Thứ Sáu, 13 tháng 12, 2019

Thiên Thần Nổi Loạn - Chương 27

Thiên Thần Nổi Loạn

Tác giả: Anatole France
Dịch giả: Đoàn Phú Tứ
Nhà xuất bản Hội nhà văn - 1987

Chương 27

Trong đó người ta thấy phát lộ một nguyên nhân bí mật và sâu xa nó thường hay xô đẩy các đế quốc nọ chống các đế quốc kia và gây ra sự suy vong của kẻ chiến thắng lẫn kẻ chiến bại, và trong đó người đọc sách hiền minh (nếu có, tôi nghi ngờ điều đó) sẽ nghiền ngẫm câu nói mãnh liệt này: “Chiến tranh là một vụ kinh doanh”.

Các thiên thần đã giải tán. Dưới chân những quả đồi ở Meudon(1), ngồi trên cỏ, Arcade và Zita nhìn dòng sông Seine chảy giữa những cây liễu.
- Trong cái thế giới này, - Arcade nói, - trong cái thế giới mà người ta gọi là thế giới, mặc dầu trong đó có ít những cái tinh khiết(2) hơn những cái ô uế nhơ nhớp, không có một kẻ biết tư duy nào lại tưởng tượng rằng mình có thể tiêu trừ được dù chỉ một nguyên tử. Bất quá chúng ta chỉ được phép tin rằng chúng ta sẽ có thể đạt tới mức sửa đổi, đây đó, cái tiết điệu của vài nhóm nguyên tử và sự sắp xếp của vài tế bào. Nghĩ cho kỹ, thì đó là ranh giới của cuộc mưu đồ lớn của chúng ta. Và khi nào chúng ta đã đặt được người đối kháng vào chỗ của Ialdabaoth, thì có lẽ chúng ta cũng không làm được gì hơn. Zita, cái dở là ở trong bản chất của sự vật, hay ở trong sự sắp xếp của sự vật. Đó là điều đáng lẽ cần phải biết, Zita, tôi vô cùng hoang mang...
- Anh bạn ơi, - Zita đáp, - nếu muốn hành động, mà lại phải biết bí mật của thiên nhiên, thì người ta sẽ chẳng bao giờ hành động được cả. Và người ta sẽ không sống, vì sống là hành động, Arcade, anh đã thiếu quyết tâm rồi ư?
Arcade đoan quyết với thượng đẳng nữ thiên thần xinh đẹp rằng anh quyết tâm dìm tên thần sáng tạo vào cõi tăm tối muôn đời.
Một chiếc ô tô đi qua trên đường cái, sau lưng là một đám bụi mù kéo dài. Nó dừng lại trước mặt hai vị thiên thần, và cái mũi khoằm của Nam tước Everdingen hiện ra ở cửa xe.
- Chào các bạn thiên giới, xin chào, - nhà tư bản, con của trời, nói. - Tôi lấy làm sung sướng được gặp các bạn. Tôi có một điều quan trọng phải khuyến cáo các bạn, đừng có ở lì bất động, đừng ngủ đi mất: hãy vũ trang vào, vũ trang vào! Các bạn rất có thể bị Ialdabaoth đánh bất ngờ. Các bạn có một kho tàng chiến cụ: hãy sử dụng không cần đếm. Tôi vừa được tin rằng thượng đẳng thiên sứ Michel đã đặt làm ở thiên đình một số lượng lớn tên đạn và sấm sét. Nói thực tình, các bạn có thể kiếm được năm chục nghìn bàn trữ điện nữa. Tôi nhận đơn đặt hàng. Xin chào, các thiên thần! Tổ quốc thiên giới muôn năm!
Và Nam tước Everdingen bay vù tới những bờ sông hoa nở ở Louveciennes(3), có một nữ diễn viên xinh đẹp làm bạn.
- Có thực là họ đương vũ trang, ở phía thần sáng tạo không? - Arcade hỏi.
- Có thể rằng, - Zita đáp, - trên đó cũng có một Nam tước Everdingen khác thúc đẩy những cuộc tăng quân bị.
Thiên thần hộ mệnh của chàng trẻ Maurice trầm ngâm chốc lát, rồi anh nói lầm bầm:
- Hay là chúng ta bị bọn tài phiệt lung lạc chăng?
- Ơ kìa! - Thượng đẳng nữ thiên thần xinh đẹp nói, - chiến tranh là một vụ kinh doanh. Từ xưa nó bao giờ cũng vẫn là một vụ kinh doanh.
Sau đó, hai người xem xét rất lâu các phương tiện thi hành mưu đồ mênh mông của họ. Sau khi đã gạt bỏ một cách khinh bỉ các phương thức hỗn loạn của hoàng thân Istar, họ trù định một cuộc xâm lược kinh khủng và đột ngột vào vương quốc thiên đình do các cơ binh hưng phấn và thục luyện của họ.
* * *
Thì ra, Barattan, tên chủ quán ở Jonchère, đã cho các thiên thần nổi loạn thuê rạp hát, là một tên chỉ điểm của công an. Trong các báo cáo gửi lên sở công an, hắn tố giác các thành viên của cuộc họp tư đó như là đang chuẩn bị một cuộc mưu hại một nhân vật mà họ mô tả là ngu đần và độc ác và họ gọi tên là Alaballotte. Tên thám tử nghĩ rằng đó là một bí danh ám chỉ hoặc Tổng thống nước Cộng hòa, hoặc là chính bản thân nền Cộng hòa. Những kẻ âm mưu đã đồng thanh nhất trí phát biểu ra những lời đe dọa chống Alaballotte, và một người trong bọn họ, một tên rất nguy hiểm, rất nhẵn mặt trong những giới vô chính phủ chủ nghĩa và đã bị nhiều lần kết án về những bài viết hoặc diễn từ vô chính phủ, tự xưng là hoàng thân Istar hoặc vị Quéroube, đã giơ lên một trái tạc đạn cỡ rất nhỏ và có vẻ là một vũ khí đáng sợ. Các tên âm mưu khác thì Barattan không quen mặt, tuy hắn vẫn lui tới những giới cách mạng. Nhiều đứa trong bọn họ còn rất trẻ, chưa có râu. Hắn đã theo dõi hai đứa đã ăn nói những lời đặc biệt hung hăng, một đứa tên là Arcade, cư ngụ ở phố St. Jacques, và một đứa đàn bà, có hạnh kiểm đặc biệt, tên là Zita, cư ngụ ở Montmartre, cả hai đều có cách sinh sống người ta chưa hề biết.
Ông giám đốc công an thấy sự việc có vẻ khá quan trọng nên xét là cần phải thương thảo, trước hết, với ông thủ tướng.
Hồi đó, đương ở vào một trong những thời kỳ tai ách của nền Đệ tam cộng hòa, trong những thời kỳ đó nhân dân Pháp, say mê uy quyền, yêu quý sức mạnh, tự cho là nguy khốn vì không được chính quyền cai trị đủ nghiêm ngặt, và lớn tiếng kêu gọi một cứu tinh. Ông thủ tướng kiêm Bộ trưởng Tư pháp, không đòi gì hơn là được làm vị cứu tinh mong mỏi. Nhưng, muốn trở thành cứu tinh, lại cần phải có một sự nguy nan cần phải trừ khử. Vì thế, cái tin tức có một cuộc mưu loạn, ông lấy làm thú vị. Ông hỏi ông giám đốc công an về những địa tình và sự quan trọng của sự việc. Ông giám đốc công an trình bày rằng những kẻ kia có vẻ có tiền, có trí thông minh, có nghị lực nhưng họ nói nhiều quá, và đông người quá, nên không thể hành động bí mật và hiệp đồng với nhau được. Ông bộ trưởng, ngả người trong ghế bành, suy nghĩ. Cái bàn giấy ông đương ngồi trước mặt theo kiểu thời Đế chế, những thảm dệt cổ kính phủ các tường vách, chiếc đồng hồ quả lắc và những chùm đèn kiểu thời Trung hưng, tất cả mọi thứ, trong cái phòng giấy cổ truyền này, đều gợi cho ông những nguyên tắc trị dân lớn, vẫn bất di bất dịch trong quá trình kế tiếp nhau giữa các chế độ: mưu trí và táo bạo. Sau một giây lát trầm ngâm, ông kết luận rằng phải để cho cuộc âm mưu tăng trưởng lên và thành hình, rằng thậm chí có lẽ còn nên nuôi dưỡng nó, trang điểm cho nó, tô vẽ màu sắc cho nó và cuối cùng chỉ bóp chết nó sau khi đã lợi dụng nó hết sức có thể.
Ông căn dặn ông giám đốc công an phải giám sát vụ này cho chặt chẽ, báo cáo với ông hàng ngày về những sự cố và chỉ được tự hạn chế trong vai trò thông tin thôi.
- Tôi trông cậy vào sự cẩn trọng ai cũng biết tiếng của ông: hãy quan sát và chớ can thiệp.
Ông bộ trưởng châm một điếu thuốc lá. Ông rất trông mong nhờ vụ âm mưu này, để trấn áp phe đối lập, tăng cường thế lực của mình, làm giảm giá các đồng liêu, làm bẽ mặt ông Tổng thống Cộng hòa và trở thành vị cứu tinh mong chờ.
Ông giám đốc công an cam kết theo các huấn thị của bộ, tự hứa hẹn sẽ chỉ hành động theo ý riêng của mình. Ông ta cho giám sát những tên đã được Barattan báo cho biết, và căn dặn các nhân viên của ông không được can thiệp bất cứ vì lý do gì.
Thấy mình bị theo dõi, hoàng thân Istar, vẫn kết hợp sự cẩn trọng với sức mạnh, rút ở trên máng nước xuống những trái tạc đạn mà anh đã giấu trên đó, và từ ô tô buýt sang xe điện ngầm, từ xe điện ngầm sang ô tô buýt, bằng những lối rẽ quanh co khôn khéo, đi gửi giấu những vũ khí của anh ở nhà thiên thần nhạc sĩ.
Arcade, mỗi lần ra khỏi khách sạn của anh ở phố St. Jacques, lại trông thấy ở cửa nhà anh một người đàn ông lịch sự một cách quá đáng, đeo găng tay màu vàng và đeo ở ca vát một hạt kim cương to hơn hạt nhiếp chính(4). Còn bỡ ngỡ với những sự vật ở trái đất, thiên thần phản loạn không để ý tí nào đến sự gặp gỡ đó. Nhưng chàng trẻ Maurice d’Esparvieu nhận nhiệm vụ bảo vệ cho thiên thần hộ mệnh của anh, nhìn một cách lo ngại con người lịch sự kia, cũng chuyên cần bằng và còn chăm chú hơn cái ông Mignon trước đây, đã đưa đi đưa lại con mắt dò xét của y trong phố Garancière, từ những cái đầu cừu đực của dinh thự la Sordière đến tận mé hậu cung của nhà thờ St. Sulpice. Maurice, hai ba lần mỗi ngày, đến thăm Arcade ở trong căn phòng thuê có đồ đạc sẵn của anh ta, báo cho anh ta biết nỗi nguy nan của anh ta và thúc giục anh ta đổi chỗ ở.
Chiều tối nào, anh cũng dắt thiên thần của anh vào những tiệm rượu đêm, ở đó hai người ăn đêm với những cô gái. Ở đó, chàng trẻ d’Esparvieu đưa ra những dự đoán của chàng ta về cuộc đấu quyền anh sắp tới, rồi chàng cố gắng chứng minh cho Arcade sự hiện hữu của Chúa, sự cần thiết phải có một tôn giáo và những cái đẹp của Cơ đốc giáo, và chàng khẩn nài anh từ bỏ mưu đồ bất kính và đầy tội ác mà kết quả theo anh chỉ là cay đắng và thất vọng.
- Vì, - cuối cùng chàng biện giải trẻ tuổi nói, - nếu đạo Cơ đốc là dối trá, thì người ta khắc biết chứ.
Các cô gái tán thành Maurice về những tình cảm trọng đạo của chàng, và khi anh Arcade xinh trai thốt ra một lời báng bổ nào trong một ngôn từ mà các cô hiểu được, thì các cô bịt cả hai tai và bảo anh ta im đi, sợ bị sét đánh chung với anh. Vì các cô tưởng tượng rằng Đức Chúa Trời, toàn năng và lòng lành chúa tể, đột nhiên báo thù những lời lăng mạ của anh, rất có thể trừng trị, không có ác ý gì, kẻ vô tội cũng như kẻ có tội.
Đôi khi thiên thần và anh chàng nhạc sĩ đi ăn bữa đêm ở nhà thiên thần nhạc sĩ, Maurice thỉnh thoảng vẫn nhớ rằng đã là người tình của Bouchotte, thấy Arcade quá suồng sã lả lơi với cô đào hát thì lấy làm khó chịu. Cô cho phép anh ta suồng sã như vậy từ cái hôm mà sau khi thiên thần nhạc sĩ đã cho sửa chữa lại cái ghế trường kỷ có hoa, Arcade và Bouchotte đã làm tình với nhau ở đó luôn. Maurice vẫn yêu bà des Aubels rất nhiều, nhưng cũng yêu Bouchotte đôi chút, và có ghen với Arcade đôi chút, vì lòng ghen, nó là tình cảm tự nhiên của giống người và giống vật, và dù nhẹ, cũng gây cho chàng một nỗi đau đớn chua xót. Vì thế cho nên, ngờ biết sự thực, mà khí chất của Bouchotte và tính khí của thiên thần cũng phát lộ cho anh thấy khá rõ, anh nhiếc móc và chửi mắng Arcade thậm tệ, chê trách anh ta là vô đạo đức. Arcade trả lời bình thản rằng khó lòng mà ép được những sôi động sinh lý vào những quy tắc hoàn toàn xác định, và các nhà đạo đức học cũng gặp những khó khăn lớn về một số vấn đề bài tiết.
- Với lại, - Arcade nói, - tôi sẵn sàng thừa nhận rằng hầu như không thể nào thiết lập một cách cố chấp một nền đạo lý thiên nhiên. Thiên nhiên vốn không có nguyên tắc. Nó không cung cấp cho chúng ta một lý do nào để tin rằng cuộc sống của con người là đáng tôn kính. Thiên nhiên, vốn dửng dưng, không phân biệt tí nào cái thiện với cái ác.
- Vậy anh thấy rõ, - Maurice đáp, - tôn giáo là cần thiết.
- Cái đạo lý mạo xưng là được thiên khải, - thiên thần nói tiếp, - thực ra là phỏng theo chủ nghĩa kinh nghiệm thô lậu nhất. Chỉ duy có tập quán làm nên quy tắc cho phong tục. Những cái mà trời quy định, chỉ là sự thừa nhận những tập tục cũ. Luật pháp của trời, ban bố trong trận hỏa công(5), trên ngọn núi Sinai gì đó, chẳng qua chỉ là sự điển chế các thành kiến của con người. Và do sự thực là phong tục có thay đổi, các tôn giáo sống lâu đời, như Do Thái, Cơ đốc giáo, cũng thay đổi về đạo lý.
- Thôi thì, - Maurice mà trí thông minh lớn lên trông thấy, nói, - anh sẽ công nhận với tôi rằng tôn giáo ngăn ngừa được rất nhiều trò hỗn loạn, và rất nhiều tội ác chứ?
- Trừ phi nó lại khuyến khích những cái đó, như chuyện giết Iphigénie.
- Arcade, - Maurice kêu lên, - khi tôi nghe thấy anh lý luận, là tôi lại lấy làm vui vì không phải là một anh trí thức.
Trong khi đó, Théophile, cúi xuống mặt bàn, mặt bị che phủ bởi tấm màn vàng hoe lướt thướt của tóc anh, hai bàn tay cảm hứng từ trên cao hạ xuống những phím đàn, đánh đàn và hát toàn bộ nhạc phổ của vở Aline, nữ hoàng xứ Golconde.
Hoàng thân Istar đến dự những cuộc họp mặt thân mật đó, các túi đầy những tạc đạn và những chai rượu sâm panh, cả hai thứ đều nhờ sự hào phóng của bá tước Everdingen mà có. Bouchotte lấy làm vui thích được tiếp đón chàng Chérubin, từ khi cô trông thấy ở chàng ta bằng chứng và chiến tích của cuộc thắng trận của cô trên chiếc ghế trường kỷ nhỏ có hoa. Chàng ta ở trước mặt cô như thể cái đầu lâu của Goliath trong tay của chàng trẻ David(6). Và cô thán phục hoàng thân về tài khéo đệm đàn, về khí lực cường tráng của chàng đã bị cô khắc phục, và về tửu lượng tuyệt trần của chàng.
Một đêm, chàng trẻ d’Esparvieu đưa thiên thần của anh bằng ô tô từ nhà Bouchotte đến buồng trọ ở phố St. Jacques, thì trời tối đen. Trước cửa, hạt kim cương của tên do thám sáng chói như một cái đèn pha; ba kẻ đi xe đạp, tụ hội dưới những tia sáng của nó, khi ô tô lại gần, bèn lảng đi, mỗi đứa một ngả khác nhau. Thiên thần không để ý, nhưng Maurice thấy thế kết luận rằng các cử động của Arcade làm những người có thế lực trong nước quan tâm. Anh xét thấy sự nguy nan khẩn cấp, anh bèn quyết định ngay kế sách.
Sáng hôm sau, anh đến tìm anh chàng bị tình nghi để lôi anh ta đến phố La Mã. Thiên thần còn đương nằm ở giường, Maurice thúc giục anh ta mặc quần áo vào và đi theo anh.
- Đi với tôi, - anh bảo anh ta. - Cái nhà này không an toàn cho anh nữa rồi. Anh bị họ giám sát. Một ngày nào đó, anh sẽ bị bắt. Anh có muốn ngủ ở nhà giam không? Không. Vậy thì đi theo tôi. Tôi đưa anh đến nơi an toàn đây.
Thiên thần mỉm cười với đôi chút thương hại anh bạn cứu vớt ngây thơ.
- Anh há không biết, - chàng ta nói, - rằng một thiên thần đã phá vỡ cửa nhà lao mà Pierre bị giam, và giải thoát cho vị sứ đồ? Hay anh tưởng tôi, anh Maurice trẻ tuổi ơi, quyền lực còn kém người anh em thiên giới đó, và ngỡ rằng tôi không thể làm cho bản thân cái việc mà anh thiên thần đó đã làm cho anh chàng đánh cá ở bờ hồ Tibériade?
- Đừng hòng, Arcade ạ. Anh ta đã làm bằng một phép màu.
- Hay “nhờ phép màu” như một sử gia của nhà thờ đã nói. Nhưng cần gì. Tôi đi theo anh. Chỉ xin anh để cho tôi đốt vài bức thư và gói ghém những sách cần dùng làm một gói.
Anh ném những giấy tờ vào lò sưởi, đút nhiều cuốn sách vào cái túi và theo anh chàng hướng dẫn đến tận ô tô, đang đợi cách đây không xa, trước mặt Pháp quốc học viện(7). Maurice cầm lái. Bắt chước sự cẩn trọng của chàng Chérubin, anh đi bao nhiêu đường vòng vèo và lượn vòng nhanh đến nỗi ví thử cứ bao nhiêu thằng đi xe đạp, nhiều và nhanh, đuổi theo anh, thì anh cũng làm cho chúng lạc hướng hết. Cuối cùng, sau khi đã đi ngang dọc ngược xuôi đủ chiều trong thành phố, anh dừng lại ở phố La Mã, trước căn hộ tầng dưới nhà, nơi mà thiên thần đã hiện hình.
Khi đi vào trong căn nhà mà anh đã ra khỏi mười tám tháng trước đây để làm tròn sứ mệnh, Arcade nhớ lại cái dĩ vãng không sao vãn hồi được nữa, và thở hít cái mùi của Gilberte, hai lỗ mũi anh phập phồng. Anh hỏi thăm bà des Aubels có mạnh khỏe không.
- Tốt lắm, - Maurice đáp, - hơi đẫy ra và đẹp ra rất nhiều. Bà ấy vẫn còn oán anh về sự khiếm nhã của anh. Tôi mong rằng một ngày kia bà ấy sẽ tha thứ cho anh như tôi đã tha thứ, và bà ấy sẽ quên cách xử sự xúc phạm của anh. Nhưng hiện nay bà ấy vẫn còn tức giận anh.
Chàng trẻ d’Esparvieu đưa thiên thần đi xem toàn thể căn hộ với những phong cách của một con người dòng dõi và những chăm sóc ân cần của một người bạn. Chàng cho anh xem chiếc giường xếp, mà mỗi chiều tối người ta sẽ mở ra ở căn buồng vào nhà và sáng đến người ta sẽ đẩy vào một buồng xép đen tối; chàng chỉ cho anh cái bàn rửa mặt và các đồ phụ tùng, cái chậu tắm lớn, cái tủ áo lót, cái tủ ngăn, dặn dò anh những điều cần thiết cho việc dùng lò sưởi và thắp đèn, báo trước cho anh rằng những bữa ăn sẽ có người đem đến và công việc dọn dẹp nhà cửa sẽ do người gác cổng làm, và chỉ cho anh cái nút bấm phải ấn vào để gọi người phục vụ đó; cuối cùng chàng bảo anh rằng anh phải tự coi như ở nhà mình và muốn tiếp ai tùy ý.
--------------
Chú thích.

1. Meudon: tên một xã trong vùng đô thị Paris, thuộc tỉnh Hauts-de-Seine.

2. Tinh khiết (mondes): trong pháp giới của Do Thái giáo, có phân biệt những con vật tinh khiết (animaux mondes) có thể để người ăn hoặc làm lễ cúng Đức Chúa Trời, và những con vật ô uế (animaux immondes) không được ăn hoặc đem làm lễ cúng. Ở đây, giữa tiếng monde (danh từ, nghĩa là thế giới) ở trên với tiếng mondes (tính từ, nghĩa là tinh khiết), có một lộng ngữ không thể chuyển sang tiếng Việt được.

3. Louveciennes: tên xã trong vùng hành chính Île-de-France, tỉnh Yvelines trong quận Saint-German-en-Laye, tổng Le Chesnay, có lâu đài xây cho bà du Barry.

4. Hạt Nhiếp chính (le Régent): Philippe d’Orleans, nhiếp chính vương xưa có đeo một hạt kim cương rất to, nên đời sau gọi một hạt kim cương to là hạt Nhiếp chính.

5. Trận hỏa công (pyrotechnie): ám chỉ chuyện Jéhovah sau khi đã biểu hiện cho Moïse trên núi Horeb bằng một bụi cây rực lửa, (Kinh thánh, Xuất Ediptô ký, III, 1-4) đã làm phép màu cho Moïse dẫn dắt được dân tộc Israel ra khỏi Ai Cập, đi đến sa mạc Sinai, cắm trại đối diện với núi Sinai (mà trong nhiều văn bản, cho là đồng nghĩa với Horeb thì Jéhovah lại hiển linh cho dân tộc Israel như sau: “Ngày thứ ba, buổi sáng, trời nổi sấm chớp, có một đám mây dày đặc trên núi và một tiếng kèn rất to; tất cả dân chúng trong trại đều run rẩy. Moïse cho dân chúng ra khỏi trại và đi đến gặp Đức Chúa Trời, và cho họ đứng dưới chân núi. Quả núi Sinai mù mịt những khói, vì Jéhovah đã giáng hạ xuống đó giữa đám lửa, và khói bốc lên như khói của một lò lửa và cả quả núi run rẩy. Tiếng kèn mỗi lúc một vang dậy to hơn…”) Jéhovah bảo Moïse đừng cho dân chúng lại gần, và Jéhovah trong khói lửa, ban bố cho dân Israel luật pháp mười điều răn. “Nghe thấy sấm sét, trông thấy chớp lóe, nghe thấy tiếng kèn, trông thấy quả núi ngùn ngụt khói, dân chúng run rẩy và đứng xa… trong khi Moïse lại gần đám mây có Chúa ở trong” (Kinh thánh, Xuất Ediptô ký, XIX, 1-6, 16-257; XX, 1-18, 21).

6. Goliath, David: Goliath, khổng lồ, chiến tướng của quân Philistins, vũ trang từ đầu đến chân, thách thức chiến quân Israel, tất cả Israel đều run sợ. David còn trẻ tuổi, nhưng đã được Jéhovah làm phép xức dầu bí mật, đòi ra đối địch với Goliath, mặc dầu mọi lời can ngăn. Sau cùng, được ra trận, không thèm vũ trang gì cả, không gươm, không giáo, không giáp trụ, nhưng được Jéhovah hỗ trợ, nên đã giết chết Goliath bằng một hòn đá lấy ở túi ra, bắn bằng một cái trành, trúng vào trán Goliath, làm tên này ngã sấp mặt xuống đất, rồi chạy lại rút kiếm của hắn ra, chém đứt đầu hắn (Kinh thánh, I Samuel, XVII).

7. Pháp quốc học viện (Collège de France): thường cũng dịch là Pháp quốc cao đẳng học viện, học đường được sáng lập ở Paris vào khoảng 1530, bởi vua François I, ngoài trường đại học, theo ý kiến của Guillaume Budé (1467-1540) nhà bác học về tiếng Hy Lạp, rất có uy tín bên cạnh François I.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét