Những Chiến Dịch Đặc Biệt
Tác giả: Pavel Xudoplatov
Người dịch: Nguyễn Văn Thảo
Thể loại: Hồi ký
Nhà xuất bản Công an nhân dân
Năm xuất bản: 2003 (Lưu hành nội bộ)
Chương 8: Chiến Tranh Lạnh
7. Những chiến dịch điệp viên của
Abel-Fiser và những người khác ở Tây Âu và trên đại lục Mỹ
Quyết định chuyển Fiser ra nước ngoài được
phê chuẩn cuối 1947. Tôi đề nghị Fedotov chuyển ông sang Tây Âu và Bắc Mỹ để kiểm
tra tại chỗ mạng lưới điệp viên chúng ta có ở Pháp, Na Uy, Mỹ và Canada. Ông phải
bảo đảm sự tiếp cận những cơ sở quân sự, kho tàng, kho đạn dược. Chúng ta rất cần
biết được người Mỹ có khả năng đổ quân sang châu Âu trong trường hợp “chiến
tranh lạnh” tăng trưởng thành chiến tranh nóng như thế nào.
Eitingon về phần mình, đề nghị Fiser nhận
quốc tịch Mỹ và bố trí hệ thống liên lạc điện đài riêng của mình với Moskva. Tự
ông là một nhân viên điện đài giỏi. Tôi đồng ý với Eitingon, nhấn mạnh rằng
trong bất cứ trường hợp nào Fiser cũng không được dựa vào các nguồn thông tin
cũ. Ông phải thiết lập những tiếp xúc mới, sau đó kiểm tra những người mà chúng
ta đã sử dụng những năm 30-40: trong từng trường hợp ông cần tự quyết định, có
nên bắt mối liên lạc với họ hay không, nghĩa là chúng tôi sẽ không báo với họ về
sự xuất hiện người phụ trách mới của họ ở phương Tây.
Quan trọng hàng đầu ở Mỹ đối với chúng ta
là bờ biển miền Tây - chính ở đấy tại Long Bach, có các cơ sở quân sự. Fiser nhận
chỉ thị thông báo với chúng tôi về các chuyến hàng quân sự chuyển đi Trung Quốc
cho Quốc dân đảng Trung Hoa lúc ấy vẫn đang tiến hành những trận chiến tàn khốc
với quân Giải phóng nhân dân Trung Hoa.
Fiser lập được mạng điệp viên mới, liên kết
các điệp viên ở California và điệp viên người lưu vong Tiệp ở Brazin, Mexico và
Argentina. Người của ông báo cáo về sự di chuyển của kỹ thuật quân sự và đạn dược
được chuyển từ các cảng Mỹ trên Thái Bình Dương đến các cảng Viễn Đông. Các điệp
viên khá thường xuyên đi từ Mỹ Latinh sang Mỹ theo công việc gắn với kinh doanh
của họ, vỏ bọc tuyệt vời. Tất cả bọn họ là những chuyên gia thật sự về tiến
hành các chiến dịch phá hoại, có nhiều kinh nghiệm trong thời gian chiến tranh
du kích chống Đức. Trong nhóm Mỹ Latinh này có Grintsenko, Filonenko và cựu thư
ký của Trotsky, Maria de Las Eras (mật danh “Patria”). Nhận lệnh từ Trung tâm,
họ có thể lôi kéo các điệp viên California vào các chiến dịch phá hoại.
Đại tá Filonenko và vợ ông, thiếu tá tình
báo, cùng với ba đứa trẻ sống ở Argentina, Brazin và Paragoay, dưới vỏ bọc
doanh nhân Tiệp từ Thượng Hải chạy trốn những người cộng sản Trung Quốc. Trong
trường hợp cần thiết, họ có thể sử dụng những người Trung Quốc sống ở
California để tiến hành gây nổ trên các tàu Mỹ chở hàng quân sự đi Viễn Đông. Để
hạn chế mạo hiểm, Filonenko thường đều đặn đi thăm Mỹ thay cho việc sống cố định
tại đấy. Rất may, đã không có lệnh tiến hành phá hoại trên các tàu Mỹ.
Mạng lưới điệp viên khác của Fiser - các kiều
dân Đức ở bờ biển phía Đông của Mỹ. Nói riêng có Kurt Vizel cựu trợ lý của Ernest
Vollveber, chuyên gia tiến hành phá hoại từ trước chiến tranh. Tại Mỹ ông đã
leo cao trong công tác và giữ chức kỹ sư trưởng của hãng chế tạo tàu biển cho
phép tiếp cận thông tin bí mật. Hãng của ông nằm đâu đó gần Nolfork hay
Philadelphia gì đó, ông có các mối liên hệ rộng trong cư dân Đức tại đây. Vizel
tạo được một nhóm tin cậy để tiến hành các vụ phá hoại.
Vào cuối những năm 40 cũng có người bị quyến
rũ bởi ý định trang bị các thiết bị nổ cho Vizel và Filonenko, nhưng tôi kiên
quyết phản đối. Mùa thu 1950 khủng hoảng trong cuộc chiến Triều Tiên lên đến đỉnh
điểm, các chuyên gia chúng ta vốn có thể lắp thiết bị nổ tại chỗ, đã từ Mỹ
Latinh đi sang Mỹ. Họ ở Mỹ hai tháng, nhưng không có lệnh của Trung tâm, và các
sĩ quan lại yên lành trở về Argentina, còn từ đấy qua Vienne về Moskva.
Có thể điều đó đã cứu các điệp viên ở Mỹ
Latinh thoát chết. Vào những năm 1950-1960 tình báo Mỹ kết hợp chặt chẽ với các
cơ quan đặc biệt các quốc gia Mỹ La tinh tích cực tìm kiếm và mò mẫm một số
cách tiếp cận các điệp viên ngầm của ta. Nói riêng người Mỹ biết chắc chắn rằng
điệp viên Xô viết Artur, ông cũng là “Iuzik” (tên trong tài liệu tác chiến của
Grigulevich), đã lập một nhóm tình báo - phá hoại ở Argentina trong những năm
chiến tranh. Rất may Grigulevich đã được đưa ra khỏi đòn giáng năm 1944, trở về
Liên Xô qua một lớp huấn luyện của đại tá Makliarxky, rồi được ném sang Tây Âu.
Họ cũng tìm Zina - vợ của đại tá Filonenko mà họ rõ nhân dạng, vì bà hoạt động
công khai năm 1945 trong phái đoàn thương mại ở Montevideo.
Các nhà lãnh đạo cơ quan bí mật của ta của Ủy
ban thông tấn, sau là Tổng cục 1 KGB đã làm một sự phiêu lưu khó biện minh khi
gọi Filonenko đến cuộc họp bí mật ở Urugoay, tại Montevideo. Dù chuyến đi không
khó nhưng điệp viên ngầm - trưởng nhóm đi sang một nước mà phản gián địa phương
có những tư liệu về vợ ông ta là mạo hiểm.
Trong thời gian ở Moskva, Fiser về nghỉ
phép, Abkumov hay hình như Molotov có nêu vấn đề về truy lùng Orlov, tôi kiên
quyết phản đối, nhắc lại BCHTƯ đã cấm chúng tôi truy nã ông ta. Ngoài ra Orlov
sẽ nhận ra ngay sự theo dõi hay bất kỳ ý đồ nào của các điệp viên tìm cách đến
gần những người họ hàng của ông ta. Ý tưởng dùng Fiser để tìm kiếm Orlov là của
Korotkov.
Về sau chính Korotkov trở thành kẻ có lỗi
trong sự đỗ vỡ của Fiser. Năm 1955, với tư cách trợ lý ông ta đã gửi cho Fiser
điệp viên Kheikhanen, người Phần Lan. Tay này thích rượu, tiêu hết tiền tác chiến,
vi phạm nguyên tắc bảo mật, còn khi người ta quyết định gọi y về Moskva, y trốn
ở lại Mỹ và khai ra Fiser “Rudolf-Abel”.
Fiser được chuyển về Cục tình báo bí mật của
Ủy ban thông tấn, nhưng tôi vẫn để ý đến ông. Năm 1951 hay 1952 bộ trưởng mới Bộ
An ninh, Ignatiev ra lệnh để văn phòng của tôi cùng với GRU chuẩn bị kế hoạch của
chiến dịch phá hoại tại các cơ sở quân sự Mỹ trong trường hợp chiến tranh hay đụng
độ khu vực hạn chế gần biên giới. Chúng tôi xác định 100 mục tiêu, chia chúng
thành 3 loại: các căn cứ quân sự nơi đóng các lực lượng không quân chiến lược với
vũ khí hạt nhân; các công trình quân sự với kho tàng đạn dược và kỹ thuật chiến
tranh dành để cung ứng cho quân đội Mỹ ở châu Âu và Viễn Đông; và cuối cùng,
các đường dẫn dầu với kho chứa nhiên liệu để đảm bảo cho sự bố trí ở châu Âu
các đơn vị Mỹ và NATO cố định, cũng như cho quân đội họ đóng ở Cận Đông và Viễn
Đông ở gần biên giới nước ta.
Đến đầu những năm 1950 chúng tôi có trong
tay những điệp viên có thể thâm nhập vào các căn cứ và cơ sở quân sự ở Na Uy,
Pháp, Áo, Đức, Mỹ và Canada. Kế hoạch là để thiết lập sự theo dõi và kiểm soát
các cơ sở chiến lược của NATO, ghi nhận sự tích cực của nó. Fiser phải thiết lập
iên lạc điện đài cố định, tin tưởng các nhóm chiến đấu chúng ta dự trữ ở Mỹ
Latinh. Trong trường hợp cần thiết những người này sẵn sàng vượt biên giới
Mexico sang Mỹ như những công nhân thời vụ.
Tại châu Âu trong khi đó công tước Gagarin,
điệp viên từ lâu của ta tự nhận là người lưu vong có tinh thần chống Xô viết và
thời thế chiến II phục vụ trong quân đội của Vlaxov, chuyển từ Đức sang Pháp.
Nhiệm vụ của ông là tạo lập các căn cứ cho các hoạt động phá hoại ở các cảng biển
và sân bay quân sự cũng như những nhóm phần tử vũ trang mà trường hợp chiến
tranh hay căng thẳng dọc biên giới nước ta, hẳn đủ sức loại khỏi vòng chiến đấu
hệ thống cung ứng sinh hoạt và thông tin của ban tham mưu NATO đóng ở
Fontainebleau - ngoại ô Paris.
Một trong những nhà hoạt động chính trị
Pháp được tuyển dụng những năm 1930 bởi Xerebrianxky khi ông làm việc trong văn
phòng Daladie, thủ tướng lúc ấy, cũng có vai trò quan trọng trong mạng lưới điệp
viên chúng ta tổ chức, ở Moskva tôi được chuyển một nhóm chuyên gia về dầu lửa,
chế biến dầu và bảo quản nhiên liệu mà cùng họ chúng tôi thảo luận các đánh giá
kỹ thuật và sự phân bố các đường dẫn dầu chủ chốt ở Tây Âu. Sau đó chúng tôi
giao cho các sĩ quan của mình nhiệm vụ chiêu mộ điệp viên phá hoại trong số người
phục vụ các nhà máy lọc dầu và quản lý ống dẫn dầu.
Năm 1952 tôi nhận một thông báo rằng Fiser
đã nhận quốc tịch Mỹ và bằng cách đó kiếm được “ô” chắc chắn. Bây giờ ông có thể
làm, hoàn toàn chính thức, một nghề nghiệp của mình - nghệ sĩ hay họa sĩ. Ông
có ba căn hộ được trang bị điện đài: giữa New York và Nolfork, gần hồ Lớn và tại
bờ biển miền Tây. Đó là điều cuối cùng tôi nghe được về ông trước khi tôi bị bắt
và trước thời điểm ông được đổi lấy phi công quân sự Mỹ Powers, nằm trong tù
Vladimir, nơi tôi cũng ở đó thời ấy.
Ignatiev thay chức Bộ trưởng An ninh của
Abakumov, cùng với Bộ trưởng Quốc phòng, nguyên soái Vaxilevxky năm 1952 khuyến
khích kế hoạch hành động chống lại các căn cứ quân sự chiến lược Mỹ và NATO
trong trường hợp chiến tranh hay các đụng độ toàn cục vượt khỏi tầm kiểm soát.
Nhưng đề nghị của tôi mở rộng cơ sở hoạt động của điệp viên ở Paris bất ngờ đã
vấp phải những khó khăn nghiêm trọng.
Khokhlov (mật danh “Xvixtun”), một trong điệp
viên - cựu binh của chúng ta, làm việc tích cực trong những năm chiến tranh, đột
nhiên bị phát giác bởi phản gián đối phương, sau đó anh ta chạy sang phương
Tây. Trước chiến tranh Khokhlov chủ yếu “làm việc” trong giới trí thức. Chúng
tôi lên kế hoạch dùng anh ta như người liên lạc cho mạng điệp viên được thành lập
ở Moskva trong trường hợp nó bị Đức chiếm. Ở Minxk, anh làm quen với cô hầu của
thống đốc Beloruxia người Đức. Năm 1943 trong phòng ngủ của ông chủ một quả mìn
được gài dưới đệm và thống đốc Cube bị giết.
Tôi đưa theo Khokhlov sang Rumani để anh ta
quen dần với lối sống phương Tây. Trở về Moskva anh ta là nguồn dữ trữ tích cực
nhằm để cài sâu sang phương Tây. Tôi bố trí cho anh ta vào học khoa ngữ văn Trường
đại học Tổng hợp Moskva. Từ những năm 1950 Khokhlov bắt đầu thường hay đi sang
phương Tây. Trong văn phòng tôi, Khokhlov do Tamara Ivanovna phụ trách, cô là
trưởng phòng huấn luyện điệp viên. Cô làm việc tốt ở Hungari và Áo, năm 1945
tham gia chiêu mộ những người Đức trong chiến dịch Berezino, nhưng năm 1948 được
gọi về theo sắc lệnh đình chỉ công việc và gọi về tất cả các điệp viên từ những
nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu.
Khokhlov mấy lần đi Đức, Áo và Thụy Sĩ. Tôi
muốn anh ta bằng khả năng thiên phú làm quen với vũ nữ balê gốc Gruzia trong
nhà hát balê Paris mà người ta thường thấy trong nhóm các sĩ quan Mỹ và thành
viên NATO. Bản thân Khokhlov không biết gì về các kế hoạch này. Thật tiếc và bực
tức, anh ta đã gây một sai lầm không thể tha thứ mà lúc đầu tự thấy không quan
trọng. Dưới mắt tôi, điều đó đã gạch bỏ hoàn toàn đường công danh của anh ta.
Tháng 5-1992 Khokhlov xuất hiện một thời
gian ngắn ở Moskva sau khi Eltsin ký lệnh ân xá cho y, nhưng rồi nhanh chóng lại
quay sang Mỹ.
Một trong những chỉ huy cuối của Khokhlov,
Anh hùng Liên Xô Mirkovxky, cựu phó của tôi, kể với tôi rằng thuộc cấp của ông
không muốn đi làm nhiệm vụ cuối cùng. Người ta cử y đi không phải để giết
Okolovich, mà để chuẩn bị cho vụ ám sát đó, còn một nhóm điệp viên Đức phải thực
hiện việc này. Khokhlov cũng không muốn đưa vợ và con theo sang Áo. Điều đó có
nghĩa y hoàn toàn không định chạy trốn. Thế nhưng tại cuộc họp báo y nói là y
và vợ chỉ luôn mơ được bỏ chạy sang phương Tây. Việc chạy sang phương Tây của
Khokhlov gây đau khổ cho gia đình y, đặc biệt cô vợ. Cô vợ đã không kể gì về
người bố với con trai. Con trai Khokhlov trở thành giáo sư sinh học ở Trường đại
học Tổng hợp Moskva và như một thẩm định viên khoa học vẫn sang Mỹ. Vả lại với
bố mình anh gặp lần đầu tiên chỉ vào tháng 5-1992 khi Khokhlov xuất hiện tại
căn hộ của họ ở Moskva.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét