Thứ Năm, 21 tháng 7, 2022

Những Chiến Dịch Đặc Biệt - Chương 6-5

Những Chiến Dịch Đặc Biệt

Tác giả: Pavel Xudoplatov
Người dịch: Nguyễn Văn Thảo
Thể loại: Hồi ký
Nhà xuất bản Công an nhân dân
Năm xuất bản: 2003 (Lưu hành nội bộ)

Chương 6: Tình Báo Trong Những Năm Chiến Tranh  Vệ Quốc Vĩ Đại

5. Sorge. “Dàn đồng ca Đỏ” trong hậu phương Hitler

Thậm chí trong những giờ lo âu ấy, chúng tôi vẫn tìm những điểm yếu của kẻ thù, để xoay trở tình hình có lợi cho ta. Chúng tôi nhận được thông tin giá trị của hầu tước Nelidov, cựu sĩ quan quân đội Sa hoàng và bạch vệ, điệp viên hai mang tầm cỡ của Abwehr và tình báo Anh. Theo nhiệm vụ của Canaris, hầu tước Nelidov tham gia “trò chơi” chiến lược quân sự của bộ tổng tham mưu Đức vào những năm 1936-1937. Trước ngưỡng cuộc xâm lăng của Đức vào Ba Lan (ông ta ở Varsava với nhiệm vụ tình báo), phản gián Ba Lan đã bắt giữ ông ta. Chiếm được Tây Ucraina năm 1939, chúng tôi phát hiện được ông trong nhà tù Lvov và đưa về Moskva. Chiêu mộ Nelidov là Vaxli Zarubin, Zoia Rưbkina và Pavel Juravlev, phụ trách tình báo NKVD hướng Đức. Vào những năm 1941-1942 được lập kế hoạch sử dụng Nelidov để đối chọi với các điệp viên tình báo Anh trụ lại ở Moskva. Lúc ấy các lời khai của Nelidov cho biết định hướng cơ bản của Abwehr trong công tác tình báo phá hoại trong điều kiện chiến tranh chớp nhoáng, Jurablev, Rưbkina và tôi đã không đánh giá đủ ý nghĩa. Thế nhưng hoàn cảnh thay đổi đột ngột sau những thất bại của chúng ta vào những ngày tháng đầu tiên của chiến tranh. Lúc này thì chúng tôi mới quay lại với những cuộc hỏi cung đầu tiên của Nelidov. Đối chiếu những lời khai của ông với những tài liệu nhận được năm 1937 từ Spigelglaz về các “trò chơi” quân sự - chiến lược trong bộ tham mưu Đức quốc xã, và sự đặt cược của người Đức vào tính chớp nhoáng trở nên hiển hiện đối với tất cả mọi người. Phản ứng của Stalin đối với thông báo của chúng tôi là không chậm trễ. Phụ trách Tổng cục tình báo Hồng quân Golikov và phụ trách Cục tác chiến Bộ Tổng tham mưu thiếu tướng Vaxilevxky đã đến NKVD để hỏi cung mở rộng Nelidov và làm quen với tất cả các tài liệu tác chiến những năm 30. Họ có ấn tượng mạnh về sự thông tỏ, các mối liên hệ, và sự đánh giá của ông về giới chỉ huy cao cấp Đức.
Nelidov kể rằng bọn Đức có thể giáng thất bại cho ta chỉ trong trường hợp chiến tranh kéo dài hai hoặc ba tháng. Nhưng nếu trong vòng thời gian đó chúng không chiếm được Leningrad, Moskva, Kiev, vùng Donbaxx, bắc Kavkaz và tất nhiên, Baku với khả năng dầu lửa của nó, cuộc xâm lược hiển nhiên thất bại. Số lượng khổng lồ các xe tăng và các binh đoàn mô tô cần thiết cho chiến tranh chớp nhoáng, chỉ có thể hoạt động có hiệu quả trên lãnh thổ có mạng lưới giao thông phát triển khá tốt, còn để tiến hành cuộc chiến tranh kéo dài thì người Đức thiếu nguồn nhiên liệu dự trữ, nhất là các hạm đội Đức, và các tàu ngầm.
Tháng 10 và 11-1941 chúng tôi nhận được thông tin tin cậy từ Berlin về việc quân đội Đức hầu như đã cạn kiệt nguồn dự trữ súng đạn, dầu lửa để tiếp tục các chiến dịch tấn công tích cực. Tất cả đã chỉ ra sự tạm ngừng tất yếu trong cuộc tấn công của Đức. Chuyển những cứ liệu này là Arvid Harnak (mật danh Korxikanets), chiến sĩ chống phát xít, cố vấn bộ trưởng kinh tế Đức. Thành viên một gia đình nổi tiếng của những nhà văn và triết gia, ông được lôi cuốn cộng tác trong thời gian đi thăm Liên Xô năm 1932 và từ bấy đến giờ suốt chục năm trời cung cấp thông tin cho tình báo Xô viết cho đến khi ông bị phát giác. Tháng 12-1942 ông bị xử án và bị treo cổ. Vợ ông, người Mỹ Mildred Fis Harnak mà ông làm quen trong thời gian học tại trường đại học Tổng hợp bang Wisconsin, cũng bị bắt và bị xử tử năm 1945 vì hoạt động chống phát xít.
Tháng 3-1939, khi tôi trở thành phó phụ trách tình báo NKVD, một trong những nhiệm vụ chủ yếu của tôi là cấy điệp viên ngầm vào Tây Âu và lập mạng lưới điệp viên có liên hệ với những người Đức có vỏ bọc ngoại giao. Liên quan với nước Đức là trung tâm chú ý của toàn bộ công tác của chúng tôi. Sau những vụ thanh trừng 1937-1938, trong tình báo những người mới chuyên trách các vụ việc Đức, và các tiếp xúc của chúng tôi với điệp viên bị cắt đứt tạm thời. Việc bỏ trốn của Alexandr Orlov năm 1938 ném ngờ vực lên các cán bộ lãnh đạo Cục đối ngoại. Người ta bắt giam Spigelglaz, Maly, Belkin, Xerebrianxky và những cán bộ khác kiểm soát các mạng lưới điệp viên tại Tây Âu, gây khó khăn đáng kể cho thu nhận tin tức tình báo. Khi tôi đứng đầu lĩnh vực này, tôi buộc phải phái ra nước ngoài những người mới mà thường là thiếu kinh nghiệm. Kết quả là từ tháng 11-1938 đến tháng 3-1939 tin tức tình báo đến từ Tây Âu giảm đi đột ngột. Quyết định được Stalin và Beria phê chuẩn về việc mở trường tình báo để chuẩn bị cán bộ có nghĩa rằng không sớm hơn sau hai năm chúng tôi mới nhận được những chuyên gia đầu tiên. Trong khi đó nhu cầu cán bộ ngày càng khẩn thiết hơn. Chúng tôi vô cùng cần những người mới. Bối cảnh ngày càng nóng hơn: Hitler chuẩn bị chiếm Ba Lan. Các triển vọng triển khai chiến tranh ở châu Âu đã rõ nét thêm. Stalin đòi hỏi từ Beria những chi tiết về các đạo quân chiến đấu Đức và những kế hoạch chiến lược của Berlin.
Bởi nhẽ những người trước đây chịu trách nhiệm về mạng lưới điệp viên tại Tây Âu (Orlov ở Tây Ban Nha, Krivitsky ở Hà Lan, Reix và Xteinberg ở Thụy Sĩ), hoặc trở thành kẻ vượt tuyến, hoặc bị thanh trừng, cực kỳ khó thuyết phục Beria và Merkulov phiêu lưu và thúc đẩy những cơ cấu mà họ lãnh đạo vào thời của mình. Rất may, không phải tất cả đều bị thanh trừng. Một số ví dụ như Lang, Parparov, Fiser-Abel và Girsfeld, tạm thời bị xếp vào quân dự bị trong khi bên trên đang quyết định số phận của họ. Tại Berlin và Paris vẫn có những người của ta. Nhóm Cambrige phục hồi lại hoạt động của mình bất chấp hiểm nguy rằng Orlov chạy sang phương Tây có thể làm lộ. Rốt cuộc đã thuyết phục được Fitin, rằng dù sao chúng ta cũng nên liều mạng và phục hồi lại các điệp viên cũ, dù điều đó có nguy hiểm đến đâu đi nữa. Tôi với ông báo cáo với Beria và ông ta ủng hộ chúng tôi. Quyết định không đơn giản là phục hồi các mối tiếp xúc bị ngắt quãng nửa năm, dù chúng tôi e sợ rằng qua thời gian ấy có thể một số đã bị bắt và bị chiêu mộ lại. Nhưng đã cuối tháng 4-1940, và bóng ma chiến tranh đã hiện rõ hơn ở phía chân trời.
Tôi nhớ rằng chính lúc ấy ở Trung tâm đã định đoạt số phận của Kim Filby. Khi từ London người ta yêu cầu cho phép chuyển ông vào bộ tham mưu tình báo Anh, tôi đồng ý với điều kiện là ông tự nguyện tiếp nhận quyết định về “trò chơi nước đôi” có tính đến sự mạo hiểm đặc biệt.
Chuyển Filby sang công tác tác chiến, tình báo Xô viết không chỉ đặt ông vào tình huống phức tạp. Một cách mới hoàn toàn nổi lên vấn đề về sự tin cậy ông như nguồn thông tin quan trọng nhất về các ý đồ của kẻ thù.
Trong tình báo có thể lệ kiểm tra lại một cách bắt buộc tất cả các nguồn được tuyển mộ trong bộ máy cơ quan đặc biệt của đối phương. Filby nói riêng, khi báo các cứ liệu có ở tình báo Anh về các cuộc trò chuyện của đại sứ Anh ở Moskva, Krips với thứ trưởng bộ Ngoại giao Vưsinxky về định hướng của sứ quán Anh cho Bộ Ngoại giao Anh ngày 15 và 28-3-1941 đã chưa truyền đạt đầy đủ nội dung các tài liệu này. Trong bức điện không đưa ra các cứ liệu về các bước ủng hộ lãnh đạo Xô viết của Anh và Mỹ như đã thỏa thuận. Trong khi đó thông tin mở rộng hơn về các vấn đề này đã đến từ Maklin cán bộ Bộ Ngoại giao Anh. Nhà phân tích của NKVD trung tá Mordjinxkaia, vào những năm 1960-1970 là một triết gia sáng giá, giáo sư Viện triết Viện hàn lâm khoa học, trong kết luận của mình đã ngờ Filby thiếu chân thật và tham gia vào chiến dịch tung tin giả của tình báo Anh. Filby sống và làm việc dưới bóng những ngờ vực này nhiều năm dài. Như tôi nghe kể ở Trung tâm, tại Moskva thậm chí vào những năm 60 ông phải trải qua thủ tục nhục nhã kiểm tra lòng trung thành.
Tại Pháp Vaxilevxky, người phải hồi phục lại mạng lưới, được phái tới làm lãnh đạo mới của tổ điệp viên. Ở Đức, Phần Lan, Ba Lan và Tiệp Khắc một nhóm sĩ quan đã nhận được sự đề cử. Họ mất chừng nửa năm để kiểm tra trạng thái và độ tin cậy của hệ thống điệp viên đã bị mất liên hệ vào thời gian cuối.
Những năm 1939-1940 chúng tôi lập lại các mối liên hệ và tích cực bắt tay vào công việc. Mạng lưới bí mật được lập bởi tình báo quân đội và NKVD nổi tiếng với tên gọi “Dàn đồng ca Đỏ” đã hoạt động gần như suốt thời gian thế chiến II. Các điệp viên “Dàn đồng ca Đỏ” đã chuyển qua điện đài các tin tức mã hóa về Trung tâm.
Xin có mấy lời về công việc đó. Tình báo quân đội có mạng lưới điệp viên ở Đức, Pháp, Bỉ và Thụy Sĩ và hoạt động độc lập với NKVD. Những năm 1938-1939, trước khi bắt đầu chiến tranh, các nhà binh khá nhìn xa trông rộng và đã gửi sang Pháp và Bỉ hai cán bộ Trepper và Gurevich cùng với các điện báo viên để làm việc trong thời gian có chiến sự. Các nhà quân sự cũng có tổ điệp viên ngầm ở Thụy Sĩ được lãnh đạo bởi cựu cán bộ ban Hungari của Quốc tế cộng sản Sandor Rado Urxula và Kutsinxca (mật danh Xonia), sau này, vào 1941 trở thành người liên lạc giữa chúng ta với nhà vật lý Đức Klaus Fuchs làm việc tại Anh.
Việc chuẩn bị cho hoạt động tác chiến tại Tây Âu và việc chuyển sang tình trạng bất hợp pháp đã có những sai lầm nghiêm trọng. Mạng điệp viên của Trepper, Gurevich và Rado liên quan quá mạnh với nguồn cấp tin của tộc người Do Thái, khiến nó dễ bị lộ từ phía cơ quan đặc biệt Đức. Lãnh đạo Tổng cục tình báo, cũng như INO-NKVD đã coi thường việc huấn luyện điện báo viên để hoạt động trong điều kiện chiến tranh. Trước ngưỡng cửa chiến tranh NKVD đã thành lập được một mạng lưới điệp viên hùng hậu ở Đức, lãnh đạo nó là Amaiak Kobulov, Korotkov và Juravlev. Bên tình báo quân đội cũng có những điệp viên quan trọng ở Đức Ilza Stebe trong phòng báo chí Bộ Ngoại giao và Rudolf Selia, một nhà ngoại giao cao cấp của Đức.
Cuối năm 1941 khi Đức tấn công Liên Xô, tình báo ta không có sự kiểm soát tập trung đối với tất cả các mạng lưới điệp viên chuyển cho chúng tôi các tin tức độc lập với nhau. Tổng cục tình báo Hồng quân được huấn luyện tốt hơn để chuyển từ những người đưa tin và bưu phẩm ngoại giao sang liên lạc điện đài bí mật: các điệp viên có thiết bị cần thiết. Còn chúng tôi mãi đến tháng 4-1941 mới gửi đến các tổ tình báo Tây Âu chỉ thị về huấn luyện cho công việc trong điều kiện chiến tranh tới gần. Người ta giao trách nhiệm cho Amaiak Kobulov và Korotkov đang ở châu Âu tăng tốc huấn luyện các điện báo viên và bảo đảm cho họ máy móc đáng tin cậy, cũng như lập những cơ sở phụ cho điện đài.
Sultse Boizen (Xtarsina), Harnak (Korxikanets) và Kuhhof (Ông già) được Kobulov và Korotkov huấn luyện tồi, đã vi phạm nguyên tắc giữ bí mật sơ đẳng: liên lạc hữu tuyến. Ngoài ra ba điệp viên này có chung một điện báo viên.
Tháng 10-1941, mất liên lạc với các điệp viên ở Berlin vì máy móc kém và sự làm việc kém chuyên môn của điện báo viên, Tổng cục tình báo quân đội và NKVD đã có một sai lầm không thể tha thứ. Nhóm trưởng ở Brussels, Gurevich (Kent) nhận qua điện đài một bức mật mã mà theo đó ông cần đi về Berlin cùng với điện báo viên. Ông chuyển anh này cho Korxikannets và Xtarsina. Khi trở về Brussels khẳng định thực hiện thành công nhiệm vụ và báo cho Moskva thông tin nhận được tại Berlin, về những khó khăn mà bọn Đức đang trải qua trong cung cấp và tăng dự trữ, đánh giá thực tế của bộ chỉ huy Đức về thất bại của chiến tranh chớp nhoáng, về vụ tấn công có thể của đối phương xuân hè 1942 với mục đích chiếm các cơ sở công nghiệp dầu khí của ta.
Những tin tức giá trị nhường ấy chuyển từ tháng 11-1941 và được khẳng định sau ba tháng, đã được báo cáo với chính phủ, nhưng tiếc thay, đã không đóng vai trò gì đáng kể, bởi ngày 13-12-1941 điện báo viên và người giữ khóa mã của “Kent” đã bị phản gián Đức tóm được và Gestapo không mấy khó khăn năm 1942 đã bắt giữ các lãnh đạo của “Dàn đồng ca Đỏ” ở Berlin và tại những thành phố Tây Âu khác.
Ngày 5-8-1942 chúng tôi ném hai điệp viên nhảy dù sang Đức Artur Hexxeler và Albert Bart. Nhưng bọn Đức đã giữ trong tầm theo dõi nhóm mà họ được phái đến nối liên lạc, và đã bắt giữ họ. Hexxeler hy sinh, còn bọn Đức đã chiêu mộ Bart, và hắn đã bắt đầu tiến hành trò chơi điện đài với chúng tôi mà, tiện thể, chúng tôi đã đoán ra ngay.
Bart đã khai ra điệp viên ta Villi Leman (Braitenbakh), người cộng tác với chúng ta từ năm 1935. Leman là nhân viên Gestapo và cung cấp cho chúng ta thông tin cực kỳ quan trọng. Những năm 1935-1941 ông chuyển cho chúng ta những tài liệu quan trọng nhất về kế hoạch của Gestapo cài điệp viên vào số người Nga lưu vong và trong hoạt động bí mật của ĐCS. Từ Leman chúng ta cũng biết những nguồn nào của phản gián Ba Lan bị Đức chiêu mộ và sử dụng sau khi phát giác ra phụ trách tình báo Ba Lan Xoxnovxky ở Berlin.
Leman bị bắt bí mật trên đường phố, bị Gestapo báo cho vợ ông rằng chồng bà biến mất và người ta đang tăng cường tìm kiếm ông. Sau chiến tranh chúng tôi chỉ tìm được phiếu đăng ký của ông trong lưu trữ của nhà tù Pletsenzeia những dấu vết khác về ông không còn. Trong những năm chiến tranh Leman là sĩ quan Gestapo duy nhất cộng tác với chúng ta.
Trong lưu trữ của Gestapo chúng tôi phát hiện được các tin về “Dàn đồng ca Đỏ”, dù tên Bart không có ở đó, thậm chí Leman cũng không được nhắc tới. Có thể, điều đó được gợi nên bởi sự không mong muốn ném bóng đen lên Gestapo mà trong hàng ngũ có điệp viên Xô viết. Tôi không loại trừ rằng Gestapo sợ Hitler biết.
Bart bị người Anh bắt làm tù binh và chuyển cho chúng ta năm 1946. Hắn được đưa về Moskva, bị xử bắn vì tội phản bội.

Mấy lời về công việc của nhóm Sorge (Ramzai) ở Tokyo. Người ta có thái độ không tin phần nào với những thông tin đến từ tuyến này từ giới gần gũi của thủ tướng Konoye, và những phát biểu của đại sứ Đức Otto ở Moskva. Và sự thể không chỉ ở chỗ là lôi kéo Sorge vào làm việc là Berzin và Borovich, các lãnh đạo Tổng cục tình báo quân đội những năm 20-30, về sau bị thanh trừng. Còn trước sự bắt giữ Borovich, phụ trách trực tiếp của Sorge, người sau này đã nhận được từ cấp lãnh đạo cao nhất chỉ thị cộng tác với tình báo quân đội Đức tại Nhật Bản. Nhận được sự cho phép, nhưng đồng thời rơi vào sự nghi ngờ, bởi các điệp viên chuyên nghiệp tầm cỡ này theo truyền thống không được tin cậy và định kỳ bị kiểm tra trong tất cả các cơ quan đặc biệt. Năm 1937 quyền Tổng cục trưởng tình báo Gendin trong báo cáo của mình với Stalin, nhấn mạnh trò chơi hai mặt của điệp viên giá trị Sorge, lấy được thông tin cho cả Otto, nhóm trưởng tình báo Abwehr của Đức tại Nhật Bản, đã kết luận rằng điệp viên được chỉ ra không thể được sử dụng như một nguồn thông tin tin cậy trọn vẹn.
Bi kịch của Sorge là ở chỗ công việc anh hùng của ông và những tin tức đến từ ông không được bộ chỉ huy chúng ta dùng. Những số liệu quan trọng đặc biệt về cuộc tấn công sắp tới của Nhật đối với Mỹ, về sự không liên kết của Nhật tới sự xâm lược của Đức chống Liên Xô vào tháng 9-10-1941 cứ thế nằm yên trong lưu trữ chúng ta. Còn các sư đoàn được ném từ Viễn Đông về gần Moskva tháng 10-1941 chỉ là vì Stalin không còn những đơn vị chiến đấu dự bị khác. Nếu trong khi đó lưu ý đến thông tin của Sorge, quyết định được tiếp nhận là không có vai trò đáng kể. Thông tin về việc người Nhật không có ý định chiến đấu chống chúng ta đều đặn đến từ 1941-1945 từ các điệp viên được kiểm tra đang giữ chức vụ cố vấn sứ quán Nhật tại Moskva và chỉ huy trưởng cơ quan mật vụ quân đội Quan Đông, người chuyển cho chúng ta các tài liệu về chuyển quân của các binh đoàn Nhật tại Mãn Châu Lý. Ngoài tất cả những điều đó, chúng ta đã giải mã được thư của sứ quán Nhật ở Moskva với Tokyo mà từ đó hiểu rằng Nhật không có kế hoạch xâm phạm Liên Xô vào tháng 10-1941.
Hành vi của Sorge tại cuộc điều tra sau khi bị chính quyền Nhật bắt, gây nên sự giận dữ nghiêm trọng ở Moskva. Ông đã vi phạm điều luật chính của tình báo Xô viết: không bao giờ thú nhận làm gián điệp cho Liên Xô dưới bất cứ hình thức nào. Dù việc trao đổi các điệp viên và tình báo viên bị bắt vào những năm 30 là rất hạn chế, dẫu vậy đôi khi người ta vẫn chịu làm. Thí dụ, người Ba Lan đã thả điệp viên Feditskin năm 1930. Người Mỹ - nhóm trưởng NKVD ở New York Ovakimian tháng 9-1941. Ban lãnh đạo Tổng cục tình báo do những lời thú nhận của Sorge đã không đặt trước bất kỳ ai về sự trao đổi có thể cho ông.
Đến tháng 8-1942 “Dàn đồng ca Đỏ” ở Berlin gồm các điệp viên của quân đội và NKVD, đã bị tiêu diệt. Nhưng ở Đức vẫn còn một loạt những nguồn thông tin quan trọng và các điệp viên ảnh hưởng. Một số điệp viên nhóm Hamburg được lập bởi Xerebrianxky và Etingon, không liên hệ với nhóm Harnak - Sultse- Boizen và cắm rễ trong các tổ hợp “Công nghiệp Farben” và “Tissen” tại cảng Hamburg, đã thoát khỏi và lui vào hoạt động bí mật. Thoát khỏi sự bắt bớ còn điệp viên “Iuna”, cô trụ ở cơ quan của Ribbentrop - Bộ Ngoại giao Đức; Olga Tsekhova và công tước Ba Lan Radzivill cũng không bị lộ. Thế nhưng thiếu những người liên lạc tin cậy với họ. Hai điệp viên - nhà doanh nghiệp người Thụy Điển Strinberg (Gustav) và diễn viên nổi tiếng Karl Gerkhard (Saxonie) may ra chỉ đáng vai làm người đưa tin. Các chuyến đi của Strinberg sang Đức ít hiệu quả, còn Gerkhard bị bọn Đức phát hiện vì ông ta không che giấu ý đồ chống phát xít. Mạng lưới điệp viên ở Pháp và Thụy Sĩ vẫn tiếp tục hoạt động.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét