Thiên Thần Nổi Loạn
Tác giả: Anatole France
Dịch giả: Đoàn Phú Tứ
Nhà xuất bản Hội nhà văn - 1987
Chương 18
Ở đây bắt đầu truyện kể của
ông lão làm vườn, trong quá trình của nó người ta sẽ trông thấy diễn biến số kiếp
của thế giới trong một luận thuyết có những quan điểm rộng lớn và huy hoàng bao
nhiêu thì luận thuyết và lịch sử thế giới của Bossuet tỏ ra có những quan điểm
thiển cận và thảm đạm bấy nhiêu.
- Arcade, - vị thượng đẳng nữ thiên thần
nói, - Nectaire có lẽ hôm nay sẽ phát lộ cho anh thấy cái mà anh nóng lòng muốn
biết. Anh hãy yêu cầu ông nói đi.
Arcade yêu cầu ông ta, và ông già Nectaire
đặt tẩu thuốc xuống, bắt đầu như thế này:
- Tôi được biết ông ấy: đó là vị Séraphin đẹp
nhất(2). Ông sắc sảo, trí thông minh và lòng quả cảm. Trái tim rộng lớn của ông
nở phồng lên, đầy ắp tất cả những đức năng nảy nở ra từ lòng tự kiêu: chân thật,
can đảm bền gan trong thử thách, hy vọng ngoan cường. Vào thời đại đó, tiền khu
của các thời đại, trên bầu trời phương bắc lấp lánh chòm sao bảy ngôi hấp dẫn(3),
ông ngự trong một tòa cung điện bằng kim cương và vàng, lúc nào cũng vang lên
những tiếng vỗ cánh và những khúc ca khải hoàn. Jéhovah, trên ngọn núi của y,
ghen với Lucifer.
Cả hai anh chị đều biết: các thiên thần,
cũng như người trần đều cảm thấy nảy mầm trong mình tình yêu và lòng căm thù.
Đôi khi có khả năng những quyết tâm cao độ nhưng thường thường họ đều tuân theo
lợi ích, và bị lòng sợ hãi chi phối. Hồi đó, cũng như ngày nay, họ tỏ ra, phần
đông, không có khả năng những tư tưởng cao cả, và lòng sợ hãi Chúa tể là tất cả
đức năng của họ. Lucifer, vốn rất miệt thị những cái gì đê hèn, khinh bỉ cái đám
lúc nhúc những tinh thần tôi tớ bị lôi kéo vào các trò du hí và khánh tiết.
Nhưng đối với những kẻ linh hoạt một tinh thần quả cảm, một tâm hồn băn khoăn,
đối với những kẻ bừng bừng một mối tình yêu tự do dữ dội thì ông dành cho một mối
tình bạn hữu, mà họ đáp lại bằng sự kính thờ. Những kẻ đó rời bỏ hàng đàn lũ
đông đảo ngọn Núi của chúa tể và đem đến cho vị Séraphin những sính lễ mà Kẻ kia (4) muốn giữ cho riêng mình.
Hồi đó tôi ở trong hàng ngũ những kẻ trị vì
và cái tên Alaciel của tôi không phải là không vinh diệu. Để thỏa mãn tinh thần
của tôi, trăn trở bởi một nỗi khao khát không thể nào nguôi là được biết và được
hiểu, tôi quan sát bản chất của sự vật, tôi nghiên cứu các đặc tính của các thứ
đá, của không khí và của các tầng nước, tôi tìm tòi các quy luật nó cai quản vật
chất dày đặc hay tinh tế, và sau những nghiền ngẫm lâu dài tôi nhận thấy rằng
vũ trụ không phải là đã được cấu tạo như kẻ mạo xưng là Đấng sáng tạo ra nó vẫn
cố gắng làm cho người ta tin; tôi được biết rằng tất cả những cái gì hiện hữu,
là hiện hữu tự bản thân chứ không phải là do sự cao hứng thất thường của Jéhovah,
rằng thế giới tự bản thân là tác giả của mình, và tinh thần tự bản thân là vị
thần của mình. Từ đó, tôi khinh bỉ Jéhovah vì những trò giả mạo của y, và tôi
căm thù y bởi vì y tỏ ra trái ngược với tất cả những gì tôi thấy là đáng được
mong ước và tốt: sự tự do, lòng ham biết, nỗi ngờ vực. Những cảm nghĩ đó đưa
tôi lại gần vị Séraphin. Tôi thán phục Người, tôi yêu mến Người, tôi sống trong
ánh sáng của Người. Khi, cuối cùng, rõ ràng là phải lựa chọn giữa Người với Kẻ kia, tôi đứng vào phe của Lucifer và
chỉ còn có mỗi tham vọng là được phục vụ Người, mỗi thèm muốn là được chia sẻ số
phận của Người.
Khi chiến tranh trở nên không sao tránh khỏi,
thì Người chuẩn bị nó với một sự cẩn mật không mệt mỏi và tất cả mọi phương kế
của một đầu óc tính toán. Đem những Vương vị và những Tể trị biến thành những
Chalybes và những Cyclope(4). Người khai thác các ngọn núi biên cương của giang
sơn của Người để lấy sắt, mà Người quý hơn vàng, và rèn vũ khí trong các hang hốc
của Thiên giới. Rồi Người tụ tập trong những khoáng dã hoang vu của bắc cực hằng
hà sa số những thiên thần, vũ trang cho họ, dạy bảo cho họ, luyện tập cho họ. Mặc
dầu được chuẩn bị bí mật, công cuộc mưu đồ đó rộng lớn quá không tránh khỏi đối
thủ được biết tin ngay. Có thể nói rằng y vẫn dự đoán trước từ lâu và lo sợ cuộc
mưu đồ đó, vì y đã biến nơi ở của y thành một thành trì và các thiên thần của y
thành một cơ binh, và tự mệnh danh là Đức Chúa Trời của hàng vạn quân. Y chuẩn
bị sấm sét. Già nửa những con trời vẫn trung thành với y; y trông thấy chung
quanh y những kẻ luôn vâng lệnh và những trái tim nhẫn nại. Thượng đẳng thiên sứ
Michel, vốn dũng cảm, cầm quyền chỉ huy những đội quân ngoan ngoãn đó.
Lucifer, khi bắt đầu thấy rằng quân đội của
Người đã đi đến cái điểm không tăng thêm được nữa và cũng không dày dạn hơn được
nữa, bèn vội vàng cho tiến thẳng tới kẻ thù và, hứa hẹn với các thiên thần tài
lợi và vinh quang, người dẫn đầu họ lên ngọn núi nó mang trên đỉnh ngai vàng của
vũ trụ. Ba hôm, chúng tôi bay thần tốc trên những khoáng dã éther. Bên trên đầu
chúng tôi phấp phới những lá cờ đen khởi nghĩa. Ngọn núi Chúa tể đã hiện ra
phơn phớt hồng trong bầu trời Đông, và Thủ lĩnh của chúng tôi đã lấy mắt ước lượng
các thành lũy sáng chói của nó. Dưới chân những tường thành bằng lam ngọc, các
phòng tuyến của quân địch được bố trí, chúng rực rỡ những vàng ngọc, trong khi
chúng tôi tiến quân, đầy người là thanh đồng(6)* và sắt. Những cờ hiệu xanh đỏ
của chúng phấp phới trước gió và những tia chớp lóe ra ở đầu ngọn giáo mác của
chúng. Chẳng mấy chốc, hai quân đội chỉ còn cách nhau có một quãng nhỏ hẹp, một
doi đất bằng phẳng và trống trơn, trông thấy nó thì những kẻ dũng cảm nhất cũng
rợn người vì nghĩ rằng ở đó, trong một cuộc hỗn chiến đẫm máu, các số kiếp sẽ
được định đoạt.
Các thiên thần, anh chị đều biết, không chết.
Nhưng khi hoàng đồng(7), sắt, mũi nhọn kim cương hay lưỡi kiếm rực lửa xé cơ thể
tinh tế của họ, thì họ cảm thụ một sự đau đớn cay độc hơn là loài người có thể
cảm thấy, vì da thịt của họ tinh tế hơn, và nếu một cơ quan chủ yếu nào đó bị
phá hủy, thì họ ngã xuống cứng đờ, tự phân hủy dần dần, kết cục hóa thành những
đám mây mờ u ám và trôi nổi vô cảm giác, tản mát suốt thời gian dài dặc, trong
bầu éther lạnh lẽo. Và cuối cùng khi họ hồi phục được tinh thần và thể xác, họ
không thấy lại được tất cả ký ức cuộc sống đã qua của họ. Như vậy là, dĩ nhiên,
các thiên thần sợ sự đau đớn, và những kẻ dũng cảm nhất trong bọn họ đều băn
khoăn rối loạn khi nghĩ đến chuyện mất ánh sáng và kỷ niệm êm đềm. Nếu không
như thế, thì nòi giống thiên thần sẽ không được biết cái đẹp của chiến đấu và
cái vẻ vang của hy sinh. Những kẻ xông pha chiến trận trên cõi Thiên đình, trước
hồi khởi thủy các thời đại, hoặc về phe hoặc chống đối với Đức Chúa Trời vạn
quân, hóa ra là đã lao vào những cuộc chiến trận giả vờ, chẳng có danh giá gì,
và tôi sẽ không thể nói với hai cháu, với một niềm tự hào chính đáng: “Lúc đó,
có tôi ở đó”.
Lucifer ra hiệu lệnh tác chiến và nhảy vào
đầu tiên. Chúng tôi xốc tới kẻ thù, tưởng rằng sẽ tiêu diệt chúng ngay và cướp
được thành trì thánh thần ngay từ đợt xung phong thứ nhất. Các binh lính của vị
Thần độc tôn(8), không hùng hổ bằng binh lính của chúng tôi, nhưng cương quyết
không kém, vẫn không gì lay chuyển được. Thượng đẳng thiên sứ Michel chỉ huy họ
với sự bình tĩnh và cả quyết của một tài năng vĩ đại. Ba lần chúng tôi cố gắng
đánh tan các phòng tuyến của họ, cả ba lần họ chống ngay những bộ ngực bằng sắt
của chúng tôi bằng những mũi nhọn rực lửa của giáo mác của họ mau lẹ xuyên thủng
những bộ giáp trụ cứng rắn nhất. Các thân thể vinh quang ngã xuống hàng triệu.
Sau cùng, cánh quân hữu dực của chúng tôi chọc thủng cánh tả dực của quân địch
và chúng tôi trông thấy những cái lưng của những Chấp chính, những Bỉnh quyền,
những Hữu năng, những Tể trị, những Vương vị cắm đầu bỏ chạy, gót chân quật đen
đét vào người, trong khi các thiên thần của bậc thứ ba(9), bay cuống cuồng bên
trên đầu họ, che phủ cho họ bằng một cơn bão tuyết những lông vũ lẫn với một trận
mưa máu. Chúng tôi lướt theo họ giữa đám những mảnh vỡ nát của chiến xa và những
núi khí giới chồng chất, và chúng tôi làm cho cuộc chạy trốn vội vã của họ càng
thêm cuống quýt. Bỗng nhiên, một cơn bão tố những tiếng kêu, vang lên bên tai
chúng tôi, lớn bùng lên và lại gần, cộng thêm những tiếng rú tuyệt vọng và những
tiếng hò la đắc thắng phía hữu dực của quân thù, những Thượng đẳng thiên thần
khổng lồ của Thượng đế đã xông vào bên trái của chúng tôi và phá vỡ. Chúng tôi
phải bỏ mặc những quân địch chạy trốn và đến cứu viện cho những quân tán loạn của
chúng tôi. Chủ tướng của chúng tôi bay tới và lập lại trận thế. Nhưng cánh tả dực
của quân địch mà chúng tôi không truy kích đến cùng, thấy không bị cung tên
giáo mác uy hiếp nữa, lại hồi gan, quay trở lại, và lại đương đầu với chúng
tôi.
Đêm tối dừng ngay cuộc chiến bất phân thắng
bại. Trong khi lợi dụng bóng tối, trong bầu không khí yên tĩnh, thỉnh thoảng vẳng
lên tiếng rên xiết của những binh sĩ bị thương, trại quân yên nghỉ, thì Lucifer
chuẩn bị ngày thứ hai. Trước lúc bình minh, tiếng kèn đánh thức nổi lên. Các
chiến sĩ của chúng tôi tập kích quân địch vào đúng giờ cầu nguyện, làm chúng chạy
tán loạn, và chém giết chúng một hồi lâu. Khi tất cả chúng đã ngã xuống hoặc bỏ
chạy, thì Thượng đẳng thiên sứ Michel, một mình và vài chiến hữu có bốn cánh rực
lửa, vẫn còn chống cự cuộc đột kích của một đoàn quân đông vô kể. Họ lùi bước
nhưng vẫn giơ ngực ra ứng chiến, và Michel vẫn còn giữ được một bộ mặt bình thản.
Mặt trời đã đi được một phần ba chặng đường, khi chúng tôi bắt đầu leo núi Chúa
tể. Cuộc leo núi thật vất vả; mồ hôi từ trán chảy xuống ròng ròng; một ánh sáng
rừng rực làm chúng tôi chói chang. Chất nặng những sắt thép, các đôi cánh của
chúng tôi không thể giúp gì chúng tôi được; nhưng niềm hy vọng tạo cho chúng
tôi những đôi cánh nâng chúng tôi lên. Vị Séraphin đẹp nhất, giơ bàn tay lóe
sáng, mỗi lúc một cao hơn, chỉ đường cho chúng tôi. Suốt ngày, chúng tôi leo
lên ngọn núi cao vợi, khi chiều tối sập đến, nó khoác áo màu thiên thanh, hồng
phớt và lờ lờ mắt mèo. Đạo quân tinh tú(10), xuất hiện trên bầu trời, có vẻ như
phản ánh của các vũ khí của chúng tôi. Một sự im lặng mênh mông lượn lờ trên đầu
chúng tôi. Chúng tôi đi, say sưa hy vọng. Bỗng nhiên, trong bầu trời tối sầm,
lóe ra những tia chớp. Sấm sét vang rền và, từ đỉnh cao ngọn núi mây mù, lửa trời
trút xuống. Các mũ đội đầu của chúng tôi ròng ròng những giọt lửa và các tấm
khiên của chúng tôi vỡ tan dưới những tên đạn(11) do những bàn tay vô hình bắn
xuống. Lucifer trong cơn bão lửa, vẫn giữ vẻ lẫm liệt. Sấm sét đánh vào Người tới
tấp, vô hiệu: Người vẫn đứng vững và còn thách thức quân địch. Cuối cùng, sét
làm rung chuyển cả núi, xô chúng tôi xuống vực hỗn độn với những tảng lớn lam
ngọc và hồng ngọc, và chúng tôi lăn lông lốc cứng đờ, bất tỉnh nhân sự trong suốt
một thời gian dài dặc chưa có ai ước lượng nổi.
Tôi tỉnh dậy trong bóng tối tăm, rên rỉ. Và
khi mắt tôi đã quen với bóng tối dày dặc, tôi thấy chung quanh tôi những chiến
hữu của tôi nằm sõng sượt kể có hàng nghìn trên mặt đất sặc mùi lưu hoàng, có
những ánh le lói nhợt nhạt thoáng qua. Mắt tôi chỉ phát hiện thấy những vũng
lưu hoàng, miệng núi lửa phun khói, đầm lầy đầu độc hôi thối. Những núi băng và
những biển tối tăm khép kín chân trời. Một bầu trời hoàng đồng đè nặng lên trán
chúng tôi. Và sự khủng khiếp của nơi đó lớn đến nỗi chúng tôi ngồi xổm mà khóc,
khuỷu tay tỳ lên đầu gối, và hai nắm tay chống vào hai má.
Nhưng ít lâu, ngước mắt lên, tôi trông thấy
vị Séraphin sừng sững trước mặt tôi như một tòa tháp. Trên cái vẻ lộng lẫy
nguyên sơ của Người, sự đau đớn gieo xuống tấm trang sức ảm đạm và huy hoàng của
nó.
“- Các
chiến hữu, - Người nói với chúng tôi, - chúng
ta phải lấy làm vui sướng, vì đã được giải phóng khỏi vòng nô lệ thiên giới. Ở
đây chúng ta được tự do và tự do trong địa ngục còn hơn là nô lệ ở thiên cung(12).
Chúng ta không phải thua trận, vì chúng ta còn chí quyết thắng. Do chúng ta,
ngai vàng của vị Thần độc tôn đã lảo đảo; nó sẽ sụp đổ do chúng ta. Đứng lên!
Các chiến hữu, hãy hăng hái lên!”
Ngay tức khắc, theo lệnh của Người, chúng
tôi chồng chất các núi non lên nhau và chúng tôi dựng lên ở trên đỉnh, những
máy ném những tảng đá bừng lửa vào các cung thất thánh thần. Quân đội thiên
đình kinh ngạc và từ nơi ở vinh quang vọt ra những tiếng rền rĩ và những tiếng
thét kinh hoàng. Chúng tôi đã nghĩ là được chiến thắng trở về tổ quốc cao siêu
của chúng tôi, nhưng từ trên đỉnh Chúa tể phát ra những ánh chớp và sấm sét
trút xuống pháo đài của chúng tôi, đánh tan thành tro bụi.
Sau cuộc tai họa mới đó, vị Séraphin trầm
ngâm một ít lâu, hai tay ôm đầu. Rồi Người để lộ ra bộ mặt đen thui. Bây giờ,
người là Satan vĩ đại hơn Lucifer(13). Các thiên thần trung thành xúm xít chung
quanh Người.
“- Các
bạn, - Người nói với chúng tôi, - nếu
chúng ta chưa thắng, chính là vì chúng ta không xứng đáng và không có khả năng
thắng. Ta nên biết ta còn thiếu cái gì. Người ta chỉ ngự trị được thiên nhiên,
chỉ chiếm được quyền thống trị vũ trụ, chỉ trở thành Chúa trời, do kiến thức.
Chúng ta cần phải chinh phục sấm sét; chúng ta phải chuyên tâm vào việc đó
không lúc nào ngơi. Vậy mà không phải sự can đảm mù quáng (trong ngày hôm nay,
không có ai can đảm hơn các bạn) sẽ đưa lại cho chúng ta những sấm sét thần
thánh; chính là sự học hỏi và suy nghĩ. Trong chốn lưu cư câm lặng này, mà
chúng ta đã rơi xuống, chúng ta nghiền ngẫm, hãy tìm tòi các nguyên nhân bí ẩn
của sự vật. Ta hãy quan sát thiên nhiên; hãy theo đuổi nó bằng một lòng nhiệt
tình mãnh liệt và một ước vọng chinh phục; ta hãy nỗ lực tìm hiểu sự lớn lao vô
cùng của nó và sự vô cùng bé nhỏ của nó. Hãy biết khi nào nó khô cằn và khi nào
nó phì nhiêu, nó làm ra như thế nào sự nóng và sự lạnh, sự vui mừng và sự đau đớn,
sự sống và sự chết; nó tụ hội và phân chia các yếu tố của nó như thế nào, nó sản
xuất như thế nào vừa không khí tinh vi mà chúng ta thở hít, vừa những tảng đá
kim cương và lam ngọc chúng ta đã từ trên đó bị xô xuống vực thẳm, vừa ngọn lửa
thần thánh nướng chúng ta đen thui, vừa cái tư tưởng cao ngạo nó xáo động tâm
trí của chúng ta. Bị tả tơi bởi những vết thương rộng lớn, bị cháy bùng vì ngọn
lửa và lạnh buốt vì băng giá, chúng ta hãy tạ ơn số mệnh đã có công mở mắt cho
chúng ta, và hãy vui với số phận của chúng ta. Chính do sự đau đớn mà, trải qua
một lần đầu kinh nghiệm về thiên nhiên, chúng ta được kích thích để hiểu biết
nó và chế ngự nó. Khi nào nó tuân lệnh ta, chúng ta sẽ là những Chúa trời.
Nhưng dù nó có giấu mãi chúng ta những bí mật của nó, từ chối chúng ta những vũ
khí và giữ bí quyết của sấm sét, chúng ta vẫn cứ phải mừng đã được biết sự đau
đớn, vì nó phát lộ cho chúng ta những tình cảm mới, quý giá hơn và ngọt ngào
hơn tất cả tình cảm người ta được biết trong nền phúc lạc vĩnh hằng, vì nó hứng
khởi cho chúng ta tình yêu và lòng thương xót, ở thiên đình không hề ai được biết”.
Những lời đó của vị Séraphin đã cải tạo tâm
tính của chúng tôi và mở cho chúng tôi những hy vọng mới. Một nỗi khao khát
mênh mông được biết và được yêu làm căng lồng ngực chúng tôi.
Trong khi đó, trái đất đản sinh, vầng cầu
mênh mông và tù mù của nó đã hàng giờ đông đặc lại và ổn định. Các tầng nước vẫn
nuôi sống các loài rong tảo, san hô thạch tâm, trai hến, và chở những hạm đội
nhẹ nhàng các loài ốc anh vũ, không tràn ngập toàn bộ mặt đất nữa; nó tự khởi lấy
những lòng suối, lòng sông, và những lục địa đã xuất hiện, trên đó có những con
quái vật vừa ở cạn vừa ở nước, bò lổm ngổm trong phù sa ấm áp. Rồi những ngọn
núi được rừng cây bao phủ, và các giống động vật linh tinh bắt đầu gặm cỏ, nếm
những quả mọng của những cây nhỏ và những quả của cây sồi.
Rồi, đến chiếm đoạt các hang hốc, là các giống
động vật biết dùng một mảnh đá nhọn sắc đâm thủng các dã thú và, dùng mưu mẹo
thu phục các cư dân cổ lỗ của rừng rú, đồng nội và núi non. Con người bắt đầu nền
ngự trị của nó, một cách cực nhọc. Nó yếu ớt và trần trụi. Lông thưa thớt không
đủ đảm bảo chống lạnh. Hai bàn tay tận cùng bằng những móng tay mỏng mảnh quá
không đủ để chiến đấu với vuốt của loài mãnh thú, những kiểu sắp xếp của những
ngón tay cái của nó, đối xứng với các ngón khác, cho phép nó nắm được dễ dàng
những đồ vật khác nhau và bảo đảm cho nó sự khéo léo thay cho sức mạnh nó thiếu.
Không khác về bản chất với các động vật khác, nó có khả năng, hơn bất cứ loài
nào, quan sát và so sánh. Vì nó biết phát từ cổ họng ra những âm thanh đa dạng,
nó mới nghĩ cách chỉ định, bằng một lối uốn giọng đặc biệt, mỗi thứ đồ vật làm
nó chú ý, và cái chuỗi liên tiếp âm thanh linh tinh đó giúp nó xác định và truyền
đạt những ý nghĩ của nó. Số phận khốn khổ và thiên tư ưu lự của nó gợi mối tình
đồng cảm của những thiên thần bại trận, họ biết được ở nó một sự quả cảm giống
như của họ và những mầm mống của cái lòng kiêu hãnh nọ, nguyên nhân của những
khổ não và vinh quang của họ. Họ bèn kéo đến đông đảo, cư ngụ gần nó, trên trái
đất trẻ trung này, mà đôi cánh của họ chở họ đến dễ dàng. Ở đó, họ lấy làm vui
mà kích thích trí thông minh của nó và khêu gợi thiên tư của nó. Họ dạy cho nó
biết che thân bằng những bộ da thú, và vần những tảng đá che cửa hang để ngăn
không cho hổ gấu vào. Họ dạy cho nó biết làm bật ra lửa bằng cách xoáy một cái
gậy trong đám lá khô và biết bảo quản ngọn lửa thiêng liêng trên hòn đá của bếp
lửa. Nhờ sự khởi hứng của những ma quỷ có trí xảo, nó dám băng qua những dòng
sông lớn trong những thân cây xẻ ra và đục lõm; nó sáng chế ra bánh xe, cối xay
và cái cày; lưỡi cày xẻ đất thành một vết thương phì nhiêu, và hạt lúa cung hiến
cho những kẻ nghiền vỡ nó một nguồn lương thực thần tiên. Nó nhào nặn những nồi
niêu chum vại trong đất sét và đẽo đá lửa thành những dụng cụ linh tinh. Nghĩa
là, cư trú giữa đám những con người, chúng tôi vỗ về họ và dạy bảo cho họ.
Chúng tôi không phải bao giờ cũng hiện hình đối với họ; nhưng, chiều tối, ở những
khúc đường ngoặt, chúng tôi hiện lên với họ dưới những hình dạng thường khi kỳ
dị và kỳ quái, đôi khi uy nghiêm và dễ thương; và chúng tôi, tùy theo ý thích,
khoác ngoại hình một con quái vật của rừng rú hay của sông ngòi, một con người
đáng tôn kính, một đứa trẻ con xinh đẹp hoặc một người đàn bà có đôi hông nở
nang. Đôi khi chúng tôi chế giễu họ trong những bài ca của chúng tôi hoặc thử
thách trí thông minh của họ bằng một trò đùa cợt khích bác. Có một số trong bọn
chúng tôi, tính tình hơi nghịch ngợm, thích chòng ghẹo vợ con họ, nhưng chúng
tôi lúc nào cũng sẵn sàng cứu giúp những người anh em ruột thịt kém cỏi đó.
Nhờ công chăm sóc của chúng tôi, trí thông
minh của họ mở rộng khá đủ để đạt tới sự lầm lạc và quan niệm những quan hệ sai
giữa các sự vật. Và họ giả thiết rằng có những liên quan huyền diệu kết nối
hình tượng với hiện thực, họ vẽ đầy trên các tường vách của hang ổ của họ những
hình tượng thú vật và khắc họa vào ngà voi những ngẫu tượng tuần lộc và khổng
tượng để tin chắc sẽ bắt được con mồi mà những hình tượng kia miêu tả. Các thời
đại trôi qua trên những khởi đầu của thiên tư của họ, với một sự chậm chạp vô hạn.
Chúng tôi gửi đến cho giấc mơ của họ những tư tưởng tốt lành, xui khiến họ thuần
hóa được giống ngựa, thiến được bò mộng, dạy được chó canh giữ đàn cừu. Họ lập
nên gia đình, bộ tộc. Một hôm, một trong những bộ tộc lang thang của họ bị những
thợ săn dữ tợn tấn công. Ngay lập tức, các thanh niên trong bộ tộc bèn đem những
xe vận tải xếp thành một hàng lũy vây quanh, trong đó họ cất giấu đàn bà, trẻ
con, cụ già, bò thiến, của báu và từ trên những cỗ xe đó, họ ném những hòn đá
giết người vào lũ xâm lược. Như vậy đã được sáng lập dân xã(14) đầu tiên. Bẩm
sinh khốn khổ, và bị luật pháp của Jéhovah buộc phải giết người, con người tôi
luyện trái tim mình trong những trận chiến đấu và nhờ chiến tranh rèn đúc nên
những đức năng cao cả nhất của mình. Nó xác định bằng máu tình yêu tổ quốc, nó
sẽ (nếu con người hoàn thành đến đầu đến đũa vận mệnh của mình) phải gồm thâu
toàn thể trái đất trong hòa bình. Một vị trong bọn chúng tôi, Dédale (15), đem
lại cho nó búa rìu, dây rọi, buồm gió. Như vậy chúng tôi làm cho cuộc sống của
con người trần gian trở nên đỡ gay go hơn, đỡ khó khăn hơn. Họ dựng xây trên mặt
nước hồ những xóm làng bằng lau sậy trong đó họ được nếm trải một sự yên tĩnh
trầm tư mà các cư dân khác của trái đất không hề được biết, và khi họ đã biết
làm nguôi cơn đói, không đến nỗi cố gắng vất vả quá, chúng tôi thổi vào trong
ngực họ tình yêu cái đẹp.
Họ dựng lên những kim tự tháp, những cột
tháp(16), những tháp chòi, những bức tượng khổng lồ cười mỉm, cứng đờ và dữ dội,
và những biểu trưng sinh thực. Sau khi đã tập hiểu biết chúng tôi, hoặc ít ra
là đoán ý chúng tôi, họ cảm thấy, lòng sợ sệt và tình bạn hữu đối với chúng
tôi. Những người khôn ngoan nhất trong bọn họ dò xét chúng tôi trong một niềm
kinh hãi thần thánh và nghiền ngẫm những lời dạy bảo của chúng tôi. Trong sự biết
ơn của họ, các dân tộc ở Hy Lạp và châu Á phụng hiến chúng tôi những bia đá,
cây cối, rừng cây có bóng âm u, dâng chúng tôi những vật hy sinh, hát cho chúng
tôi những bài ca ngợi, nghĩa là, chúng tôi là những thần thánh đối với họ và họ
gọi tên chúng tôi là Horus, Isis, Astarte, Zeus, Pallas, Cybele, Demeter, và
Triptolème (17). Satan được thờ kính dưới những danh hiệu Dionysus, Evan, Léné
và Iacchos (18). Người tỏ ra, trong những hiện hình, có bao sức mạnh và bao vẻ
đẹp mà loài người có thể quan niệm được. Đôi mắt Người có cái dịu dàng của những
tử lan hoa (19) trong rừng cây; trên môi Người lấp lánh sắc hồng ngọc của những
quả thạch lựu đã nứt mọng, một lớp lông tơ, tế nhị hơn lớp nhung của những trái
đào, phủ trên má và trên cằm của Người, bộ tóc vàng hoe của Người tết thành
vương miện và buộc lại hững hờ trên đỉnh đầu, được thắt đai bằng dây leo trường
xuân. Người làm say mê được các mãnh thú, và vào sâu trong các khu rừng thẳm,
thu hút được tất cả các yêu quái dã man, tất cả những loài leo trên cây và, qua
khe những cành lá, để lộ ra một đôi mắt e dè, tất cả các sinh vật hung hãn và sợ
sệt, ăn những quả cây mọng đắng ngắt và bộ ngực đầy lông lá chứa đựng một trái
tim man rợ, những giống nửa người nửa ngợm trong rừng, đối với họ Người truyền
thụ lòng hào hiệp và ân ưu, và họ đi theo Người, say sưa niềm vui và vẻ đẹp.
Người trồng cây nho và dạy bảo cho người trần
tục chà đạp những chùm nho để cho rượu vang chảy ra. Lộng lẫy và nhân từ, Người
ruổi rong khắp thế gian, có một đoàn tùy tùng dài đi theo. Để tháp tùng Người,
tôi đội lốt một người chăn dê: từ trán tôi mọc ra hai cái sừng mới nhú, mũi tôi
tẹt và tai tôi nhọn; hai cái hạch lủng lẳng ở cổ tôi, như ở cổ những con dê
cái; ở mông tôi ve vẩy một cái đuôi dê đực và đôi cẳng chân lông lá của tôi tận
cùng bằng một cái móng sừng đen và trẽ đôi, nó gõ mặt đất nhịp nhàng.
Dionysus đi trọn vẹn khắp thế giới cuộc du
hành đắc thắng. Cùng với Người, tôi đi qua xứ Lydie (20), những đồng nội xứ
Phrygie (21), những đồng bằng nóng bỏng nước Ba Tư, xứ Medie (22) đầy những
sương giá, xứ Ả Rập hạnh phúc và châu Á phong phú. Có những đô thành phồn thịnh
chân dầm sóng biển, Người tiến lên, trên một cỗ xe kéo bằng những sư tử và mèo
rừng, theo nhịp những tiếng sáo, tiếng chũm chọe và tiếng trống, được sáng chế
cho những biểu diễn thánh kịch của Người. Các cô gái Bacchante, Thiase và
Ménade đầu đội mũ da hươu sao non, vung vẩy cây tiêu thần trượng có quấn dây
leo trường xuân. Người lôi cuốn sau chân Người những thần Satyre, đàn lũ vui vẻ
do tôi dẫn dắt, những thần Silène, những thần Pan (23), thần Centaure. Dưới bước
chân của Người nảy sinh các hoa và các quả, và khi lấy tiêu thần trượng gõ vào
những tảng núi đá, Người làm vọt ra những dòng suối trong veo.
Vào thời gian hái nho, Người đi tham quan
nước Hy Lạp; và những dân làng chạy đến để đón chào Người, mình nhuộm đầy những
nước nho xanh hoặc đỏ, đeo mặt nạ gỗ, bằng vỏ cây hoặc lá cây, một cái bát bằng
đất nung trong tay, và nhảy múa những vũ điệu dâm đãng. Những đàn bà của họ, bắt
chước các thị tòng của Thần, đầu quấn cành thổ phục linh màu xanh lục, buộc
trên hai bên sườn mềm mại những miếng da hươu sao non và da dê non. Các cô gái
đồng trinh thì buộc vào cổ những tràng quả và nhào những bánh ga tô bằng bột và
mang hình tượng Dương vật trong cái giỏ huyền bí. Và những người trồng nho nhem
nhuốc những cặn rượu vang, đứng trên các cỗ xe của họ, trao đổi với khách qua
đường lời chế nhạo và chửi rủa, sáng chế ra bi kịch.
Cố nhiên, không phải bằng cách ngủ gà ngủ gật
bên bờ một dòng suối, mà bằng một công phu lao động nặng nhọc, Dionysus đã học
được cách trồng trọt cây cối và bắt nó phải sản xuất những quả ngọt ngào. Và
trong khi Người trù tính nghệ thuật biến những cư dân thô lỗ của rừng rú thành
một giống nòi bạn hữu với đàn thiên cầm và phục tùng những luật lệ đúng lý, đã
hơn một lần, trên vầng trán nồng cháy niềm hưng phấn, phảng qua nét u sầu và
giây phút mê sảng ảm đạm. Nhưng tri thức uyên thâm của Người và tình bạn hữu của
người đối với loài người khiến cho Người khắc phục tất cả mọi trở ngại. Ôi những
ngày thần tiên! Ôi vầng hồng đẹp của cuộc sống! Chúng tôi dẫn dắt các cô gái
Bacchante lên những đỉnh núi cao rườm rà cây lá và trên bờ cát vàng của biển cả.
Các ả Naïades và Oreades (24) cũng hòa lẫn vào các trò chơi của chúng tôi. Nàng
Aphrodite, khi chúng tôi đến gần, từ bọt sóng biển hiện lên, để mỉm cười với
chúng tôi.
--------------
Chú thích.
1. Giàn nho dại kết thành vòm (tonnelle
tapissée de vigne vierge): trong mấy bộ Pháp-Việt từ điển của ta, dịch vigne vierge là: cây bạch anh, hoặc
không có từ đó; Pháp-Hoa mô phạm từ điển dịch là: dã bồ đào, tức là nho dại. Chúng tôi theo lời dịch này.
2. Séraphin: đứng đầu hàng các thiên sứ,
thường dịch là đệ nhất thiên sứ, danh từ Séraphin
đẹp nhất chuyên dùng để chỉ Lucifer.
3. Chòm sao bảy ngôi hấp dẫn (les sept
etoiles magnetiques) chúng tôi đoán đây là ám chỉ chòm sao Thất tinh, hoặc Thất nữ
(Pleiades) ở bầu trời phía bắc. Có lẽ gọi là Magnetiques (có từ tính) vì nó hút kim nam châm bao giờ cũng hướng
về nó, và cũng có lẽ vì nó là chòm sao thu hút sự chú ý và ngưỡng vọng của giới
văn thơ. (Đó là bảy con gái của thần Atlas và Pléioné tự tử vì thất vọng và được
hóa thân thành bảy ngôi sao ở bầu trời phương bắc).
4. Kẻ kia (l’Autre): người theo đạo Cơ đốc
gọi là Đức chúa Trời là Dieu, Chúa quỷ
là l’Autre (kẻ kia) vì kiêng không gọi
đích danh con quỷ. Đây, ngược lại, gọi Chúa Trời là Kẻ kia, tỏ rõ lập trường tôn kính Lucifer và ghét Jéhovah.
5. Chalybes, Cyclope: Cyclope trong thần thoại Hy Lạp là những khổng lồ quái dị, có một mắt
ở trán, rèn trong núi lửa Etna những sấm sét của Jupiter, theo mệnh lệnh của thần
Vulcain là thần lò rèn. Chalybes là bộ
tộc chuyên rèn sắt.
6. Thanh đồng (Bronze): hợp kim đồng với
thiếc thường dùng để đúc tượng và đúc đại bác; còn gọi là đồng đen.
7. Hoàng đồng (airain): hợp kim nhiều kim
loại, mà đồng là căn bản, thường dùng để chỉ đại bác, hoặc chuông.
8. Vị Thần độc tôn (le Dieu jaloux):
Jéhovah có danh hiệu là Dieu jaloux,
có nghĩa là vị Thần thiết tha giữ quyền duy ngã độc tôn, không cho phép tín đồ
được thờ thần thánh ma quỷ nào khác, cấm cả sự thờ hoặc chiêm ngưỡng thần tượng.
9. Thứ bậc thứ ba (troisième chœur): chỗ
này, tác giả có lầm lẫn đôi chút, đáng lẽ phải nói đẳng cấp thứ ba và thứ bậc thứ
chín vì các thiên thần trơn (anges) là đứng cuối đẳng cấp thứ ba.
10. Đạo quân tinh tú: ám chỉ dải Ngân hà.
11. Tên đạn (carreaux): nói rộng có thể là
chỉ các loại tên đạn, nhưng đặc biệt, nghĩa hẹp là sấm sét của Jéhovah.
12. Câu chú thích bản
tiếng Anh của tác giả ở cuối trang chính văn, tác giả đã dịch ý bằng tiếng Pháp
ở trên: “tự do trong địa ngục, còn hơn nô
lệ ở thiên cung”. Trích tác phẩm trường thi của Milton, Thiên đàng đã mất, quyển I câu thơ 251.
13. Satan vĩ đại hơn Lucifer: vì làm chúa tể
của địa ngục, chứ trước kia, ở thiên cung, chỉ là nô lệ của Chúa Trời.
14. Dân xã (cité): thường vẫn dịch cité là
đô thành, đô thị, v.v… không được đúng lắm. Chúng tôi dịch lại theo đúng nội
dung nguyên ý là dân xã, vì là nhân dân tụ hội thành xã hội có tổ chức, mỗi
thành viên gọi là xã dân (citoyen). Về
sau, tổ chức cao hơn, chặt chẽ hơn, mới thành những đô thị hoặc đô thành.
15. Dédale: vốn là tên một kiến trúc sư Hy Lạp,
đã xây nên mê cung (labyrinthe) ở
Crète, có nhiều phòng bố trí rắc rối, khó tìm được lối ra vào - đây chỉ là tên
mượn.
16. Cột tháp (Obélisque): công trình kiến
trúc Ai Cập đáy vuông vút lên trên tận cùng bằng hình kim tự tháp nhỏ, đầu nhọn,
thường làm bằng một tảng đá duy nhất. Hiện nay, ở Paris, còn bảo tồn được một
chiếc rất to đẹp, dựng ở quảng trường Concorde.
17. Horus, Isis, Astarte, Zeus, Pallas, Cybele,
Demeter và Triptolème: tên các thần của thần thoại Hy Lạp và Ai Cập.
- Horus: thần Ai Cập, hình tượng là con
chim cắt, hoặc thân người, đầu chim cắt.
- Isis: nữ thần Ai Cập, mẹ của Horus, nữ
thần của y học, hôn nhân, trồng trọt lúa mì v.v hình tượng của nền văn minh sơ
thủy của Ai Cập.
- Astarte: nữ thần của thiên khung, của
các dân tộc Sémites, bảo hộ cho nhiều đô thị, với những tên khác nhau (Ishtar,
Astoret, v.v).
- Zeus: tên Hy Lạp của Jupiter.
- Pallas: một trong những tên của Minerve,
coi như nữ thần của chiến tranh.
- Cybele: con gái của Trời, nữ thần của Đất
và các động vật, vợ của Kronos, mẹ của Jupiter, Neptune, và Pluton, v.v...
- Demeter: theo thần thoại Hy Lạp, bà là nữ
thần nông nghiệp, thiên nhiên, mùa màng và sung túc (là Cérès của La Mã).
- Triptolème: Vua xứ Éleusis, sáng chế lưỡi
cày, học được của Cérès (thần Đất của thần thoại La Mã) nghề canh nông và truyền
dạy cho cư dân Attique (Hy Lạp).
18. Evan, Léné, Iacchos: những tên khác nhau
để chỉ Dionysus.
19. Tử lan hoa (violette): gọi là hoa tím
thì có thể lầm với những loài hoa màu tím khác, tốt nhất là dịch âm là viôlet, nhưng lại sợ có nhiều người lầm
nó với hoa chân chim (pied
d’alouette) vẫn bị gọi sai là viôlet,
cho nên dịch là tử lan hoa (loại hoa
lan màu tím) thì không lầm với cái gì được.
20. Lydie: xứ cũ miền Tiểu Á, trên bờ biển
Égée.
21. Phrygie: một miền cũ ở trung tâm Tiểu Á
châu.
22. Medie: một miền cũ của châu Á, xưa kia
đã từng là một đế quốc hùng cường, sau bị sáp nhập vào Ba Tư.
23. Pan: vị thần của tự nhiên, hoang dã, của
những kẻ chăn gia súc; đầu thần có sừng, hay thổi sáo điều khiển điệu múa của
các Lâm Tuyền tiên nữ; cũng hay thích nhập bọn tùy tòng Dionysus, qua các núi rừng,
thung lũng, v.v...
24. Naïades, Oreades: Naïades là các nữ thần các dòng suối; Oreades là nữ thần các núi non và hang đá.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét