Thiên Thần Nổi Loạn
Tác giả: Anatole France
Dịch giả: Đoàn Phú Tứ
Nhà xuất bản Hội nhà văn - 1987
Chương 14
Cho chúng ta thấy thiên thần Keroub làm việc cho hạnh
phúc của loài người và kết thúc một cách lạ thường bằng phép màu của tiếng sáo.
Đêm đầu tiên xuống hạ giới, Arcade đến ngủ ở
nhà thiên thần Istar, trong một căn gác tồi tàn của cái phố Mazarin chật hẹp, và
tối tăm nhớp nhúa dưới bóng của Pháp quốc Bác học viện cổ kính. Istar trong lúc
chờ đợi anh, đã đẩy dẹp vào sát tường những bình thủy tinh cổ cong đã vỡ, những
nồi rạn nứt, nó là tất cả đồ đạc của anh, và ném lên mặt sàn gạch những quần áo
rách của anh để ngả lưng, anh dành cho khách chiếc giường bằng vải với ổ rơm.
Các thiên thần khác nhau ở bề ngoài tùy
theo đẳng cấp và thứ bậc của họ, và tùy theo bản tính của họ. Tất cả bọn họ đều
đẹp, nhưng theo nhiều cách linh tinh khác nhau và không phải tất cả đều cùng
cho mắt nhìn của mọi người những khối tròn trĩnh núng nính và những lỗ đồng tiền
tươi cười của da thịt con trẻ, óng ánh những màu sắc xà cừ và những tia sáng thắm
tươi. Không phải tất cả họ đều được trang điểm, trong một vẻ thiếu niên vĩnh cửu,
cái duyên dáng mập mờ mà nghệ thuật Hy Lạp xưa, trong buổi suy tàn, đã ấn định
cho những bức cẩm thạch được vuốt ve nhất của nó, và, đã bao lần, hội họa Cơ đốc
giáo đã rụt rè mô tả những hình tượng nhu cảm và che đậy. Có những kẻ mà cái cằm
ủ ấm một mớ lông rậm rịt và bắp chân bắp tay nuôi dưỡng những cơ thịt cứng mạnh
đến nỗi tưởng chừng như dưới làn da của họ là những con rắn quằn quại. Có kẻ
không mang cánh, có kẻ mang hai, bốn hoặc sáu cánh; có kẻ thì được cấu thành
toàn bằng những đôi cánh tiếp hợp với nhau; có nhiều kẻ, không phải là danh tiếng
kém cỏi gì, thực hiện thành những quái vật tráng lệ, chẳng khác gì những con
quái mình ngựa mặt người (1) trong thần thoại; thậm chí người ta trông thấy có
những kẻ là những cỗ xe sống động và những bánh xe rực lửa. Là thành viên của đẳng
cấp thiên thần tối cao, Istar thuộc vào thứ bậc những Keroub hoặc Chérubin, chỉ
trông thấy duy có các Séraphin là ở trên mình thôi. Cũng như tất cả các thiên
thần ở thứ bậc đó, mới gần đây thôi, ở trên trời, anh đeo thân hình một con bò
mộng có cánh mang trên mình một cái đầu người có râu xồm xoàm, có sừng và mang
hai bên sườn những biểu tượng của một sức sinh sản dồi dào. To tát hơn và cường
tráng hơn bất cứ con vật nào trên trái đất, đứng thẳng người, đôi cánh xòe rộng,
anh che dưới bóng anh sáu chục vị thượng đẳng thiên thần. Istar trước kia là
như vậy, trong tổ quốc của anh, anh rực rỡ sức mạnh và vẻ dịu hiền. Trái tim
anh dũng cảm và tâm hồn anh nhân từ. Mới gần đây thôi, anh còn yêu Chúa của
anh, mà anh tưởng là tốt, và phục vụ y một cách trung thành. Nhưng, trong khi
giữ tín ngưỡng của Chúa, anh vừa không ngừng suy tư về sự trừng phạt các thiên
thần phiến loạn và sự rủa sả Eva(2). Tư duy của anh chậm chạp và sâu sắc. Đến
khi, sau một chuỗi dài thế kỷ, anh đã tin vững chắc rằng Ialdabaoth đã sản sinh
ra, cùng với vũ trụ, sự ác và sự chết chóc, thì anh thôi không kính thờ y và phụng
sự y nữa. Tình yêu của anh đổi thành khinh bỉ. Anh thét vào mặt y sự khinh ghét
kinh tởm của anh, và bỏ chạy xuống cõi trần.
Khoác hình thể loài người và bị thu về tầm
vóc của con cháu Adam, anh vẫn còn giữ được một vài tính cách của bản thể
nguyên sơ. Đôi mắt nông, cái mũi khoằm mỏ diều, đôi môi dày, đóng khung trong một
bộ râu đen xoắn thành từng vòng rủ xuống ngực(3), làm ta nhớ lại những Chérubin
ở hòm thánh tích của Jéhovah(4) mà những bò mộng ở Nineveh(5) diễn tả lại cho
chúng ta một cách khá trung thành. Xuống trần gian, anh cũng mang tên là Istar
như ở trên trời, và mặc dầu không thích hư danh, được giải phóng khỏi tất cả
thành kiến xã hội, nhưng trong một nhu cầu vô cùng to lớn và bất cứ về chuyện
gì cũng tỏ ra chân thành và trung thực, anh tuyên bố hàng ngũ hiển hách mà dòng
dõi của anh đã đặt anh vào, trong đẳng cấp thiên giới và, dịch sang tiếng Pháp
tước vị Chérubin của anh bằng một tước vị tương đương, anh tự xưng là hoàng
thân Istar. Ẩn náu giữa loài người, anh đã cảm thấy một mối cảm tình nồng nàn đối
với họ. Trong khi chờ đợi giờ phút giải phóng thiên không, anh trù tính hạnh
phúc cho loài người đổi mới và nóng lòng hoàn tất sự phá sản của cái thế giới xấu
xa này để dựng lên trên đống tro tàn của nó, theo tiếng thánh thót của thiên cầm(6),
đô thành hớn hở trong vui sướng và tình yêu. Làm một nhà hóa học ăn lương của một
nhà buôn phân bón, anh sống đạm bạc, cộng tác với những tờ báo thuộc phái tự do
vô chính phủ, phát biểu trong các cuộc họp công cộng và đã bị kết án nhiều
tháng tù vì tội chống quân phiệt.
Istar đón tiếp ân cần người anh em Arcade,
tán thành anh đã đoạn tuyệt với phe tội ác và báo tin anh biết đã có năm chục đứa
con của trời xuống trần, bây giờ họ họp thành, gần nhà tu kín Val de Grâce(7),
một đoàn di tản thấm nhuần một tinh thần tốt đẹp nhất.
- Các thiên thần sa xuống Paris như mưa, -
anh vừa nói vừa cười. - Hằng ngày, một đại quyền thần nào đó của cung điện
thiêng liêng rơi xuống đầu chúng ta và chả bao lâu nữa vị Hoàng đế cửu trùng
thiên chỉ còn những chú chim đít trụi(8) của các chuồng chim của lão ta, để làm
quyền thần và thị vệ.
Được những tin vui đó ru êm, Arcade thiu
thiu ngủ thanh thản và hy vọng.
Anh thức dậy lúc tảng sáng và trông thấy
hoàng thân Istar cắm cúi vào những lò nấu, những bình cổ cong và những bình
tròn của chàng ta. Hoàng thân đang làm việc cho hạnh phúc của nhân loại.
Sáng nào, thức dậy, Arcade cũng trông thấy
hoàng thân Istar đương tiến hành sự nghiệp ân ưu đằm thắm và yêu thương của
chàng ta. Lúc thì thiên thần Chérubin ngồi xổm, hai tay ôm đầu, lẩm bẩm khe khẽ
vài công thức hóa học, lúc thì đứng vươn mình dậy hết tầm cao, như một cột mây
mù ảm đạm, cái đầu, hai cánh tay, cả nửa mình trên thò qua khung cửa sổ ở mái
nhà, anh ta đặt giấu trên mái cái nồi gang của anh, e sợ một cuộc khám xét mà
anh luôn luôn bị đe dọa. Bị kích động bởi một niềm thương xót bao la đối với những
khổ cực của thế gian trong đó anh đương lưu đày, có lẽ cũng cảm thấy tiếng lào
xào mà tên tuổi của anh gây nên, say sưa về năng lực của chính mình, anh thi
hành công vụ sứ đồ của loài người và, lơ là cái sứ mạng mà anh tự chuốc khi sa
xuống cõi trần, anh không nghĩ đến chuyện giải phóng các thiên thần nữa. Arcade
thì trái lại, chỉ mơ tưởng chuyện đắc thắng trở về cõi trời đã chinh phục,
trách chàng Chérubin là quên bẵng tổ quốc. Hoàng thân Istar, với một tiếng cười
dữ dội và ngây thơ, thú nhận rằng anh ta không thích gì các thiên thần hơn những
con người.
- Nếu tôi cố gắng, - anh ta trả lời người
anh em thiên giới của anh, - để kích động cho nước Pháp và châu Âu nổi dậy, là
vì ngày rạng đang bừng lên, nó sẽ trông thấy cuộc chiến của cách mạng xã hội.
Người ta vui thích được gieo hạt trên miếng đất đã cày sâu cuốc bẫm này. Những
người Pháp đã chuyển từ chế độ phong kiến sang chế độ quân chủ và từ chế độ
quân chủ sang chế độ tài phiệt quả đầu chính (9) sẽ dễ dàng chuyển từ chế độ
tài phiệt sang chế độ vô chính phủ.
- Thật là lầm to, - Arcade cãi lại, - nếu tin
tưởng ở những thay đổi đột ngột và to lớn trong trật tự xã hội ở châu Âu! Cái
xã hội già nua đó hãy còn trẻ trung về mãnh lực và cường lực. Các phương tiện
phòng vệ mà nó được sử dụng còn ghê gớm lắm. Giai cấp vô sản, trái lại, mới gọi
là phác họa ra được một tổ chức tự vệ mà chỉ đem vào cuộc chiến đấu sự yếu ớt
và hỗn độn. Trong tổ quốc thiên giới của chúng ta, tình hình lại khác hẳn, dưới
một bề ngoài bất di bất dịch, tất cả bên trong đã thối nát rồi; chỉ cần hích
vai một cái là đủ để lật nhào tòa kiến thiết đã từ hàng tỷ thế kỷ nay chưa hề
ai đụng đến. Nền cai trị hủ lậu, cơ binh hủ lậu, tài chính hủ lậu, tất cả cái
đó đã mọt ruỗng hơn là nền độc tài chuyên chế ở Nga hoặc Ba Tư.
Và chàng Arcade thịnh tình khẩn cầu chàng
Chérubin hãy trước hết mau mau cứu vớt các anh em của họ đương sống, trong những
tầng mây ẻo lả, theo tiếng những lục huyền cầm, giữa đám những ly rượu thiên đường,
khốn khổ hơn những con người còng lưng trên mảnh đất khô cằn; vì những con người
này quan niệm được sự công bằng và những thiên thần kia vui thích trong sự bất
công. Chàng cổ vũ chàng kia đi giải phóng vị Bá vương ánh sáng(10) và các đồng
bạn bị sét đánh và đi khôi phục lại các vị đó trong nền vinh diệu xưa của các vị.
Istar bị xiêu lòng. Anh hứa sẽ đem sự dịu
dàng có sức thuyết phục của những lời nói của anh và những công thức ưu việt của
các thuốc nổ của anh ra phục vụ cho cuộc cách mạng cõi trời. Anh hứa.
- Ngày mai. - anh nói.
Và ngày hôm sau, anh tiếp tục cuộc tuyên
truyền chống quân phiệt ở Issy-les-Moulineaux(11). Cũng giống như Titan
Prométhée(12), Istar yêu loài người.
Arcade, phải chịu đựng tất cả mọi nhu yếu
(13) mà nòi giống Adam phải lệ thuộc, lại ở tình trạng không có khả năng để thỏa
mãn. Chàng Chérubin đưa anh vào làm trong một nhà in ở phố Vaugirard(14) mà
chàng ta quen biết người đốc công. Arcade, nhờ ở trí thông minh thiên giới, chả
mấy chốc đã biết nhặt chữ ở ô sắp vào thước. Chỉ ít lâu sau đã trở thành một thợ
sắp chữ tốt.
Khi suốt cả ngày, đứng trong xưởng in ồn
ào, anh đã rút ra được nhanh chóng những dấu hiệu con con bằng chì ở trong hộc
ra, theo trật tự đã chỉ định trong bản nguyên cảo đính ở visorium(15), thì anh đi rửa tay ở vòi nước và đi ăn bữa tối ở tửu
quán, một tờ nhật báo mở ra trên mặt bàn đá.
Đã thôi không còn phép tàng hình nữa rồi,
anh không có thể lẻn vào thư viện d’Esparvieu được nữa, và không được giải cơn
khát nồng nàn muốn học ở cái nguồn vô tận đó nữa. Chiều tối, anh đi đọc sách ở
thư viện St. Geneviève(16) trên ngọn núi học hỏi trứ danh; nhưng anh chỉ được
tiếp thu ở đó những quyển sách không hiếm hoi gì mấy, cáu ghét, những chú thích
lố bịch, và có nhiều trang đã bị xé mất.
Trông thấy phụ nữ là anh rối loạn, và lại
nhớ đến bà des Aubels có hai đầu gối nhẵn bóng lấp lánh trong cái giường xô lệch.
Và mặc dầu đẹp trai, anh chẳng có người yêu vì anh nghèo và ăn mặc quần áo lao
động. Anh giao du với Zita và có được đôi chút vui thích đi dạo với chị ta ngày
chủ nhật trên những con đường bụi bặm men theo những bờ hào đầy cỏ rậm của những
thành lũy. Cả hai người đi dọc theo những quán rượu ngoại ô, những vườn trồng
rau, những giàn cây xanh, vừa trình bày, tranh cãi về những mưu toan to tát nhất
đã có bao giờ được bình luận sôi nổi trên trái đất này; và đôi khi, đến gần bên
một cuộc vui của phường hát rong, điệu nhạc kèn của trò chơi ngựa gỗ đệm vào những
lời nói của họ, nó đương đe dọa cõi thiên đình.
Zita thường hay nhắc đi nhắc lại:
- Istar thì chân chính đấy, nhưng là một
anh chàng ngây thơ. Anh ta tin ở đức tốt của các sinh vật và các sự vật. Anh ta
tiến hành việc phá hủy thế giới cũ và trông cậy ở sự rối loạn tự phát để nó tạo
hộ cho trật tự và hài hòa. Anh Arcade ạ, anh tin ở khoa học; anh tưởng tượng rằng
con người và thiên thần đều có khả năng hiểu biết, trong khi họ chỉ bẩm sinh để
cảm thụ. Anh nên biết rằng người ta không thu hoạch được cái gì của họ khi kêu
gọi đến trí thông minh của họ: phải nói chuyện với những lợi ích và những dục vọng
của họ kia.
Arcade, Istar, Zita và ba bốn thiên thần đồng
mưu khác, đôi khi tụ họp trong căn nhà bé nhỏ của Théophile Belais, ở đó
Bouchotte phục vụ nước trà cho họ. Không biết rằng họ là những thiên thần phiến
loạn, chị ta ghét họ do bản năng và lo sợ họ do hiệu quả của một nền giáo dục
Cơ đốc giáo, tuy rất lỏng lẻo. Duy chỉ có hoàng thân Istar được lòng chị; chị
thấy anh ta nhu mì và bản tính ưu nhã. Anh ngồi thủng cả đi văng, đổ sụp cả các
ghế bành và, để ghi chú, xé cả những góc giấy của những bản nhạc và đút vào các
túi của anh ta, bao giờ cũng ních đầy sách vở và chai lọ. Chàng nhạc sĩ buồn rầu
trông thấy bản thảo vở ca kịch của chàng, Aline
nữ hoàng xứ Golconde, bị gãy mất góc như vậy. Hoàng thân cũng có thói quen
hay gửi Théophile Belais đủ thứ các khí cụ cơ giới, các hóa chất, sắt vụn, chì
đạn, bột thuốc nổ, thuốc muối, tỏa ra một mùi thối hoắc. Théophile Belais giấu
cẩn thận những thứ đó vào cái tủ trong đó anh cất giữ đôi cánh của anh, và cái
kho tàng đó làm cho anh lo ngại.
Arcade khổ tâm chịu đựng sự khinh bỉ của những
bạn cũ của anh vẫn trung thành với Chúa. Khi họ gặp anh trong những cuộc chạy
ngược chạy xuôi thần thánh của họ thì họ biểu lộ với anh, qua loa, một mối căm
thù cay độc hoặc một nỗi thương hại cay độc hơn mối căm thù.
Anh đến thăm những thiên thần phản loạn mà
hoàng thân Istar chỉ cho anh, và thường được đón tiếp niềm nở. Nhưng hễ anh nói
với họ về chuyện chinh phục cõi trời, thì họ không giấu nổi sự lúng túng và mất
vui mà anh gây cho họ. Arcade nhận thấy rằng họ không muốn bị quấy rầy trong những
sở thích của họ, trong những công việc, những thói quen của họ; sự sai lạc
trong phán đoán của họ, sự thiển cận của đầu óc họ làm cho anh khó chịu, và những
chuyện tranh chấp, ghen tuông mà họ gây ra giữa người nọ đối với người kia làm
cho anh hết hy vọng kết hợp được họ với nhau trong một công cuộc chung. Nhận thấy
rằng tình trạng lưu đày làm cho tính tình người ta bị suy sụp và trí thông minh
bị sai lạc biết chừng nào, anh cảm thấy lòng can đảm của anh nao núng.
Một chiều tối, anh thú thực sự chán ngán của
anh với Zita, thì vị thượng đẳng nữ thiên thần xinh đẹp bảo anh rằng:
- Chúng ta hãy đến gặp Nectaire(17) đi,
Nectaire có những bí quyết chữa khỏi bệnh buồn bã và mệt mỏi.
Nàng dắt anh vào những khu rừng cây ở
Montmorency(18) và dừng bước trên ngưỡng của một ngôi nhà nhỏ quét vôi màu trắng
tiếp giáp với một vườn rau bị mùa rét làm cho trơ trụi, và lấp lánh trong bóng
tối, những ô kính của các nhà kính và những chuông thủy tinh đã rạn nứt úp trên
những quả dưa mơ lông.
Nectaire mở cửa đón khách, và sau khi đã dẹp
yên tiếng sủa của một con chó xồm to lớn giữ vườn, dẫn khách vào gian buồng thấp
ở nhà ngang trong, có một lò sưởi bằng sành sưởi ấm. Trên một tấm ván gỗ bách,
giữa đám những hành tây và hạt đỗ, là một cây sáo dựa vào tường vách quét vôi
trắng, sẵn sàng để ghé môi thổi. Một chiếc bàn tròn bằng gỗ hồ đào mang một
bình thuốc lá sợi bằng gốm sa thạch (19), một cái tẩu thuốc, một chai rượu vang
và những cái cốc. Ông lão làm vườn mời khách mỗi người ngồi vào một chiếc ghế tựa
nệm rơm và bản thân ông ngồi vào chiếc ghế đẩu bên cạnh bàn.
Đó là một ông già tráng kiện; một bộ tóc
hoa râm và dày rậm dựng trên đầu ông ta; ông ta trán dô, mũi tẹt ngắn, da mặt hồng
hào, chòm râu cằm chẻ đôi. Con chó xồm to lớn nằm dài dưới chân chủ, đặt cái
mõm đen và ngắn trên đôi chân trước và nhắm mắt lim dim. Ông lão làm vườn rót
rượu vang mời khách. Và khi hai người khách đã uống rượu vang và đã trao đổi với
nhau vài lời, Zita nói với Nectaire:
- Yêu cầu ông thổi sáo cho chúng tôi nghe.
Ông sẽ làm vui lòng anh bạn mà tôi đã dắt đến đây thăm ông.
Ông lão đồng ý ngay. Ông ghé môi vào ống
sáo bằng gỗ hoàng dương, nó thô sơ đến nỗi tưởng chừng như chính tay ông lão
làm vườn đã đẽo gọt nên nó, và thổi dạo vài câu kỳ dị. Rồi ông thổi những giai
điệu tráng lệ, trên nền đó những âm láy(20) lấp lánh khác nào những viên kim
cương và châu ngọc trên nền nhung. Được những ngón tay tài tình sử dụng, được một
hơi thở sáng tạo làm cho sôi động, cái ống gỗ quê mùa vang lên như một ống sáo
bằng bạc. Nó không phát ra những âm quá lanh lảnh, và âm sắc của nó bao giờ
cũng đều đều và trong trẻo. Người ta tưởng chừng như được nghe thấy cùng một
lúc tiếng chim oanh và các nữ thần thơ nhạc, tất cả thiên nhiên và tất cả con
người. Và ông già gửi gắm, diễn tả, phát triển các tư tưởng của ông bằng một
tài năng âm nhạc đầy ưu nhã và táo bạo. Ông diễn tả tình yêu, nỗi sợ, những
tranh chấp hão huyền, tiếng cười đắc thắng, những ánh sáng yên lặng của trí
thông minh, những cái tên của trí tuệ bắn tơi bời những mũi nhọn hoàng kim của
nó vào những ác quái của dốt nát và hận thù. Nó cũng diễn tả nỗi vui sướng và
niềm đau đớn ngả xuống trái đất hai cái đầu sinh đôi của chúng, về sự thèm muốn
nó sáng tạo ra các thế giới.
Tất cả đêm thâu nghe thấy tiếng sáo của
Nectaire. Sao Mai đã dâng lên ở chân trời tang tảng. Zita hai bàn tay ôm hai đầu
gối, Arcade, bàn tay ôm trán và đôi môi hé mở; cả hai người đều yên lặng, lắng
nghe. Một con sơn ca, thức giấc gần đó trong một thửa ruộng cát bồi, được những
âm thanh mới lạ kia hấp dẫn, bay bổng vút lên không trung, đứng lại trên đó
giây lát, rồi lao thẳng một mạch đến vườn quả của nhà nhạc sĩ. Những chim sẻ ở
gần bên, rời bỏ cái hốc của những bức tường cũ, đến đậu thành đàn trên bậc cửa
sổ từ trong đó bay ra những âm thanh chúng thích thú hơn cả những hạt đại mạch
và kiều mạch. Một con chim cà kiện, lần đầu tiên ở rừng cây ra, gấp đôi cánh ngọc
lam trên một cây anh đào trụi lá của khu vườn. Trước cửa sổ hầm nhà, một con
chuột cống đen, ướt lướt thướt những nước béo nhẫy của cống rãnh, ngồi bệt đít
xuống, ngạc nhiên giơ hai cánh tay ngắn ngủn và những ngón đang xòe. Một con
chuột đồng, cư dân của khu vườn quả, đứng bên cạnh nó. Từ máng nước tụt xuống,
con mèo đực nhà nuôi, vẫn còn giữ được của tổ tiên hoang dã bộ lông màu xám,
cái đuôi có nhiều đốt nhiều khoanh, đôi hông cường tráng, đức dũng cảm và vẻ lẫm
liệt, lấy mũi đẩy cái cửa hé mở, đi êm êm lại gần người thổi sáo, và ngồi một
cách trang trọng, vểnh hai cái tai bị rách trong những trận đánh nhau ban đêm.
Con mèo cái màu trắng của anh hàng hương liệu thực phẩm đi theo nó, đánh hơi
không khí vang vang những âm thanh, rồi uốn lưng cong như cánh cung, nhắm đôi mắt
xanh lắng nghe khoái chí. Lũ chuột nhắt, từ phía dưới sàn nhà chạy lên, vây
quanh những con người kia thành đàn và chẳng sợ nanh sợ vuốt gì cả, im phăng phắc,
chắp đôi bàn tay hồng hào lên ngực một cách thành kính. Những con nhện, rời xa
những tấm mạng của chúng, các chân run rẩy, tụ tập trên trần nhà đội quân mê mẩn
của chúng. Một con thằn lằn màu xám, đã trườn được đến ngưỡng cửa, dừng lại đấy
như bị thôi miên, và giá có ai lên gác kho lúc đó, thì chắc đã được trông thấy
con dơi đang treo mình bằng ngón chân, đầu dốc ngược xuống thấp, bây giờ, hơi
thức giấc nửa chừng khỏi giấc ngủ mùa đông, đung đưa theo nhịp của tiếng sáo dị
kỳ.
-------------
Chú thích.
1.
Con quái mình ngựa mặt người: là con
quái Centaure, tiếng Hán Việt là nhân mã quái, tương truyền là một giống
người man rợ xưa kia sống ở Thessaly, sau được coi là những quái vật truyền kì
nửa người nửa ngựa, đánh nhau với dân tộc Lapithes bị dân tộc này tiêu diệt cả
giống nòi.
2.
Rủa sả Eva: Sau khi Eva nghe lời con
rắn (tức là hiện thân của Satan) cám
dỗ, bảo chồng là Adam hái quả cấm ăn, trái với lời dặn của Đức Chúa trời, bị Đức
Chúa trời rủa sả rằng: “Ta sẽ tăng bội phần sự đau khổ của ngươi trong khi thai
nghén: ngươi phải chịu đau đớn mỗi khi sanh con; sự dục vọng khiến ngươi phải
xu hướng về chồng và chồng ngươi sẽ cai trị ngươi”. (Sáng thế ký, III, 16)
3.
Rủ xuống ngực: đây là bức chân dung
điển hình của người Do Thái.
4.
Jéhovah: tên gọi Đức Chúa Trời trong
Cựu Ước, do tiếng Hébrew Yahweh
(nghĩa là Ta là kẻ hằng có) được
phiên âm Pháp hóa. - Hòm thánh tích (tabernacle): vốn tabernacle là cái lều trướng bằng vải để kỷ niệm việc dân tộc Israel
rời khỏi Ai Cập, nhưng trong lều có đặt cái hòm
thánh tích (Arche d’alliance) của
Đức chúa Trời, nên tabernacle cũng có
nghĩa là hòm thánh tích.
5.
Nineveh: thành phố xưa của Tiểu Á, thủ
đô của Assyrie, trên bờ sông Tigris.
6.
Thiên cầm (lyre): tên một thứ huyền cầm
thời cổ đại ngày xưa, hình ảnh vừa gảy đàn vừa ngâm thơ tượng trưng cho thi ca.
7.
Val de Grâce: nữ tu viện nổi tiếng của
Paris ở phố Saint Jacques, xây dựng từ 1645 đến 1665.
8.
Chim đít trụi: chim còn non, chưa mọc
đủ lông đuôi.
9.
Chế độ tài phiệt quả đầu chính (Oligarchie financière) nghĩa là
chế độ chính trị tài phiệt do một số ít người cầm đầu. Vì lối dịch phổ thông
theo tiếng Hán Việt hơi dài dòng, nên thường gọi tắt là chế độ tài phiệt.
10.
Bá vương ánh sáng (Prince de la
lumière): tức là Lucifer và đồng bọn đánh nhau với Chúa trời Jéhovah, từ lâu đời
lắm, bị Jéhovah dùng sét đánh thua và đày xuống hỏa ngục.
11.
Issy-les-Moulineaux: là một xã trong
vùng đô thị Paris, thuộc tỉnh Hauts-de-Seine, vùng hành chính Île-de-France của
nước Pháp.
12.
Titan Prométhée: Titan là tên gọi những
khổng lồ con của thần Trời và thần Đất, cố sức chồng chất núi non lên nhau để
trèo lên trời, nhưng bị Jupiter dùng sét đánh chết. Sau thành tên chung để gọi
những khổng lồ có sức mạnh, muốn mưu toan việc lớn quá sức.
Prométhée là con của titan Japet
và anh em ruột của Atlas, trong thần thoại cổ điển, được coi là người mở đầu
cho văn minh của loài người. Tương truyền là lấy đất nặn thành hình người và hà
hơi cho có sự sống, bị Jupiter ghen ghét ra lệnh cho Vulcan xích chặt vào ghềnh
đá trên núi Caucase, cho một con chim kền kền đến mổ ăn gan. Sau, được Héraclès
giải phóng.
13.
Nhu yếu (Nécessités): ăn, mặc, yêu
đương, v.v...
14.
Vaugirard: tên một xã cũ ở ngoại ô
Paris, sau được sáp nhập vào kinh đô, thành tên phố.
15.
Visorium: tiếng La tinh, nghĩa là cái
cột để treo cái bảng nói trên, cho người thợ sắp chữ xem được dễ dàng.
16.
Thư viện Saint Geneviève: thư viện nổi
tiếng từ thời Rabelais (thế kỷ XVI), đã được Rabelais nói đến trong quyển Pantagruel của ông (1532).
17.
Nectaire: đây là tên người nhưng rõ
ràng là mượn ở danh từ chung nectaire:
tuyến mật của hoa, và nectar: mật
hoa, và thức uống của thần tiên.
18.
Montmorency: tổng lỵ trong tỉnh
Seine-et-Oise, quận Pontoise. Có anh đào nổi tiếng, có rừng đẹp. Jean-Jacques
Rousseau đã từng có nhà ở đó.
19.
Gốm sa thạch (grès): danh từ này (cũng như danh từ faïence ở trên, dịch là sành) là theo mấy quyển từ điển Pháp-Việt,
nhưng chưa được phổ thông lắm. Đáng lẽ grès
phải gọi là sành như hũ đựng tương, liễn da lươn, tiểu sành, v.v… Còn faïence là sứ dày để làm bát đĩa chén
bình thường khác với porcelaine là sứ
mỏng và trong để làm bát đĩa chén quý.
20.
Láy (trile): một nốt nhạc gảy xong rồi,
láy thành nốt liền nhau, cách nhau nửa giọng hay một giọng, và láy đi láy lại hồi
lâu.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét