Thứ Ba, 10 tháng 12, 2019

Thiên Thần Nổi Loạn - Chương 20

Thiên Thần Nổi Loạn

Tác giả: Anatole France
Dịch giả: Đoàn Phú Tứ
Nhà xuất bản Hội nhà văn - 1987

Chương 20

Truyện kể tiếp theo.

“Trò mê tín mới, trước hết lan rộng ở Syrie và ở châu Phi; nó tràn đến các hải cảng lúc nhúc một thứ hạ dân nhơ nhớp, và thâm nhập vào nước Ý, trước hết ô nhiễm bọn gái đĩ và bọn nô lệ, rồi tiến rất nhanh chóng vào đám tiện dân của đô thị. Nhưng trong một thời gian lâu dài, các vùng nông thôn đã không bị nó làm phiền.
Cũng như thời quá khứ, các thôn dân vẫn dâng cho nữ thần Diane một cây thông mà họ tưới hàng năm bằng máu của một con lợn cỏ còn non, cúng bái thần Gia trạch để xin các vị phù hộ, bằng lễ hiến tế một con lợn nái và hiến dâng Bacchus, ân nhân của loài người, một con dê trắng toát, và, nếu họ nghèo quá, ít ra họ cũng cúng các thần bảo hộ bếp lửa, bảo hộ ruộng nho và đồng ruộng, một ít rượu vang và bột. Chúng tôi đã dạy cho họ rằng chỉ cần mó vào ban thờ bằng một bàn tay thanh khiết, và chư thần vui lòng với một lễ lạt xuềnh xoàng. Trong khi đó, sự ngự trị của Jéhovah được loan báo ở hàng trăm nơi bằng những trò điên cuồng. Những người Cơ đốc giáo đốt sách, lật đổ đền đài, thiêu hủy các đô thành, thi hành những cuộc tàn phá đến tận các sa mạc hoang dã. Ở đó, hàng nghìn những người khốn khổ, xoay cơn cuồng nộ vào chính bản thân mình, tự rạch sườn bằng những mũi sắt nhọn. Và, khắp mặt đất, những tiếng thở than của những nạn nhân tự nguyện dâng lên vị thần như những lời ca tụng. Nơi ẩn dật có bóng mát âm u của tôi cũng không thể thoát lâu được sự cuồng dữ của những quân điên rồ đó.
Ở trên đỉnh ngọn đồi, cao hơn khu rừng ô liu hằng ngày được vui lên vì tiếng sáo của tôi, vươn lên từ những năm đầu của nền thanh bình La Mã, một ngôi đền nhỏ bằng cẩm thạch, tròn như những túp lều của tổ tiên. Nó không có tường vách: trên một cái nền cao bảy bậc, dựng đứng thành vòng tròn mười sáu cột trụ có những hình lá acanthe xoắn cuộn, mang một cái mái vòm bằng ngói trắng. Mái vòm đó che phủ một pho tượng thần ái tình đương vót cánh cung, tác phẩm của một nhà điêu khắc ở Athènes. Đứa trẻ (1) có vẻ như đang thở; nỗi vui mừng hiện ra từ đôi môi của nó; tất cả tay chân của nó đều hài hòa và mềm mại. Tôi tôn kính hình tượng đó của vị thần có mãnh lực nhất trong các thần, và tôi dạy cho các thôn dân đem cúng dâng vị thần đó một cái bát, bao phủ bằng hoa mã tiên, và đầy một thứ rượu vang cũ hai năm.
Một hôm tôi đang ngồi theo thường lệ ở dưới chân vị thần, suy nghĩ về những lời giáo huấn và những bài hát thì bỗng một người đàn ông lạ mặt, man rợ, râu xồm xoàm, tiến đến gần ngôi đền, nhảy một cái qua bậc cẩm thạch, và đầy vẻ nhanh nhẹn hung dữ, kêu lên:
“- Hãy chết đi, quân đầu độc các tâm hồn, và cầu cho sự hoan hỉ và cái đẹp cùng chết với mi”.
Nó nói và rút trong thắt lưng ra một cái búa và giơ lên đầu vị thần. Tôi chặn cánh tay nó lại, quật nó ngã xuống và chà đạp lên nó dưới móng chân bằng sừng(2)của tôi.
“- Đồ quỷ, - nó kêu lên với một sự can đảm hung dữ, - hãy để cho tao lật đổ cái ngẫu tượng này rồi mày có thể giết tao sau”.
Tôi không chấp nhận lời thỉnh nguyện tàn khốc của nó; nhưng dùng hết sức nặng của tôi đè lên ngực nó, răng rắc dưới đầu gối của tôi, và lấy hai bàn tay bóp cổ nó, tôi bóp chết nghẹt tên vô đạo.
Trong khi nó nằm sõng sượt, mặt tím ngắt, và lưỡi thè lè, dưới chân vị thần tươi cười, tôi đi tẩy rửa cho thanh khiết ở suối nước thiêng liêng. Rồi, rời bỏ miền đất đó, đã trở thành cái mồi cho bọn Cơ đốc giáo, tôi đi xuyên qua các xứ Gaules(3), và tới hai bờ sông Saône(4) mà xưa kia Dionysus đã du nhập cây nho đến. Vị thần của bọn Cơ đốc giáo còn chưa được bảo trì cho những dân tộc hạnh phúc này. Họ thờ kính, vì vẻ đẹp của nó, một cây sồi rừng rậm lá, mà những cành được tôn trọng rủ xuống tận đất, và họ treo vào đó những dải băng nhỏ bằng len. Họ cũng thờ kính một ngọn suối thiêng liêng và đặt những hình tượng bằng đất sét trong một cái hang đá ẩm ướt. Họ cúng dâng những miếng phô mai nhỏ và một bát sữa cho các Lâm Tuyền tiên nữ. Nhưng chẳng bao lâu, một sứ đồ của buồn rầu được phái đến họ do vị thần mới. Y khô đét hơn một con cá hun khói. Tuy bị kiệt sức bởi nhịn đói và thức đêm, y giảng dạy, với một sự nồng nhiệt không sao dập tắt nổi, chả biết những lẽ huyền bí âm u gì. Y yêu thích đau khổ và cho rằng đau khổ là tốt: nỗi tức giận của y theo đuổi tất cả những gì đẹp, yêu kiều và hoan hỉ. Cái cây thiêng liêng ngã xuống dưới lưỡi búa của y. Y căm thù các Lâm Tuyền tiên nữ vì các cô đó đẹp, và y nguyền rủa vào mặt họ khi đôi hông tròn trĩnh của họ lấp lánh ánh hoàng hôn, qua khe hở của cành lá, và y ghét tiếng sáo du dương của tôi. Tên khốn cùng đó nghĩ rằng có những câu thần chú để xua đuổi các quỷ thần bất tử cư trú trong những hang hốc tươi mát, trong những chốn rừng sâu và những đỉnh núi cao. Y tưởng thắng được chúng tôi bằng vài giọt nước trên đó y đã đọc vài câu nào đó và làm vài cử chỉ nào đó. Để báo thù, các Lâm Tuyền tiên nữ xuất hiện lên trong ban đêm và làm cho y sinh lòng thèm muốn điên cuồng mà tên ăn mày đó cho là tội nặng, rồi các cô bỏ chạy, gieo rắc qua các cánh đồng tiếng cười giòn giã, trong khi nạn nhân của các cô quằn quại, lòng cháy bừng, trên nệm trải lá cây. Như vậy các Lâm Tuyền tiên nữ thần thánh nhạo báng những quân phù thủy và chế giễu bọn ác bụng và sự trinh khiết bẩn thỉu của chúng.
Gã sứ đồ đã không làm hại được như y mong muốn, vì y dạy bảo những đầu óc chất phác và ngoan ngoãn theo lệnh của thiên nhiên và sự tầm thường của phần nhiều người, là họ rút được ít hệ quả từ những nguyên lý người ta truyền thụ cho họ. Khu rừng nhỏ mà tôi cư ngụ là thuộc quyền sở hữu của một người Gaulois(5) dòng dõi gia đình nguyên lão nghị viên, còn giữ được một tí di phong của những ưu nhã La-tinh. Anh ta yêu cô nô lệ phóng thích trẻ tuổi của anh ta và chia sẻ với cô cái giường vải điều có thêu những bông hoa thủy tiên. Bọn nô lệ của anh trồng trọt ruộng nho và vườn cây của anh, anh là thi sĩ và bắt chước Ausone(6) ca vịnh nữ thần Venus quất con trai của nàng bằng những cành hoa hồng. Mặc dầu anh là người theo đạo Cơ đốc, anh cũng cung hiến cho tôi sữa, hoa quả và rau đậu như cho thổ thần địa phương. Đáp lại, tôi làm vui những phút rảnh rỗi của anh bằng tiếng sáo của tôi và đem lại cho anh những giấc mơ tốt đẹp. Thực sự, những người Gaulois hòa bình đó biết rất ít về Jéhovah và con trai của lão.
Nhưng đây kia, những đám lửa nhóm lên ở chân trời, và những tro tàn, bị gió xua đi rơi rắc trong khu thưa thoáng của những cánh rừng của chúng tôi. Những nông dân dẫn trên các đường cái một đoàn dài những xe vận chuyển hoặc thúc những đoàn gia súc trước mặt họ đi lên. Những tiếng kêu hãi hùng cất lên từ các làng xóm: “Quân Burgondes(7)!…”. Một kị sĩ đầu tiên hiện ra, ngọn giáo cầm tay, toàn thân mặc áo giáp trụ bằng thanh đồng màu sáng, và bộ tóc đỏ dài của y rủ thành hai cái bím trên hai vai. Rồi hai tên nữa tới, rồi hai chục, rồi hàng nghìn, dữ tợn, máu me. Chúng tàn sát các ông già, các con trẻ, hãm hiếp cả đến các bà cụ lão tổ mà những lọn tóc bạc dính bê bết vào đế giày của chúng, cùng với óc những trẻ sơ sinh. Anh chàng người Gaulois trẻ tuổi của tôi và cô nô lệ phóng thích trẻ tuổi của anh, đổ máu nhuộm đỏ giường nằm có thêu hoa thủy tiên. Quân man di đốt các giáo đường basilica để thui chín những bò thiến nguyên cả con, chúng đập vỡ các bình amphore(8) và húp rượu vang lẫn trong bùn của các hầm ủ rượu bị ngập. Những cô vợ của chúng đi theo chúng, chồng chất lên nhau nửa lõa thể trong các cỗ chiến xa. Khi Viện nguyên lão và nhân dân các đô thị và thủ trưởng các nhà thờ đã chết trong những đống lửa, thì quân Burgondes say rượu nằm lăn dưới nhưng vòm cuốn tò vò của quốc dân hội nghị trường. Và mười lăm ngày sau, người ta thấy một đứa trong bọn chúng mỉm cười, trong bộ râu dày rậm, với một đứa trẻ nhỏ, mà trên bậc cửa của nhà ở, cô vợ tóc vàng xinh đẹp bồng trên tay; một tên khác nhóm lò rèn mà nện sắt nhịp nhàng; một tên khác ngồi hát dưới một cây sồi cho các đồng bọn tụ hội của chúng, ca vịnh những thần và những anh hùng của giống nòi hắn; và những tên khác nữa bày ra, để bán, những miếng đá từ trên trời rơi xuống, những cái sừng bò rừng và những bùa tua bùa túi để đeo chơi. Và các cư dân xưa cũ của miền đó, dần dần được yên tâm, từ trong những khu rừng ẩn náu đi ra, và đi nâng cất lại túp lều bị cháy của họ, cày ruộng của họ và xén những gốc nho của họ. Người ta lại sinh hoạt trở lại nhưng những thời đó là những thời khốn khổ nhất mà nhân loại còn phải trải qua. Quân man di tràn khắp đế quốc. Phong tục của họ thô lỗ, và vì họ nuôi dưỡng ý chí báo thù và tham lam nên họ tin tưởng vững chắc ở sự đền chuộc các tội lỗi. Cái chuyện hoang đường của Jéhovah và con trai của lão, họ lấy làm thích và họ tin dễ dàng, nhất là nó đã được dạy bảo cho họ do những người La Mã kia, mà họ biết là học thức giỏi giang hơn họ và họ ngầm cảm phục các kỹ năng và phong tục. Than ôi! Hy Lạp và La Mã chỉ có những kẻ thừa kế ngu ngốc. Tất cả mọi tri thức đã mất rồi. Khi đó, được hát thánh ca ở cung hát lễ trong giáo đường là một điều hãnh diện lớn, và những kẻ nào nhớ được vài câu trong Kinh thánh được coi là những thiên tài kỳ diệu. Cũng còn có những thi sĩ, cũng như có những chim hót nhưng thơ thẩn của họ khập khễnh cả mười chân. Các quỷ thần xưa cũ, những phúc thần của con người, bị lột hết vinh diệu, bị xua đuổi, truy kích, lùng bắt, ẩn nấp trong rừng rú, hoặc, nếu họ còn hiện lên với loài người, thì họ lấy một bộ mặt khủng khiếp, để buộc loài người phải kính nể, một lớp da đỏ, xanh hoặc đen, đôi mắt trợn trừng, một cái mồm to tướng nhe ra những răng lợn lòi, những sừng, một cái đuôi sau đít và đôi khi một cái mặt cười trên bụng. Các Lâm Tuyền tiên nữ thì vẫn đẹp: và những quân man di, chẳng biết một cái tên nào trong những danh hiệu rất êm ái mà các cô mang ngày xưa, gọi các cô là các nàng tiên, gán cho các cô một tính khí thay đổi thất thường và những sở thích trẻ con, chúng sợ các cô, yêu các cô.
Chúng tôi bị thất thế rất nhiều, suy vi rất nhiều; tuy vậy, chúng tôi không nản chí, và giữ một khí chất tươi cười và một tinh thần ân ưu. chúng tôi, trong những thời buổi độc ác đó, đã là những bạn chân chính của loài người. Nhận thấy rằng những quân man di dần dần bớt e sợ và bớt hung dữ, chúng tôi khéo tìm cách chuyện trò với họ dưới mọi cách giả trang. Chúng tôi xúi giục họ, với hàng nghìn cách cẩn thận và những lời quanh co thận trọng, đừng thừa nhận lão Jéhovah già nua là một ông Chúa không bao giờ sai lầm, đừng mù quáng vâng theo mệnh lệnh của lão, đừng sợ những đe dọa của lão. Khi cần thiết, chúng tôi dùng đến cả những mánh khóe của tà thuật, chúng tôi không ngớt khuyến khích họ học hỏi thiên nhiên, và tìm tòi các di tích của sự hiền minh xưa cũ. Những chiến sĩ của phương Bắc đó, mặc dù thô lỗ, cũng biết vài kỹ năng cơ giới. Họ tưởng trông thấy những cuộc chiến đấu ở trên trời; tiếng đàn hạc làm cho họ rớt nước mắt và có lẽ họ có một đầu óc có khả năng làm công cuộc to lớn hơn những người Gaulois và La Mã suy đồi mà họ đã xâm chiếm được đất đai. Họ không biết đẽo đá, không biết mài nhẵn cẩm thạch, nhưng họ cho đem đến những đá vân(9) và những cột trụ của La Mã và của Ravenne(10); các thủ lĩnh của họ lấy để làm ấn triện một hòn ngọc thạch đã được một người Hy Lạp chạm khắc trong những ngày tốt đẹp. Họ xây dựng những tường thành của họ bằng những hòn gạch sắp xếp khéo léo tua tủa thành kiểu râu bông lúa, và đạt tới mức xây được những nhà thờ khá dễ coi với những gờ diềm được đỡ dưới tầng những giá chân quỳ có đắp những hình đầu người dữ tợn và những đầu cột nặng nề có những quái vật cắn xé lẫn nhau.
Chúng tôi dạy họ văn học và khoa học. Một vị trợ tế của chúa họ(11), tên là Gerbert(12) đến học chúng tôi những bài học vật lý, số học, âm nhạc, và người ta bảo rằng y đã bán linh hồn cho chúng tôi. Bao thế kỷ trôi qua và phong tục vẫn hung bạo. Thế giới vẫn chìm trong nạn máu lửa. Những người kế ngôi của Gerbert chăm học đó, không vừa lòng chuyện chiếm hữu các tinh thần (lợi lộc trong đó nhẹ hơn không khí), lại muốn chiếm hữu các thân thể nữa. Họ tham vọng nắm quyền quân chủ toàn thể, do các quyền đã được trao cho họ bởi một người đánh cá ở hồ Tiberiade(13). Một người trong bọn họ, có một lúc, nghĩ rằng có ưu thế hơn Germain(14) nặng nề, nối ngôi Augustus. Nhưng cuối cùng quyền tinh thần phải thỏa hiệp với quyền thế tục và các dân tộc bị giằng co giữa hai chúa tể mâu thuẫn. Những dân tộc đó tự tổ chức trong một tình trạng hỗn loạn kinh khủng. Chỉ những là chiến tranh, đói kém, hủy diệt. Vì họ quy cho chúa của họ các loại tai họa nhiều vô kể sập xuống đầu họ, nên họ gọi chúa của họ là chúa Rất Tốt, không phải là để làm phản ngữ, mà vì đối với họ kẻ tốt nhất là kẻ gia tai gia họa mạnh nhất. Trong thời buổi hung bạo đó, muốn tự tạo cho mình những giây phút rảnh rang học hỏi, tôi bèn chọn một bề có thể làm cho mọi người ngạc nhiên, nhưng rất khôn ngoan.
Giữa sông Saône và dãy núi Charolais(15), trên đó có những đàn bò gặm cỏ, có một quả đồi cây, dốc thoai thoải xuống những cánh đồng cỏ được một dòng suối chảy qua. Trên quả đồi đó, dựng lên một tu viện nổi tiếng trong toàn giáo dân Cơ đốc. Tôi che giấu dưới một tấm áo dài đôi chân trẽ của tôi và vào làm tu sĩ trong tu viện đó, sống yên ổn trong đó, tránh khỏi các lính vũ trang, chúng dù là bạn hay thù, đều tỏ ra phiền nhiễu như nhau. Con người, trở thành lẫn cẫn, phải học lại tất cả mọi thứ. Thầy tu Luke, bạn láng giềng ở phòng bên của tôi, đang nghiên cứu phong tục của các loài động vật, dạy rằng con chồn cái thụ thai những con của nó bằng lỗ tai. Tôi đi hái trong những cánh đồng những lá thuốc để đỡ bệnh cho những người ốm đau, từ trước đến đó, để gọi là chữa chạy, người ta cho họ sờ mó những di tích của những vị thánh. Trong tu viện cũng có vài vị thần, đồng loại với tôi, mà tôi nhận ra ở bàn chân móng trẽ của họ và ở những lời ân ưu của họ. Chúng tôi góp sức vào để giáo hóa đầu óc thô lậu của các tu sĩ.
Trong khi dưới những bức tường bao của tu viện, những trẻ nhỏ chơi trò đánh đáo nhảy lò cò, thì các tu sĩ chúng tôi chơi một trò chơi khác cũng vô vị như thế và tuy vậy chúng tôi cũng vui chơi với họ; vì cần phải giết thì giờ, và chính đó, nếu nghĩ cho kỹ, là cách duy nhất sử dụng cuộc sống. Trò chơi của chúng tôi là một trò chơi lộng ngữ vừa ý đầu óc chúng tôi, vừa tế nhị vừa thô lỗ, nó làm bừng bừng các trường phái và làm hoang mang tất cả toàn dân Cơ đốc giáo.
Chúng tôi chia làm hai phe. Một phe chủ trương rằng trước khi có những quả táo, thì đã có Quả Táo rồi; rằng trước khi có những thầy tu dâm đãng và tham ăn, thì đã có Thầy tu, có sự Dâm đãng và sự Tham ăn, trước khi có những cái bàn chân và những cái đít ở thế gian này, thì cái Đá đít đã cư ngụ từ đời thuở nào ở Thiên đàng rồi. Phe kia trả lời rằng, trái lại, những quả táo cho con người cái ý niệm về quả táo, những con vẹt, cái ý niệm về con vẹt; những thầy tu, ý niệm về thầy tu, về tham ăn và dâm đãng, và cái đá đít chỉ hiện hữu sau khi đã có kẻ được đá và kẻ bị đá hẳn hoi. Các người chơi nổi nóng lên và đánh đấm nhau. Tôi thuộc vào phe thứ hai, nó thỏa mãn lý trí của tôi hơn, và, quả vậy, bị kết tội bởi Nghị hội Soissons(16).
Trong khi đó, chỉ đánh lẫn nhau thôi, chư hầu chống thượng chức, thượng chức chống chư hầu, các lãnh chúa chưa thấy là vừa lòng, bèn nghĩ chuyện đi chinh chiến ở phương Đông(17). Họ nói, theo như tôi còn nhớ, rằng họ đi giải phóng lăng tẩm con trai của Chúa trời. Họ nói như vậy, nhưng đầu óc phiêu lưu và tham lam của họ kích thích họ đi tìm kiếm ở xa xôi những đất đai, những đàn bà, những nô lệ, vàng, nhựa thơm, mộc dược và hương trầm. Những cuộc viễn chinh đó, tôi có cần phải nói không? Đều thảm hại nhưng các đồng bào đần độn của chúng tôi được đem về sự hiểu biết những công nghệ và những kỹ năng của phương Đông, và một lòng yêu thích cái huy hoàng lộng lẫy. Từ đó, chúng tôi đỡ khó nhọc hơn để làm cho họ làm việc và đặt họ lên con đường những sáng chế. Chúng tôi xây những giáo đường đẹp tuyệt vời, những vòng cung gãy khúc một cách táo bạo, những cửa sổ vòng cung nhọn, những chòi tháp cao, hàng nghìn những đầu chuông nhỏ, những mũi nhọn tháp chuông, vút lên bầu trời của Jéhovah, đem lên cho lão vừa những cầu nguyện của những người hèn mọn vừa những đe dọa của những kẻ kiêu căng; vì tất cả cái đó là công trình của chúng tôi cũng ngang với công trình của những bàn tay của loài người, và thật là một quang cảnh lạ lùng khi trông thấy cùng làm việc với nhau cho ngôi nhà thờ cả những người trần lẫn những quỷ thần, kẻ thì cưa xẻ, kẻ thì bào nhẵn, ghép những hòn đá, điêu khắc trên những đầu cột trụ và trên những gờ diềm, cành tầm ma, cành gai, cỏ gai, cành kim ngân hoa và cành dâu tây, đẽo gọt hình tượng những Đức Bà Đồng Trinh và những thần thánh, và những hình kì quái các loài rắn, loài cá có đầu lừa, những con khỉ gãi đít, nghĩa là mỗi người đem vào đó thiên tài của mình nghiêm khắc, ranh mãnh, cao siêu, thô kệch, khiêm tốn, táo bạo, và làm cho tất cả đó thành một tổng loạn âm hài hòa, một nhã ca mê ly những niềm vui nỗi đau khổ, một thành Babel khải hoàn(18). Theo sự xúi giục của chúng tôi, các thợ chạm trổ, các thợ kim hoàn, các thợ tráng men thực hiện được những kỳ công và tất cả các nghệ thuật xa hoa đều phát đạt cùng một lúc: hàng tơ lụa của Lyon, hàng thảm dệt của Arras, hàng vải của Reims, hàng dạ của Rouen. Những lái buôn vui vẻ cưỡi những con ngựa cái của họ, đi đến các chợ phiên, đem những tấm nhung và gấm vóc, những hàng thêu, những vải kim tuyến, những châu báu, những bát đĩa bằng bạc và những quyển sách tô vẽ màu. Những phường khoái hoạt dựng sân khấu trong trong các giáo đường hoặc trên các quảng trường công cộng và biểu diễn, theo trí thông minh của họ, những sự tích anh hùng của trời, của đất và của địa ngục. Các phụ nữ trang điểm những đồ trang sức lộng lẫy và tán chuyện về tình yêu. Khi mùa xuân về, quý tộc cũng như bình dân đều đua nhau thèm muốn được nô giỡn trong cánh đồng cỏ lốm đốm hoa tươi. Chàng nhạc sỹ lên dây đàn; các bà, các hiệp sĩ và các cô(19), các nam nữ thị dân, các thôn dân và trinh nữ, cầm tay nhau bắt đầu khởi động nhảy múa. Nhưng bỗng nhiên Chiến tranh, Đói kém, Dịch hạch nhập bọn, và cái Chết giằng cây đàn viôlông khỏi tay anh nhạc công, dẫn đầu cuộc vũ. Hỏa tai phá hủy các làng xóm và các tu viện, binh lính vũ trang treo những nông dân không có khả năng nộp tiền chuộc lên cây sồi ở ngã tư đường và trói đám đàn bà chửa vào thân cây, cho lũ chó sói ban đêm đến ăn thịt những thai nhi trong bụng mẹ. Các người khốn khổ không còn hiểu biết gì nữa. Đôi khi, sự thanh bình đã lập lại, thời tốt đẹp đã trở về, mà không lý do, bị một nỗi kinh hoàng điên cuồng tác động, họ rời bỏ cửa nhà và chạy đi từng đoàn, nửa lõa thể, tự xé da thịt bằng những móc sắt, và hát hỏng… Tôi không buộc tội Jéhovah và con trai của lão về tất cả tai họa đó. Rất nhiều sự xấu xa diễn ra không có lão và chống lại lão. Nhưng cái chỗ mà tôi nhận ra ý nghĩ của Đức Chúa Lòng Lành (như họ gọi lão) chính là ở cái tục lệ được thiết chế bởi các trợ tế của lão và thiết lập trên toàn thể giáo dân Cơ đốc, là thiêu sống, theo tiếng chuông gióng và tiếng hát thánh ca, những người đàn ông và đàn bà, được các quỷ thần dạy bảo, phát biểu về vị Chúa đó những ý kiến khác thường.
-------------
Chú thích.

1. Đứa trẻ: tượng thần Ái tình, biểu trưng là một đứa trẻ bịt mắt, cầm cung tên.

2. Móng chân bằng sừng: như móng ngựa, lừa, bò, dê, v.v. Nên nhớ là luôn luôn ông già Nectaire đội lốt con dê, có sừng, có chân trẽ đôi và móng bằng sừng, theo đúng hình tượng con quỷ trong truyền thống cũ.

3. Các xứ Gaules: tên chung để chỉ nhiều dân tộc khác nhau, ngày xưa sinh tụ ở một miền rộng lớn bao gồm nước Pháp ngày nay, nước Ý ngày nay và một phần đất đai của các nước Trung Âu.

4. Sông Saône: một nhánh sông Pháp bắt nguồn từ tỉnh Vosges, đổ vào sông Rhône của nước Pháp, ngã ba sông là thành phố Lyon.

5. Gaulois: thuộc về xứ Gaules.

6. Ausone: nhà thơ tiếng La-tinh, sinh ở Bordeaux năm 309, chết năm 394.

7. Quân Burgondes: bộ lạc Germanie định cư trên bờ sông Rhine từ thế kỷ IV, bị quân Hung nô đánh bại năm 437, liên kết với người La Mã và an cư ở lưu vực sông Rhône, bị quân Pháp thắng phục năm 534. Xứ Burgondes ở nước Pháp có tên gọi là do gốc ở tiếng Burgonde.

8. Bình amphore: một kiểu bình thời cổ, để đựng nước, bầu bình bồ dục, cổ dài, có hai quai.

9. Đá vân (porphyre): tiếng Hán Việt là vân ban thạch, đá có những vân màu đen, xanh đỏ.

10. Ravenne: thành phố nước Ý, đã từng là thủ đô của đế quốc Tây phương, có rất nhiều đài kiến trúc kiểu Byzantine.

11. Trợ tế của Chúa: tức là Giáo Hoàng.

12. Gerbert: Sylvestre II tức là Gerbert, làm Giáo Hoàng từ 999 đến 1003.

13. Hồ Tiberiade: hồ ở Palestin, xứ Galile, có sông Jordan chảy qua.

14. Germain: không rõ đây là Germain nào, vì trong lịch sử thì nối ngôi hoàng đế Augustus là Tibere chứ không có Germain nào.

15. Charolais: miền cũ ở nước Pháp, trong xứ Burgonde.

16. Soissons: một xã trong tỉnh Aisne nước Pháp. Đây là một trong những xã cổ xưa nhất của Pháp.

17. Chinh chiến ở phương Đông: ám chỉ các cuộc Thập tự chinh.

18. Thành Babel khải hoàn: trong Kinh thánh (Cựu ước) kể chuyện xây thành và tháp Babel như sau. Lúc đầu, tất cả hoàn cầu chỉ có một thứ tiếng nói duy nhất. Loài người bảo nhau nung gạch xây một cái thành và một cái tháp chọc lên đến trời và làm cho loài người rạng danh kẻo có một ngày kia bị phân tán trên mặt trái đất. Jéhovah xuống xem và sợ rằng loài người sẽ làm được mọi điều như ý định, bèn phá công trình của họ bằng cách làm cho tiếng nói của họ lộn xộn, tất cả không ai hiểu ai nữa, và phân tán loài người trên khắp mặt đất và họ thôi không xây thành nữa. Ở đây, trái lại, loài người với các quỷ thần hợp tác với nhau, thành công rực rỡ, làm thành một thành Babel đắc thắng.

19. Các bà, các cô (dames, demoiselles): theo tục xưa, đàn bà con gái quý tộc, gọi là dames (các bà) không cứ có chồng hay không, còn đàn bà con gái thường dân, gọi là demoiselles (các cô).
-----------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét