Những Chiến Dịch Đặc Biệt
Tác giả: Pavel Xudoplatov
Người dịch: Nguyễn Văn Thảo
Thể loại: Hồi ký
Nhà xuất bản Công an nhân dân
Năm xuất bản: 2003 (Lưu hành nội bộ)
Chương 6: Tình Báo Trong Những Năm Chiến
Tranh Vệ Quốc Vĩ Đại
5. Sorge. “Dàn đồng ca Đỏ” trong hậu phương
Hitler
Thậm chí trong những giờ lo âu ấy, chúng
tôi vẫn tìm những điểm yếu của kẻ thù, để xoay trở tình hình có lợi cho ta.
Chúng tôi nhận được thông tin giá trị của hầu tước Nelidov, cựu sĩ quan quân đội
Sa hoàng và bạch vệ, điệp viên hai mang tầm cỡ của Abwehr và tình báo Anh. Theo
nhiệm vụ của Canaris, hầu tước Nelidov tham gia “trò chơi” chiến lược quân sự của
bộ tổng tham mưu Đức vào những năm 1936-1937. Trước ngưỡng cuộc xâm lăng của Đức
vào Ba Lan (ông ta ở Varsava với nhiệm vụ tình báo), phản gián Ba Lan đã bắt giữ
ông ta. Chiếm được Tây Ucraina năm 1939, chúng tôi phát hiện được ông trong nhà
tù Lvov và đưa về Moskva. Chiêu mộ Nelidov là Vaxli Zarubin, Zoia Rưbkina và
Pavel Juravlev, phụ trách tình báo NKVD hướng Đức. Vào những năm 1941-1942 được
lập kế hoạch sử dụng Nelidov để đối chọi với các điệp viên tình báo Anh trụ lại
ở Moskva. Lúc ấy các lời khai của Nelidov cho biết định hướng cơ bản của Abwehr
trong công tác tình báo phá hoại trong điều kiện chiến tranh chớp nhoáng,
Jurablev, Rưbkina và tôi đã không đánh giá đủ ý nghĩa. Thế nhưng hoàn cảnh thay
đổi đột ngột sau những thất bại của chúng ta vào những ngày tháng đầu tiên của
chiến tranh. Lúc này thì chúng tôi mới quay lại với những cuộc hỏi cung đầu
tiên của Nelidov. Đối chiếu những lời khai của ông với những tài liệu nhận được
năm 1937 từ Spigelglaz về các “trò chơi” quân sự - chiến lược trong bộ tham mưu
Đức quốc xã, và sự đặt cược của người Đức vào tính chớp nhoáng trở nên hiển hiện
đối với tất cả mọi người. Phản ứng của Stalin đối với thông báo của chúng tôi
là không chậm trễ. Phụ trách Tổng cục tình báo Hồng quân Golikov và phụ trách Cục
tác chiến Bộ Tổng tham mưu thiếu tướng Vaxilevxky đã đến NKVD để hỏi cung mở rộng
Nelidov và làm quen với tất cả các tài liệu tác chiến những năm 30. Họ có ấn tượng
mạnh về sự thông tỏ, các mối liên hệ, và sự đánh giá của ông về giới chỉ huy
cao cấp Đức.
Nelidov kể rằng bọn Đức có thể giáng thất bại
cho ta chỉ trong trường hợp chiến tranh kéo dài hai hoặc ba tháng. Nhưng nếu
trong vòng thời gian đó chúng không chiếm được Leningrad, Moskva, Kiev, vùng
Donbaxx, bắc Kavkaz và tất nhiên, Baku với khả năng dầu lửa của nó, cuộc xâm lược
hiển nhiên thất bại. Số lượng khổng lồ các xe tăng và các binh đoàn mô tô cần
thiết cho chiến tranh chớp nhoáng, chỉ có thể hoạt động có hiệu quả trên lãnh
thổ có mạng lưới giao thông phát triển khá tốt, còn để tiến hành cuộc chiến
tranh kéo dài thì người Đức thiếu nguồn nhiên liệu dự trữ, nhất là các hạm đội
Đức, và các tàu ngầm.
Tháng 10 và 11-1941 chúng tôi nhận được
thông tin tin cậy từ Berlin về việc quân đội Đức hầu như đã cạn kiệt nguồn dự
trữ súng đạn, dầu lửa để tiếp tục các chiến dịch tấn công tích cực. Tất cả đã
chỉ ra sự tạm ngừng tất yếu trong cuộc tấn công của Đức. Chuyển những cứ liệu
này là Arvid Harnak (mật danh Korxikanets), chiến sĩ chống phát xít, cố vấn bộ
trưởng kinh tế Đức. Thành viên một gia đình nổi tiếng của những nhà văn và triết
gia, ông được lôi cuốn cộng tác trong thời gian đi thăm Liên Xô năm 1932 và từ
bấy đến giờ suốt chục năm trời cung cấp thông tin cho tình báo Xô viết cho đến
khi ông bị phát giác. Tháng 12-1942 ông bị xử án và bị treo cổ. Vợ ông, người Mỹ
Mildred Fis Harnak mà ông làm quen trong thời gian học tại trường đại học Tổng
hợp bang Wisconsin, cũng bị bắt và bị xử tử năm 1945 vì hoạt động chống phát
xít.
Tháng 3-1939, khi tôi trở thành phó phụ
trách tình báo NKVD, một trong những nhiệm vụ chủ yếu của tôi là cấy điệp viên
ngầm vào Tây Âu và lập mạng lưới điệp viên có liên hệ với những người Đức có vỏ
bọc ngoại giao. Liên quan với nước Đức là trung tâm chú ý của toàn bộ công tác
của chúng tôi. Sau những vụ thanh trừng 1937-1938, trong tình báo những người mới
chuyên trách các vụ việc Đức, và các tiếp xúc của chúng tôi với điệp viên bị cắt
đứt tạm thời. Việc bỏ trốn của Alexandr Orlov năm 1938 ném ngờ vực lên các cán
bộ lãnh đạo Cục đối ngoại. Người ta bắt giam Spigelglaz, Maly, Belkin,
Xerebrianxky và những cán bộ khác kiểm soát các mạng lưới điệp viên tại Tây Âu,
gây khó khăn đáng kể cho thu nhận tin tức tình báo. Khi tôi đứng đầu lĩnh vực
này, tôi buộc phải phái ra nước ngoài những người mới mà thường là thiếu kinh
nghiệm. Kết quả là từ tháng 11-1938 đến tháng 3-1939 tin tức tình báo đến từ
Tây Âu giảm đi đột ngột. Quyết định được Stalin và Beria phê chuẩn về việc mở
trường tình báo để chuẩn bị cán bộ có nghĩa rằng không sớm hơn sau hai năm chúng
tôi mới nhận được những chuyên gia đầu tiên. Trong khi đó nhu cầu cán bộ ngày
càng khẩn thiết hơn. Chúng tôi vô cùng cần những người mới. Bối cảnh ngày càng
nóng hơn: Hitler chuẩn bị chiếm Ba Lan. Các triển vọng triển khai chiến tranh ở
châu Âu đã rõ nét thêm. Stalin đòi hỏi từ Beria những chi tiết về các đạo quân
chiến đấu Đức và những kế hoạch chiến lược của Berlin.
Bởi nhẽ những người trước đây chịu trách
nhiệm về mạng lưới điệp viên tại Tây Âu (Orlov ở Tây Ban Nha, Krivitsky ở Hà
Lan, Reix và Xteinberg ở Thụy Sĩ), hoặc trở thành kẻ vượt tuyến, hoặc bị thanh
trừng, cực kỳ khó thuyết phục Beria và Merkulov phiêu lưu và thúc đẩy những cơ
cấu mà họ lãnh đạo vào thời của mình. Rất may, không phải tất cả đều bị thanh
trừng. Một số ví dụ như Lang, Parparov, Fiser-Abel và Girsfeld, tạm thời bị xếp
vào quân dự bị trong khi bên trên đang quyết định số phận của họ. Tại Berlin và
Paris vẫn có những người của ta. Nhóm Cambrige phục hồi lại hoạt động của mình
bất chấp hiểm nguy rằng Orlov chạy sang phương Tây có thể làm lộ. Rốt cuộc đã
thuyết phục được Fitin, rằng dù sao chúng ta cũng nên liều mạng và phục hồi lại
các điệp viên cũ, dù điều đó có nguy hiểm đến đâu đi nữa. Tôi với ông báo cáo với
Beria và ông ta ủng hộ chúng tôi. Quyết định không đơn giản là phục hồi các mối
tiếp xúc bị ngắt quãng nửa năm, dù chúng tôi e sợ rằng qua thời gian ấy có thể
một số đã bị bắt và bị chiêu mộ lại. Nhưng đã cuối tháng 4-1940, và bóng ma chiến
tranh đã hiện rõ hơn ở phía chân trời.
Tôi nhớ rằng chính lúc ấy ở Trung tâm đã định
đoạt số phận của Kim Filby. Khi từ London người ta yêu cầu cho phép chuyển ông
vào bộ tham mưu tình báo Anh, tôi đồng ý với điều kiện là ông tự nguyện tiếp nhận
quyết định về “trò chơi nước đôi” có tính đến sự mạo hiểm đặc biệt.
Chuyển Filby sang công tác tác chiến, tình
báo Xô viết không chỉ đặt ông vào tình huống phức tạp. Một cách mới hoàn toàn nổi
lên vấn đề về sự tin cậy ông như nguồn thông tin quan trọng nhất về các ý đồ của
kẻ thù.
Trong tình báo có thể lệ kiểm tra lại một
cách bắt buộc tất cả các nguồn được tuyển mộ trong bộ máy cơ quan đặc biệt của
đối phương. Filby nói riêng, khi báo các cứ liệu có ở tình báo Anh về các cuộc
trò chuyện của đại sứ Anh ở Moskva, Krips với thứ trưởng bộ Ngoại giao Vưsinxky
về định hướng của sứ quán Anh cho Bộ Ngoại giao Anh ngày 15 và 28-3-1941 đã
chưa truyền đạt đầy đủ nội dung các tài liệu này. Trong bức điện không đưa ra
các cứ liệu về các bước ủng hộ lãnh đạo Xô viết của Anh và Mỹ như đã thỏa thuận.
Trong khi đó thông tin mở rộng hơn về các vấn đề này đã đến từ Maklin cán bộ Bộ
Ngoại giao Anh. Nhà phân tích của NKVD trung tá Mordjinxkaia, vào những năm
1960-1970 là một triết gia sáng giá, giáo sư Viện triết Viện hàn lâm khoa học,
trong kết luận của mình đã ngờ Filby thiếu chân thật và tham gia vào chiến dịch
tung tin giả của tình báo Anh. Filby sống và làm việc dưới bóng những ngờ vực
này nhiều năm dài. Như tôi nghe kể ở Trung tâm, tại Moskva thậm chí vào những
năm 60 ông phải trải qua thủ tục nhục nhã kiểm tra lòng trung thành.
Tại Pháp Vaxilevxky, người phải hồi phục lại
mạng lưới, được phái tới làm lãnh đạo mới của tổ điệp viên. Ở Đức, Phần Lan, Ba
Lan và Tiệp Khắc một nhóm sĩ quan đã nhận được sự đề cử. Họ mất chừng nửa năm để
kiểm tra trạng thái và độ tin cậy của hệ thống điệp viên đã bị mất liên hệ vào
thời gian cuối.
Những năm 1939-1940 chúng tôi lập lại các mối
liên hệ và tích cực bắt tay vào công việc. Mạng lưới bí mật được lập bởi tình
báo quân đội và NKVD nổi tiếng với tên gọi “Dàn đồng ca Đỏ” đã hoạt động gần
như suốt thời gian thế chiến II. Các điệp viên “Dàn đồng ca Đỏ” đã chuyển qua
điện đài các tin tức mã hóa về Trung tâm.
Xin có mấy lời về công việc đó. Tình báo
quân đội có mạng lưới điệp viên ở Đức, Pháp, Bỉ và Thụy Sĩ và hoạt động độc lập
với NKVD. Những năm 1938-1939, trước khi bắt đầu chiến tranh, các nhà binh khá
nhìn xa trông rộng và đã gửi sang Pháp và Bỉ hai cán bộ Trepper và Gurevich
cùng với các điện báo viên để làm việc trong thời gian có chiến sự. Các nhà
quân sự cũng có tổ điệp viên ngầm ở Thụy Sĩ được lãnh đạo bởi cựu cán bộ ban
Hungari của Quốc tế cộng sản Sandor Rado Urxula và Kutsinxca (mật danh Xonia),
sau này, vào 1941 trở thành người liên lạc giữa chúng ta với nhà vật lý Đức
Klaus Fuchs làm việc tại Anh.
Việc chuẩn bị cho hoạt động tác chiến tại
Tây Âu và việc chuyển sang tình trạng bất hợp pháp đã có những sai lầm nghiêm
trọng. Mạng điệp viên của Trepper, Gurevich và Rado liên quan quá mạnh với nguồn
cấp tin của tộc người Do Thái, khiến nó dễ bị lộ từ phía cơ quan đặc biệt Đức.
Lãnh đạo Tổng cục tình báo, cũng như INO-NKVD đã coi thường việc huấn luyện điện
báo viên để hoạt động trong điều kiện chiến tranh. Trước ngưỡng cửa chiến tranh
NKVD đã thành lập được một mạng lưới điệp viên hùng hậu ở Đức, lãnh đạo nó là
Amaiak Kobulov, Korotkov và Juravlev. Bên tình báo quân đội cũng có những điệp
viên quan trọng ở Đức Ilza Stebe trong phòng báo chí Bộ Ngoại giao và Rudolf
Selia, một nhà ngoại giao cao cấp của Đức.
Cuối năm 1941 khi Đức tấn công Liên Xô,
tình báo ta không có sự kiểm soát tập trung đối với tất cả các mạng lưới điệp
viên chuyển cho chúng tôi các tin tức độc lập với nhau. Tổng cục tình báo Hồng
quân được huấn luyện tốt hơn để chuyển từ những người đưa tin và bưu phẩm ngoại
giao sang liên lạc điện đài bí mật: các điệp viên có thiết bị cần thiết. Còn
chúng tôi mãi đến tháng 4-1941 mới gửi đến các tổ tình báo Tây Âu chỉ thị về huấn
luyện cho công việc trong điều kiện chiến tranh tới gần. Người ta giao trách
nhiệm cho Amaiak Kobulov và Korotkov đang ở châu Âu tăng tốc huấn luyện các điện
báo viên và bảo đảm cho họ máy móc đáng tin cậy, cũng như lập những cơ sở phụ
cho điện đài.
Sultse Boizen (Xtarsina), Harnak
(Korxikanets) và Kuhhof (Ông già) được Kobulov và Korotkov huấn luyện tồi, đã
vi phạm nguyên tắc giữ bí mật sơ đẳng: liên lạc hữu tuyến. Ngoài ra ba điệp
viên này có chung một điện báo viên.
Tháng 10-1941, mất liên lạc với các điệp
viên ở Berlin vì máy móc kém và sự làm việc kém chuyên môn của điện báo viên, Tổng
cục tình báo quân đội và NKVD đã có một sai lầm không thể tha thứ. Nhóm trưởng ở
Brussels, Gurevich (Kent) nhận qua điện đài một bức mật mã mà theo đó ông cần
đi về Berlin cùng với điện báo viên. Ông chuyển anh này cho Korxikannets và
Xtarsina. Khi trở về Brussels khẳng định thực hiện thành công nhiệm vụ và báo
cho Moskva thông tin nhận được tại Berlin, về những khó khăn mà bọn Đức đang trải
qua trong cung cấp và tăng dự trữ, đánh giá thực tế của bộ chỉ huy Đức về thất
bại của chiến tranh chớp nhoáng, về vụ tấn công có thể của đối phương xuân hè
1942 với mục đích chiếm các cơ sở công nghiệp dầu khí của ta.
Những tin tức giá trị nhường ấy chuyển từ
tháng 11-1941 và được khẳng định sau ba tháng, đã được báo cáo với chính phủ,
nhưng tiếc thay, đã không đóng vai trò gì đáng kể, bởi ngày 13-12-1941 điện báo
viên và người giữ khóa mã của “Kent” đã bị phản gián Đức tóm được và Gestapo không
mấy khó khăn năm 1942 đã bắt giữ các lãnh đạo của “Dàn đồng ca Đỏ” ở Berlin và
tại những thành phố Tây Âu khác.
Ngày 5-8-1942 chúng tôi ném hai điệp viên
nhảy dù sang Đức Artur Hexxeler và Albert Bart. Nhưng bọn Đức đã giữ trong tầm
theo dõi nhóm mà họ được phái đến nối liên lạc, và đã bắt giữ họ. Hexxeler hy
sinh, còn bọn Đức đã chiêu mộ Bart, và hắn đã bắt đầu tiến hành trò chơi điện
đài với chúng tôi mà, tiện thể, chúng tôi đã đoán ra ngay.
Bart đã khai ra điệp viên ta Villi Leman
(Braitenbakh), người cộng tác với chúng ta từ năm 1935. Leman là nhân viên
Gestapo và cung cấp cho chúng ta thông tin cực kỳ quan trọng. Những năm
1935-1941 ông chuyển cho chúng ta những tài liệu quan trọng nhất về kế hoạch của
Gestapo cài điệp viên vào số người Nga lưu vong và trong hoạt động bí mật của
ĐCS. Từ Leman chúng ta cũng biết những nguồn nào của phản gián Ba Lan bị Đức
chiêu mộ và sử dụng sau khi phát giác ra phụ trách tình báo Ba Lan Xoxnovxky ở
Berlin.
Leman bị bắt bí mật trên đường phố, bị
Gestapo báo cho vợ ông rằng chồng bà biến mất và người ta đang tăng cường tìm
kiếm ông. Sau chiến tranh chúng tôi chỉ tìm được phiếu đăng ký của ông trong
lưu trữ của nhà tù Pletsenzeia những dấu vết khác về ông không còn. Trong những
năm chiến tranh Leman là sĩ quan Gestapo duy nhất cộng tác với chúng ta.
Trong lưu trữ của Gestapo chúng tôi phát hiện
được các tin về “Dàn đồng ca Đỏ”, dù tên Bart không có ở đó, thậm chí Leman
cũng không được nhắc tới. Có thể, điều đó được gợi nên bởi sự không mong muốn
ném bóng đen lên Gestapo mà trong hàng ngũ có điệp viên Xô viết. Tôi không loại
trừ rằng Gestapo sợ Hitler biết.
Bart bị người Anh bắt làm tù binh và chuyển
cho chúng ta năm 1946. Hắn được đưa về Moskva, bị xử bắn vì tội phản bội.
Mấy lời về công việc của nhóm Sorge
(Ramzai) ở Tokyo. Người ta có thái độ không tin phần nào với những thông tin đến
từ tuyến này từ giới gần gũi của thủ tướng Konoye, và những phát biểu của đại sứ
Đức Otto ở Moskva. Và sự thể không chỉ ở chỗ là lôi kéo Sorge vào làm việc là
Berzin và Borovich, các lãnh đạo Tổng cục tình báo quân đội những năm 20-30, về
sau bị thanh trừng. Còn trước sự bắt giữ Borovich, phụ trách trực tiếp của
Sorge, người sau này đã nhận được từ cấp lãnh đạo cao nhất chỉ thị cộng tác với
tình báo quân đội Đức tại Nhật Bản. Nhận được sự cho phép, nhưng đồng thời rơi
vào sự nghi ngờ, bởi các điệp viên chuyên nghiệp tầm cỡ này theo truyền thống
không được tin cậy và định kỳ bị kiểm tra trong tất cả các cơ quan đặc biệt.
Năm 1937 quyền Tổng cục trưởng tình báo Gendin trong báo cáo của mình với
Stalin, nhấn mạnh trò chơi hai mặt của điệp viên giá trị Sorge, lấy được thông
tin cho cả Otto, nhóm trưởng tình báo Abwehr của Đức tại Nhật Bản, đã kết luận
rằng điệp viên được chỉ ra không thể được sử dụng như một nguồn thông tin tin cậy
trọn vẹn.
Bi kịch của Sorge là ở chỗ công việc anh
hùng của ông và những tin tức đến từ ông không được bộ chỉ huy chúng ta dùng.
Những số liệu quan trọng đặc biệt về cuộc tấn công sắp tới của Nhật đối với Mỹ,
về sự không liên kết của Nhật tới sự xâm lược của Đức chống Liên Xô vào tháng
9-10-1941 cứ thế nằm yên trong lưu trữ chúng ta. Còn các sư đoàn được ném từ Viễn
Đông về gần Moskva tháng 10-1941 chỉ là vì Stalin không còn những đơn vị chiến
đấu dự bị khác. Nếu trong khi đó lưu ý đến thông tin của Sorge, quyết định được
tiếp nhận là không có vai trò đáng kể. Thông tin về việc người Nhật không có ý
định chiến đấu chống chúng ta đều đặn đến từ 1941-1945 từ các điệp viên được kiểm
tra đang giữ chức vụ cố vấn sứ quán Nhật tại Moskva và chỉ huy trưởng cơ quan mật
vụ quân đội Quan Đông, người chuyển cho chúng ta các tài liệu về chuyển quân của
các binh đoàn Nhật tại Mãn Châu Lý. Ngoài tất cả những điều đó, chúng ta đã giải
mã được thư của sứ quán Nhật ở Moskva với Tokyo mà từ đó hiểu rằng Nhật không
có kế hoạch xâm phạm Liên Xô vào tháng 10-1941.
Hành vi của Sorge tại cuộc điều tra sau khi
bị chính quyền Nhật bắt, gây nên sự giận dữ nghiêm trọng ở Moskva. Ông đã vi phạm
điều luật chính của tình báo Xô viết: không bao giờ thú nhận làm gián điệp
cho Liên Xô dưới bất cứ hình thức nào. Dù việc trao đổi các điệp viên và
tình báo viên bị bắt vào những năm 30 là rất hạn chế, dẫu vậy đôi khi người ta
vẫn chịu làm. Thí dụ, người Ba Lan đã thả điệp viên Feditskin năm 1930. Người Mỹ
- nhóm trưởng NKVD ở New York Ovakimian tháng 9-1941. Ban lãnh đạo Tổng cục
tình báo do những lời thú nhận của Sorge đã không đặt trước bất kỳ ai về sự
trao đổi có thể cho ông.
Đến tháng 8-1942 “Dàn đồng ca Đỏ” ở Berlin
gồm các điệp viên của quân đội và NKVD, đã bị tiêu diệt. Nhưng ở Đức vẫn còn một
loạt những nguồn thông tin quan trọng và các điệp viên ảnh hưởng. Một số điệp
viên nhóm Hamburg được lập bởi Xerebrianxky và Etingon, không liên hệ với nhóm
Harnak - Sultse- Boizen và cắm rễ trong các tổ hợp “Công nghiệp Farben” và
“Tissen” tại cảng Hamburg, đã thoát khỏi và lui vào hoạt động bí mật. Thoát khỏi
sự bắt bớ còn điệp viên “Iuna”, cô trụ ở cơ quan của Ribbentrop - Bộ Ngoại giao
Đức; Olga Tsekhova và công tước Ba Lan Radzivill cũng không bị lộ. Thế nhưng
thiếu những người liên lạc tin cậy với họ. Hai điệp viên - nhà doanh nghiệp người
Thụy Điển Strinberg (Gustav) và diễn viên nổi tiếng Karl Gerkhard (Saxonie) may
ra chỉ đáng vai làm người đưa tin. Các chuyến đi của Strinberg sang Đức ít hiệu
quả, còn Gerkhard bị bọn Đức phát hiện vì ông ta không che giấu ý đồ chống phát
xít. Mạng lưới điệp viên ở Pháp và Thụy Sĩ vẫn tiếp tục hoạt động.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét