn đã tháo yên cương những con ngựa của vị tổng
Giám mục bị đuổi ra khỏi dinh thự. Tuy nhiên, trong những trường hợp đó, anh tỏ
ra sốt sắng vừa phải thôi: không bao giờ thấy anh đi hàng đầu đoàn người anh
dũng kia, đang khích quân đội bất tuân thượng lệnh một cách vẻ vang và ném vào
mặt bọn thu thuế những rác rưởi bẩn thỉu cùng những lời thóa mạ.
Anh chỉ làm bổn phận thế thôi, nếu anh có nổi bật, và trong vụ hành hương lớn năm 1911 (16) nếu anh có nổi bật trong bọn khiêng cáng ở Lourdes (17) thì e rằng đó cũng chỉ là để được lòng bà de la Verdelière, là người thích cánh đàn ông lực lưỡng. Linh mục Patouille, bạn thân của gia đình, con người hiểu biết rất sành sỏi mọi tâm hồn, biết rằng tham vọng tử vì đạo ở Maurice rất chừng mực thôi. Ông chê trách lòng kém nhiệt thành của anh, và kéo tai anh, gọi anh là thằng lười nhác. Dù sao, Maurice cũng vẫn còn là kẻ tin đạo. Trong các lầm lạc của tuổi trẻ, niềm tin của anh vẫn nguyên vẹn, vì anh có động gì đến nó đâu. Anh chưa hề xem xét kỹ điểm nào của niềm tin ấy. Anh cũng chẳng hề xem xét kỹ hơn các tư tưởng đạo đức ngự trị cái xã hội của anh. Anh tiếp nhận những tư tưởng đó y nguyên như khi chúng được đem đến cho anh, cho nên, trong mọi trường hợp, anh vẫn tỏ ra là một con người hoàn toàn trung thực, điều mà có lẽ anh không thể làm được nếu anh nghiền ngẫm về cơ sở của các phong tục. Anh dễ kích động, dễ nổi cáu, anh có danh dự và chăm chú trau dồi tình cảm danh dự. Anh không có tham vọng, cũng không thích hư vinh. Cũng như phần đông người Pháp, anh không thích tiêu pha; có lẽ anh chẳng cho phụ nữ cái gì cả, nếu họ không biết cách ép anh. Tưởng rằng khinh bỉ họ, thực ra anh lại tôn thờ họ, và bản tính dâm dục quá tự nhiên nên anh không nhận ra điều đó. Điều không ai biết và chính anh cũng mù mịt hoàn toàn, điều mà đáng lẽ mọi người có thể đoán được khi thấy một ánh sáng nhỏ ướt át thỉnh thoảng lấp lánh trong đôi mắt xinh đẹp màu hạt dẻ nhạt của anh, là anh vốn có tình cảm và dễ kết bạn; ngoài ra trong cuộc giao tiếp thường ngày với cuộc đời, anh cũng khá độc ác.
Anh chỉ làm bổn phận thế thôi, nếu anh có nổi bật, và trong vụ hành hương lớn năm 1911 (16) nếu anh có nổi bật trong bọn khiêng cáng ở Lourdes (17) thì e rằng đó cũng chỉ là để được lòng bà de la Verdelière, là người thích cánh đàn ông lực lưỡng. Linh mục Patouille, bạn thân của gia đình, con người hiểu biết rất sành sỏi mọi tâm hồn, biết rằng tham vọng tử vì đạo ở Maurice rất chừng mực thôi. Ông chê trách lòng kém nhiệt thành của anh, và kéo tai anh, gọi anh là thằng lười nhác. Dù sao, Maurice cũng vẫn còn là kẻ tin đạo. Trong các lầm lạc của tuổi trẻ, niềm tin của anh vẫn nguyên vẹn, vì anh có động gì đến nó đâu. Anh chưa hề xem xét kỹ điểm nào của niềm tin ấy. Anh cũng chẳng hề xem xét kỹ hơn các tư tưởng đạo đức ngự trị cái xã hội của anh. Anh tiếp nhận những tư tưởng đó y nguyên như khi chúng được đem đến cho anh, cho nên, trong mọi trường hợp, anh vẫn tỏ ra là một con người hoàn toàn trung thực, điều mà có lẽ anh không thể làm được nếu anh nghiền ngẫm về cơ sở của các phong tục. Anh dễ kích động, dễ nổi cáu, anh có danh dự và chăm chú trau dồi tình cảm danh dự. Anh không có tham vọng, cũng không thích hư vinh. Cũng như phần đông người Pháp, anh không thích tiêu pha; có lẽ anh chẳng cho phụ nữ cái gì cả, nếu họ không biết cách ép anh. Tưởng rằng khinh bỉ họ, thực ra anh lại tôn thờ họ, và bản tính dâm dục quá tự nhiên nên anh không nhận ra điều đó. Điều không ai biết và chính anh cũng mù mịt hoàn toàn, điều mà đáng lẽ mọi người có thể đoán được khi thấy một ánh sáng nhỏ ướt át thỉnh thoảng lấp lánh trong đôi mắt xinh đẹp màu hạt dẻ nhạt của anh, là anh vốn có tình cảm và dễ kết bạn; ngoài ra trong cuộc giao tiếp thường ngày với cuộc đời, anh cũng khá độc ác.
-------------
Chú thích.
1 - Académie des Sciences morales et
politiques - một trong năm học viện lớn, hợp lại thành Pháp quốc Bác học viện
(Institut de France).
2 - Nguyên lão nghị viện này, tên gọi là
Nguyên lão nghị viện bảo thủ (Senat conservateur) được sáng lập ở Pháp năm
1799, đến 1811 bị phế bỏ, rồi đến 1852 được tái lập dưới thời Đệ nhị Đế chế, và
đến 1870 lại bị phế bỏ cùng với đế chế bị truất bãi, để đến năm 1875 được tổ chức
lại thành Thượng nghị viện của Đệ tam Cộng hòa.
3 - Nền đế chế của Napoléon III.
4 - Fallières (1841-1931): chính khách người
Pháp, Chủ tịch Thượng nghị viện (1899) và Tổng thống nước Cộng hòa Pháp từ 1906
đến 1913.
5 - Nguyên văn: đã trở lại những ngày của
Decius (249-251) và Dioclétien (284-305). Decius, Dioclétien - hai vị hoàng đế
La Mã khét tiếng là ngược đãi tín đồ Cơ đốc giáo.
6 - Concordat:
thỏa ước kí kết giữa Bonaparte (hồi đó là Đệ nhất tổng tài) và Giáo Hoàng Pie
VII ngày 15-7-1801, quy định các quan hệ giữa nước Pháp với Tòa thánh và giữa
Nhà nước với Nhà thờ.
7 - Sacré Coeur: được xây ở Paris, trên ngọn
đồi Montmartre, khởi công từ 1875, hoàn thành năm 1914, cao 80 mét, tháp chuông
cao 100 mét, xây theo kiểu La Mã xưa, dùng làm pháp đình và phòng thương mại.
8 - Séparation: giữa Nhà thờ với Nhà nước,
không bên nào dính líu đến công việc của bên nào.
9 - Inventaires: tài sản của Nhà thờ, bị
Nhà nước tịch thu.
10 - Jacques-Louis David (1748-1825): danh
họa người Pháp, trong thời Đế chế, chuyên vẽ Napoléon.
11 - Nam tước François Gérard (1770-1837):
họa sĩ người Pháp, tác giả bức họa nổi tiếng Trận đánh Austerlitz (chiến thắng
rực rỡ của Napoléon I).
12 - Préfet
de l’Empire: thời Đệ nhất Đế chế của Napoléon I, đã tạo ra một mạng lưới bảo
vệ chính quyền trung ương, gồm có một Tổng quản đại thần (gouverneur), những giám cung (préfets
du palais) và những nội thần (chambellans)
có quyền hành cao để ngăn chặn mọi hành vi có thể xúc phạm chính quyền, không kể
các préfet khác (tỉnh trưởng) đại diện
cho nhà nước và có uy quyền tuyệt đối ở địa phương.
13 - La
Pucelle: một vở kịch thơ, đề tài là chuyện nữ anh hùng dân tộc Pháp Jeanne
d’Arc.
14 - Livre
de l’Ecclésiaste: triết lý căn bản của kinh này là thế sự đều hư không. “Hư không của hư không, hư không của hư
không, thảy đều hư không”. (Vanitas vanitatum, vanitas vanitatum, et omnia
vanitas). Đó là câu mở đầu của sách. Câu thứ hai là câu mà Anatole France lấy lại
nguyên văn cho tiếp theo câu trên: “bao
nhiêu khổ cực… được lợi ích gì?”. Từ triết lý căn bản đó, tất phải rút ra
cái đạo lý mà Maurice luôn luôn tuân theo, là hãy tiếp nhận mọi sự vật y nguyên
như nó đến, coi đó là ý muốn của Thượng đế, và hãy hưởng thụ đi.
15 - Luật sư có hai loại hoạt động khác
nhau, một là luật sư tranh tụng, hai là luật sư tố tụng.
16 - Cuộc hành hương đến nhà thờ Courdes nổi
tiếng là linh thiêng.
17 - Tổng lỵ trong tỉnh Hautes Pyrénées
trên bờ dòng thác Pau. Nhà thờ Lourdes nổi tiếng về những phép màu của Đức Bà Đồng
Trinh, là một nơi hành hương nổi tiếng - Khiêng cáng, có lẽ là để đưa bệnh nhân
bị tê liệt đến xin phép màu của Đức bà.
-----------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét