Thứ Bảy, 7 tháng 12, 2019

Thiên Thần Nổi Loạn - Chương 14

Thiên Thần Nổi Loạn

Tác giả: Anatole France
Dịch giả: Đoàn Phú Tứ
Nhà xuất bản Hội nhà văn - 1987

Chương 14

Cho chúng ta thấy thiên thần Keroub làm việc cho hạnh phúc của loài người và kết thúc một cách lạ thường bằng phép màu của tiếng sáo.

Đêm đầu tiên xuống hạ giới, Arcade đến ngủ ở nhà thiên thần Istar, trong một căn gác tồi tàn của cái phố Mazarin chật hẹp, và tối tăm nhớp nhúa dưới bóng của Pháp quốc Bác học viện cổ kính. Istar trong lúc chờ đợi anh, đã đẩy dẹp vào sát tường những bình thủy tinh cổ cong đã vỡ, những nồi rạn nứt, nó là tất cả đồ đạc của anh, và ném lên mặt sàn gạch những quần áo rách của anh để ngả lưng, anh dành cho khách chiếc giường bằng vải với ổ rơm.
Các thiên thần khác nhau ở bề ngoài tùy theo đẳng cấp và thứ bậc của họ, và tùy theo bản tính của họ. Tất cả bọn họ đều đẹp, nhưng theo nhiều cách linh tinh khác nhau và không phải tất cả đều cùng cho mắt nhìn của mọi người những khối tròn trĩnh núng nính và những lỗ đồng tiền tươi cười của da thịt con trẻ, óng ánh những màu sắc xà cừ và những tia sáng thắm tươi. Không phải tất cả họ đều được trang điểm, trong một vẻ thiếu niên vĩnh cửu, cái duyên dáng mập mờ mà nghệ thuật Hy Lạp xưa, trong buổi suy tàn, đã ấn định cho những bức cẩm thạch được vuốt ve nhất của nó, và, đã bao lần, hội họa Cơ đốc giáo đã rụt rè mô tả những hình tượng nhu cảm và che đậy. Có những kẻ mà cái cằm ủ ấm một mớ lông rậm rịt và bắp chân bắp tay nuôi dưỡng những cơ thịt cứng mạnh đến nỗi tưởng chừng như dưới làn da của họ là những con rắn quằn quại. Có kẻ không mang cánh, có kẻ mang hai, bốn hoặc sáu cánh; có kẻ thì được cấu thành toàn bằng những đôi cánh tiếp hợp với nhau; có nhiều kẻ, không phải là danh tiếng kém cỏi gì, thực hiện thành những quái vật tráng lệ, chẳng khác gì những con quái mình ngựa mặt người (1) trong thần thoại; thậm chí người ta trông thấy có những kẻ là những cỗ xe sống động và những bánh xe rực lửa. Là thành viên của đẳng cấp thiên thần tối cao, Istar thuộc vào thứ bậc những Keroub hoặc Chérubin, chỉ trông thấy duy có các Séraphin là ở trên mình thôi. Cũng như tất cả các thiên thần ở thứ bậc đó, mới gần đây thôi, ở trên trời, anh đeo thân hình một con bò mộng có cánh mang trên mình một cái đầu người có râu xồm xoàm, có sừng và mang hai bên sườn những biểu tượng của một sức sinh sản dồi dào. To tát hơn và cường tráng hơn bất cứ con vật nào trên trái đất, đứng thẳng người, đôi cánh xòe rộng, anh che dưới bóng anh sáu chục vị thượng đẳng thiên thần. Istar trước kia là như vậy, trong tổ quốc của anh, anh rực rỡ sức mạnh và vẻ dịu hiền. Trái tim anh dũng cảm và tâm hồn anh nhân từ. Mới gần đây thôi, anh còn yêu Chúa của anh, mà anh tưởng là tốt, và phục vụ y một cách trung thành. Nhưng, trong khi giữ tín ngưỡng của Chúa, anh vừa không ngừng suy tư về sự trừng phạt các thiên thần phiến loạn và sự rủa sả Eva(2). Tư duy của anh chậm chạp và sâu sắc. Đến khi, sau một chuỗi dài thế kỷ, anh đã tin vững chắc rằng Ialdabaoth đã sản sinh ra, cùng với vũ trụ, sự ác và sự chết chóc, thì anh thôi không kính thờ y và phụng sự y nữa. Tình yêu của anh đổi thành khinh bỉ. Anh thét vào mặt y sự khinh ghét kinh tởm của anh, và bỏ chạy xuống cõi trần.
Khoác hình thể loài người và bị thu về tầm vóc của con cháu Adam, anh vẫn còn giữ được một vài tính cách của bản thể nguyên sơ. Đôi mắt nông, cái mũi khoằm mỏ diều, đôi môi dày, đóng khung trong một bộ râu đen xoắn thành từng vòng rủ xuống ngực(3), làm ta nhớ lại những Chérubin ở hòm thánh tích của Jéhovah(4) mà những bò mộng ở Nineveh(5) diễn tả lại cho chúng ta một cách khá trung thành. Xuống trần gian, anh cũng mang tên là Istar như ở trên trời, và mặc dầu không thích hư danh, được giải phóng khỏi tất cả thành kiến xã hội, nhưng trong một nhu cầu vô cùng to lớn và bất cứ về chuyện gì cũng tỏ ra chân thành và trung thực, anh tuyên bố hàng ngũ hiển hách mà dòng dõi của anh đã đặt anh vào, trong đẳng cấp thiên giới và, dịch sang tiếng Pháp tước vị Chérubin của anh bằng một tước vị tương đương, anh tự xưng là hoàng thân Istar. Ẩn náu giữa loài người, anh đã cảm thấy một mối cảm tình nồng nàn đối với họ. Trong khi chờ đợi giờ phút giải phóng thiên không, anh trù tính hạnh phúc cho loài người đổi mới và nóng lòng hoàn tất sự phá sản của cái thế giới xấu xa này để dựng lên trên đống tro tàn của nó, theo tiếng thánh thót của thiên cầm(6), đô thành hớn hở trong vui sướng và tình yêu. Làm một nhà hóa học ăn lương của một nhà buôn phân bón, anh sống đạm bạc, cộng tác với những tờ báo thuộc phái tự do vô chính phủ, phát biểu trong các cuộc họp công cộng và đã bị kết án nhiều tháng tù vì tội chống quân phiệt.
Istar đón tiếp ân cần người anh em Arcade, tán thành anh đã đoạn tuyệt với phe tội ác và báo tin anh biết đã có năm chục đứa con của trời xuống trần, bây giờ họ họp thành, gần nhà tu kín Val de Grâce(7), một đoàn di tản thấm nhuần một tinh thần tốt đẹp nhất.
- Các thiên thần sa xuống Paris như mưa, - anh vừa nói vừa cười. - Hằng ngày, một đại quyền thần nào đó của cung điện thiêng liêng rơi xuống đầu chúng ta và chả bao lâu nữa vị Hoàng đế cửu trùng thiên chỉ còn những chú chim đít trụi(8) của các chuồng chim của lão ta, để làm quyền thần và thị vệ.
Được những tin vui đó ru êm, Arcade thiu thiu ngủ thanh thản và hy vọng.
Anh thức dậy lúc tảng sáng và trông thấy hoàng thân Istar cắm cúi vào những lò nấu, những bình cổ cong và những bình tròn của chàng ta. Hoàng thân đang làm việc cho hạnh phúc của nhân loại.
Sáng nào, thức dậy, Arcade cũng trông thấy hoàng thân Istar đương tiến hành sự nghiệp ân ưu đằm thắm và yêu thương của chàng ta. Lúc thì thiên thần Chérubin ngồi xổm, hai tay ôm đầu, lẩm bẩm khe khẽ vài công thức hóa học, lúc thì đứng vươn mình dậy hết tầm cao, như một cột mây mù ảm đạm, cái đầu, hai cánh tay, cả nửa mình trên thò qua khung cửa sổ ở mái nhà, anh ta đặt giấu trên mái cái nồi gang của anh, e sợ một cuộc khám xét mà anh luôn luôn bị đe dọa. Bị kích động bởi một niềm thương xót bao la đối với những khổ cực của thế gian trong đó anh đương lưu đày, có lẽ cũng cảm thấy tiếng lào xào mà tên tuổi của anh gây nên, say sưa về năng lực của chính mình, anh thi hành công vụ sứ đồ của loài người và, lơ là cái sứ mạng mà anh tự chuốc khi sa xuống cõi trần, anh không nghĩ đến chuyện giải phóng các thiên thần nữa. Arcade thì trái lại, chỉ mơ tưởng chuyện đắc thắng trở về cõi trời đã chinh phục, trách chàng Chérubin là quên bẵng tổ quốc. Hoàng thân Istar, với một tiếng cười dữ dội và ngây thơ, thú nhận rằng anh ta không thích gì các thiên thần hơn những con người.
- Nếu tôi cố gắng, - anh ta trả lời người anh em thiên giới của anh, - để kích động cho nước Pháp và châu Âu nổi dậy, là vì ngày rạng đang bừng lên, nó sẽ trông thấy cuộc chiến của cách mạng xã hội. Người ta vui thích được gieo hạt trên miếng đất đã cày sâu cuốc bẫm này. Những người Pháp đã chuyển từ chế độ phong kiến sang chế độ quân chủ và từ chế độ quân chủ sang chế độ tài phiệt quả đầu chính (9) sẽ dễ dàng chuyển từ chế độ tài phiệt sang chế độ vô chính phủ.
- Thật là lầm to, - Arcade cãi lại, - nếu tin tưởng ở những thay đổi đột ngột và to lớn trong trật tự xã hội ở châu Âu! Cái xã hội già nua đó hãy còn trẻ trung về mãnh lực và cường lực. Các phương tiện phòng vệ mà nó được sử dụng còn ghê gớm lắm. Giai cấp vô sản, trái lại, mới gọi là phác họa ra được một tổ chức tự vệ mà chỉ đem vào cuộc chiến đấu sự yếu ớt và hỗn độn. Trong tổ quốc thiên giới của chúng ta, tình hình lại khác hẳn, dưới một bề ngoài bất di bất dịch, tất cả bên trong đã thối nát rồi; chỉ cần hích vai một cái là đủ để lật nhào tòa kiến thiết đã từ hàng tỷ thế kỷ nay chưa hề ai đụng đến. Nền cai trị hủ lậu, cơ binh hủ lậu, tài chính hủ lậu, tất cả cái đó đã mọt ruỗng hơn là nền độc tài chuyên chế ở Nga hoặc Ba Tư.
Và chàng Arcade thịnh tình khẩn cầu chàng Chérubin hãy trước hết mau mau cứu vớt các anh em của họ đương sống, trong những tầng mây ẻo lả, theo tiếng những lục huyền cầm, giữa đám những ly rượu thiên đường, khốn khổ hơn những con người còng lưng trên mảnh đất khô cằn; vì những con người này quan niệm được sự công bằng và những thiên thần kia vui thích trong sự bất công. Chàng cổ vũ chàng kia đi giải phóng vị Bá vương ánh sáng(10) và các đồng bạn bị sét đánh và đi khôi phục lại các vị đó trong nền vinh diệu xưa của các vị.
Istar bị xiêu lòng. Anh hứa sẽ đem sự dịu dàng có sức thuyết phục của những lời nói của anh và những công thức ưu việt của các thuốc nổ của anh ra phục vụ cho cuộc cách mạng cõi trời. Anh hứa.
- Ngày mai. - anh nói.
Và ngày hôm sau, anh tiếp tục cuộc tuyên truyền chống quân phiệt ở Issy-les-Moulineaux(11). Cũng giống như Titan Prométhée(12), Istar yêu loài người.
Arcade, phải chịu đựng tất cả mọi nhu yếu (13) mà nòi giống Adam phải lệ thuộc, lại ở tình trạng không có khả năng để thỏa mãn. Chàng Chérubin đưa anh vào làm trong một nhà in ở phố Vaugirard(14) mà chàng ta quen biết người đốc công. Arcade, nhờ ở trí thông minh thiên giới, chả mấy chốc đã biết nhặt chữ ở ô sắp vào thước. Chỉ ít lâu sau đã trở thành một thợ sắp chữ tốt.
Khi suốt cả ngày, đứng trong xưởng in ồn ào, anh đã rút ra được nhanh chóng những dấu hiệu con con bằng chì ở trong hộc ra, theo trật tự đã chỉ định trong bản nguyên cảo đính ở visorium(15), thì anh đi rửa tay ở vòi nước và đi ăn bữa tối ở tửu quán, một tờ nhật báo mở ra trên mặt bàn đá.
Đã thôi không còn phép tàng hình nữa rồi, anh không có thể lẻn vào thư viện d’Esparvieu được nữa, và không được giải cơn khát nồng nàn muốn học ở cái nguồn vô tận đó nữa. Chiều tối, anh đi đọc sách ở thư viện St. Geneviève(16) trên ngọn núi học hỏi trứ danh; nhưng anh chỉ được tiếp thu ở đó những quyển sách không hiếm hoi gì mấy, cáu ghét, những chú thích lố bịch, và có nhiều trang đã bị xé mất.
Trông thấy phụ nữ là anh rối loạn, và lại nhớ đến bà des Aubels có hai đầu gối nhẵn bóng lấp lánh trong cái giường xô lệch. Và mặc dầu đẹp trai, anh chẳng có người yêu vì anh nghèo và ăn mặc quần áo lao động. Anh giao du với Zita và có được đôi chút vui thích đi dạo với chị ta ngày chủ nhật trên những con đường bụi bặm men theo những bờ hào đầy cỏ rậm của những thành lũy. Cả hai người đi dọc theo những quán rượu ngoại ô, những vườn trồng rau, những giàn cây xanh, vừa trình bày, tranh cãi về những mưu toan to tát nhất đã có bao giờ được bình luận sôi nổi trên trái đất này; và đôi khi, đến gần bên một cuộc vui của phường hát rong, điệu nhạc kèn của trò chơi ngựa gỗ đệm vào những lời nói của họ, nó đương đe dọa cõi thiên đình.
Zita thường hay nhắc đi nhắc lại:
- Istar thì chân chính đấy, nhưng là một anh chàng ngây thơ. Anh ta tin ở đức tốt của các sinh vật và các sự vật. Anh ta tiến hành việc phá hủy thế giới cũ và trông cậy ở sự rối loạn tự phát để nó tạo hộ cho trật tự và hài hòa. Anh Arcade ạ, anh tin ở khoa học; anh tưởng tượng rằng con người và thiên thần đều có khả năng hiểu biết, trong khi họ chỉ bẩm sinh để cảm thụ. Anh nên biết rằng người ta không thu hoạch được cái gì của họ khi kêu gọi đến trí thông minh của họ: phải nói chuyện với những lợi ích và những dục vọng của họ kia.
Arcade, Istar, Zita và ba bốn thiên thần đồng mưu khác, đôi khi tụ họp trong căn nhà bé nhỏ của Théophile Belais, ở đó Bouchotte phục vụ nước trà cho họ. Không biết rằng họ là những thiên thần phiến loạn, chị ta ghét họ do bản năng và lo sợ họ do hiệu quả của một nền giáo dục Cơ đốc giáo, tuy rất lỏng lẻo. Duy chỉ có hoàng thân Istar được lòng chị; chị thấy anh ta nhu mì và bản tính ưu nhã. Anh ngồi thủng cả đi văng, đổ sụp cả các ghế bành và, để ghi chú, xé cả những góc giấy của những bản nhạc và đút vào các túi của anh ta, bao giờ cũng ních đầy sách vở và chai lọ. Chàng nhạc sĩ buồn rầu trông thấy bản thảo vở ca kịch của chàng, Aline nữ hoàng xứ Golconde, bị gãy mất góc như vậy. Hoàng thân cũng có thói quen hay gửi Théophile Belais đủ thứ các khí cụ cơ giới, các hóa chất, sắt vụn, chì đạn, bột thuốc nổ, thuốc muối, tỏa ra một mùi thối hoắc. Théophile Belais giấu cẩn thận những thứ đó vào cái tủ trong đó anh cất giữ đôi cánh của anh, và cái kho tàng đó làm cho anh lo ngại.
Arcade khổ tâm chịu đựng sự khinh bỉ của những bạn cũ của anh vẫn trung thành với Chúa. Khi họ gặp anh trong những cuộc chạy ngược chạy xuôi thần thánh của họ thì họ biểu lộ với anh, qua loa, một mối căm thù cay độc hoặc một nỗi thương hại cay độc hơn mối căm thù.
Anh đến thăm những thiên thần phản loạn mà hoàng thân Istar chỉ cho anh, và thường được đón tiếp niềm nở. Nhưng hễ anh nói với họ về chuyện chinh phục cõi trời, thì họ không giấu nổi sự lúng túng và mất vui mà anh gây cho họ. Arcade nhận thấy rằng họ không muốn bị quấy rầy trong những sở thích của họ, trong những công việc, những thói quen của họ; sự sai lạc trong phán đoán của họ, sự thiển cận của đầu óc họ làm cho anh khó chịu, và những chuyện tranh chấp, ghen tuông mà họ gây ra giữa người nọ đối với người kia làm cho anh hết hy vọng kết hợp được họ với nhau trong một công cuộc chung. Nhận thấy rằng tình trạng lưu đày làm cho tính tình người ta bị suy sụp và trí thông minh bị sai lạc biết chừng nào, anh cảm thấy lòng can đảm của anh nao núng.
Một chiều tối, anh thú thực sự chán ngán của anh với Zita, thì vị thượng đẳng nữ thiên thần xinh đẹp bảo anh rằng:
- Chúng ta hãy đến gặp Nectaire(17) đi, Nectaire có những bí quyết chữa khỏi bệnh buồn bã và mệt mỏi.
Nàng dắt anh vào những khu rừng cây ở Montmorency(18) và dừng bước trên ngưỡng của một ngôi nhà nhỏ quét vôi màu trắng tiếp giáp với một vườn rau bị mùa rét làm cho trơ trụi, và lấp lánh trong bóng tối, những ô kính của các nhà kính và những chuông thủy tinh đã rạn nứt úp trên những quả dưa mơ lông.
Nectaire mở cửa đón khách, và sau khi đã dẹp yên tiếng sủa của một con chó xồm to lớn giữ vườn, dẫn khách vào gian buồng thấp ở nhà ngang trong, có một lò sưởi bằng sành sưởi ấm. Trên một tấm ván gỗ bách, giữa đám những hành tây và hạt đỗ, là một cây sáo dựa vào tường vách quét vôi trắng, sẵn sàng để ghé môi thổi. Một chiếc bàn tròn bằng gỗ hồ đào mang một bình thuốc lá sợi bằng gốm sa thạch (19), một cái tẩu thuốc, một chai rượu vang và những cái cốc. Ông lão làm vườn mời khách mỗi người ngồi vào một chiếc ghế tựa nệm rơm và bản thân ông ngồi vào chiếc ghế đẩu bên cạnh bàn.
Đó là một ông già tráng kiện; một bộ tóc hoa râm và dày rậm dựng trên đầu ông ta; ông ta trán dô, mũi tẹt ngắn, da mặt hồng hào, chòm râu cằm chẻ đôi. Con chó xồm to lớn nằm dài dưới chân chủ, đặt cái mõm đen và ngắn trên đôi chân trước và nhắm mắt lim dim. Ông lão làm vườn rót rượu vang mời khách. Và khi hai người khách đã uống rượu vang và đã trao đổi với nhau vài lời, Zita nói với Nectaire:
- Yêu cầu ông thổi sáo cho chúng tôi nghe. Ông sẽ làm vui lòng anh bạn mà tôi đã dắt đến đây thăm ông.
Ông lão đồng ý ngay. Ông ghé môi vào ống sáo bằng gỗ hoàng dương, nó thô sơ đến nỗi tưởng chừng như chính tay ông lão làm vườn đã đẽo gọt nên nó, và thổi dạo vài câu kỳ dị. Rồi ông thổi những giai điệu tráng lệ, trên nền đó những âm láy(20) lấp lánh khác nào những viên kim cương và châu ngọc trên nền nhung. Được những ngón tay tài tình sử dụng, được một hơi thở sáng tạo làm cho sôi động, cái ống gỗ quê mùa vang lên như một ống sáo bằng bạc. Nó không phát ra những âm quá lanh lảnh, và âm sắc của nó bao giờ cũng đều đều và trong trẻo. Người ta tưởng chừng như được nghe thấy cùng một lúc tiếng chim oanh và các nữ thần thơ nhạc, tất cả thiên nhiên và tất cả con người. Và ông già gửi gắm, diễn tả, phát triển các tư tưởng của ông bằng một tài năng âm nhạc đầy ưu nhã và táo bạo. Ông diễn tả tình yêu, nỗi sợ, những tranh chấp hão huyền, tiếng cười đắc thắng, những ánh sáng yên lặng của trí thông minh, những cái tên của trí tuệ bắn tơi bời những mũi nhọn hoàng kim của nó vào những ác quái của dốt nát và hận thù. Nó cũng diễn tả nỗi vui sướng và niềm đau đớn ngả xuống trái đất hai cái đầu sinh đôi của chúng, về sự thèm muốn nó sáng tạo ra các thế giới.
Tất cả đêm thâu nghe thấy tiếng sáo của Nectaire. Sao Mai đã dâng lên ở chân trời tang tảng. Zita hai bàn tay ôm hai đầu gối, Arcade, bàn tay ôm trán và đôi môi hé mở; cả hai người đều yên lặng, lắng nghe. Một con sơn ca, thức giấc gần đó trong một thửa ruộng cát bồi, được những âm thanh mới lạ kia hấp dẫn, bay bổng vút lên không trung, đứng lại trên đó giây lát, rồi lao thẳng một mạch đến vườn quả của nhà nhạc sĩ. Những chim sẻ ở gần bên, rời bỏ cái hốc của những bức tường cũ, đến đậu thành đàn trên bậc cửa sổ từ trong đó bay ra những âm thanh chúng thích thú hơn cả những hạt đại mạch và kiều mạch. Một con chim cà kiện, lần đầu tiên ở rừng cây ra, gấp đôi cánh ngọc lam trên một cây anh đào trụi lá của khu vườn. Trước cửa sổ hầm nhà, một con chuột cống đen, ướt lướt thướt những nước béo nhẫy của cống rãnh, ngồi bệt đít xuống, ngạc nhiên giơ hai cánh tay ngắn ngủn và những ngón đang xòe. Một con chuột đồng, cư dân của khu vườn quả, đứng bên cạnh nó. Từ máng nước tụt xuống, con mèo đực nhà nuôi, vẫn còn giữ được của tổ tiên hoang dã bộ lông màu xám, cái đuôi có nhiều đốt nhiều khoanh, đôi hông cường tráng, đức dũng cảm và vẻ lẫm liệt, lấy mũi đẩy cái cửa hé mở, đi êm êm lại gần người thổi sáo, và ngồi một cách trang trọng, vểnh hai cái tai bị rách trong những trận đánh nhau ban đêm. Con mèo cái màu trắng của anh hàng hương liệu thực phẩm đi theo nó, đánh hơi không khí vang vang những âm thanh, rồi uốn lưng cong như cánh cung, nhắm đôi mắt xanh lắng nghe khoái chí. Lũ chuột nhắt, từ phía dưới sàn nhà chạy lên, vây quanh những con người kia thành đàn và chẳng sợ nanh sợ vuốt gì cả, im phăng phắc, chắp đôi bàn tay hồng hào lên ngực một cách thành kính. Những con nhện, rời xa những tấm mạng của chúng, các chân run rẩy, tụ tập trên trần nhà đội quân mê mẩn của chúng. Một con thằn lằn màu xám, đã trườn được đến ngưỡng cửa, dừng lại đấy như bị thôi miên, và giá có ai lên gác kho lúc đó, thì chắc đã được trông thấy con dơi đang treo mình bằng ngón chân, đầu dốc ngược xuống thấp, bây giờ, hơi thức giấc nửa chừng khỏi giấc ngủ mùa đông, đung đưa theo nhịp của tiếng sáo dị kỳ.
-------------
Chú thích.

1. Con quái mình ngựa mặt người: là con quái Centaure, tiếng Hán Việt là nhân mã quái, tương truyền là một giống người man rợ xưa kia sống ở Thessaly, sau được coi là những quái vật truyền kì nửa người nửa ngựa, đánh nhau với dân tộc Lapithes bị dân tộc này tiêu diệt cả giống nòi.

2. Rủa sả Eva: Sau khi Eva nghe lời con rắn (tức là hiện thân của Satan) cám dỗ, bảo chồng là Adam hái quả cấm ăn, trái với lời dặn của Đức Chúa trời, bị Đức Chúa trời rủa sả rằng: “Ta sẽ tăng bội phần sự đau khổ của ngươi trong khi thai nghén: ngươi phải chịu đau đớn mỗi khi sanh con; sự dục vọng khiến ngươi phải xu hướng về chồng và chồng ngươi sẽ cai trị ngươi”. (Sáng thế ký, III, 16)

3. Rủ xuống ngực: đây là bức chân dung điển hình của người Do Thái.

4. Jéhovah: tên gọi Đức Chúa Trời trong Cựu Ước, do tiếng Hébrew Yahweh (nghĩa là Ta là kẻ hằng có) được phiên âm Pháp hóa. - Hòm thánh tích (tabernacle): vốn tabernacle là cái lều trướng bằng vải để kỷ niệm việc dân tộc Israel rời khỏi Ai Cập, nhưng trong lều có đặt cái hòm thánh tích (Arche d’alliance) của Đức chúa Trời, nên tabernacle cũng có nghĩa là hòm thánh tích.

5. Nineveh: thành phố xưa của Tiểu Á, thủ đô của Assyrie, trên bờ sông Tigris.

6. Thiên cầm (lyre): tên một thứ huyền cầm thời cổ đại ngày xưa, hình ảnh vừa gảy đàn vừa ngâm thơ tượng trưng cho thi ca.

7. Val de Grâce: nữ tu viện nổi tiếng của Paris ở phố Saint Jacques, xây dựng từ 1645 đến 1665.

8. Chim đít trụi: chim còn non, chưa mọc đủ lông đuôi.

9. Chế độ tài phiệt quả đầu chính (Oligarchie financière) nghĩa là chế độ chính trị tài phiệt do một số ít người cầm đầu. Vì lối dịch phổ thông theo tiếng Hán Việt hơi dài dòng, nên thường gọi tắt là chế độ tài phiệt.

10. Bá vương ánh sáng (Prince de la lumière): tức là Lucifer và đồng bọn đánh nhau với Chúa trời Jéhovah, từ lâu đời lắm, bị Jéhovah dùng sét đánh thua và đày xuống hỏa ngục.

11. Issy-les-Moulineaux: là một xã trong vùng đô thị Paris, thuộc tỉnh Hauts-de-Seine, vùng hành chính Île-de-France của nước Pháp.

12. Titan Prométhée: Titan là tên gọi những khổng lồ con của thần Trời và thần Đất, cố sức chồng chất núi non lên nhau để trèo lên trời, nhưng bị Jupiter dùng sét đánh chết. Sau thành tên chung để gọi những khổng lồ có sức mạnh, muốn mưu toan việc lớn quá sức.
Prométhée là con của titan Japet và anh em ruột của Atlas, trong thần thoại cổ điển, được coi là người mở đầu cho văn minh của loài người. Tương truyền là lấy đất nặn thành hình người và hà hơi cho có sự sống, bị Jupiter ghen ghét ra lệnh cho Vulcan xích chặt vào ghềnh đá trên núi Caucase, cho một con chim kền kền đến mổ ăn gan. Sau, được Héraclès giải phóng.

13. Nhu yếu (Nécessités): ăn, mặc, yêu đương, v.v...

14. Vaugirard: tên một xã cũ ở ngoại ô Paris, sau được sáp nhập vào kinh đô, thành tên phố.

15. Visorium: tiếng La tinh, nghĩa là cái cột để treo cái bảng nói trên, cho người thợ sắp chữ xem được dễ dàng.

16. Thư viện Saint Geneviève: thư viện nổi tiếng từ thời Rabelais (thế kỷ XVI), đã được Rabelais nói đến trong quyển Pantagruel của ông (1532).

17. Nectaire: đây là tên người nhưng rõ ràng là mượn ở danh từ chung nectaire: tuyến mật của hoa, và nectar: mật hoa, và thức uống của thần tiên.

18. Montmorency: tổng lỵ trong tỉnh Seine-et-Oise, quận Pontoise. Có anh đào nổi tiếng, có rừng đẹp. Jean-Jacques Rousseau đã từng có nhà ở đó.

19. Gốm sa thạch (grès): danh từ này (cũng như danh từ faïence ở trên, dịch là sành) là theo mấy quyển từ điển Pháp-Việt, nhưng chưa được phổ thông lắm. Đáng lẽ grès phải gọi là sành như hũ đựng tương, liễn da lươn, tiểu sành, v.v… Còn faïence là sứ dày để làm bát đĩa chén bình thường khác với porcelaine là sứ mỏng và trong để làm bát đĩa chén quý.

20. Láy (trile): một nốt nhạc gảy xong rồi, láy thành nốt liền nhau, cách nhau nửa giọng hay một giọng, và láy đi láy lại hồi lâu.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét