Những Chiến Dịch Đặc Biệt
Tác giả: Pavel Xudoplatov
Người dịch: Nguyễn Văn Thảo
Thể loại: Hồi ký
Nhà xuất bản Công an nhân dân
Năm xuất bản: 2003 (Lưu hành nội bộ)
Chương 7: Tình Báo Soviet Và Vấn Đề Nguyên
Tử
Năm 1943 nhà vật lý nổi tiếng toàn thế giới
Nils Bor chạy trốn khỏi Đan Mạch bị Đức chiếm đóng sang Thụy Điển và đề nghị
các nhà bác học nổi tiếng có mặt ở đây, Elizavets Meitner và Alfven, thông tin
cho các đại diện và bác học Xô viết, với Kapitsa, rằng nhà vật lý Đức
Geizenberg đến thăm ông và báo tin: ở Đức đang bàn vấn đề chế tạo bom nguyên tử.
Geizenberg đề nghị cộng đồng khoa học quốc tế từ chối việc chế tạo thứ vũ khí
này, bất chấp sự ép buộc của các chính phủ. Tôi không nhớ, Meitner hay Alfven
đã gặp gỡ tại Geterborg phóng viên TASS và cán bộ tình báo ta Koxưi và báo với
họ rằng Bor lo lắng bởi việc chế tạo bom nguyên tử có khả năng ở nước Đức
Hitler. Thông tin tương tự từ Bor ngay khi ông chưa chạy khỏi Đan Mạch, tình
báo Anh đã nhận được. Các bác học phương Tây đánh giá cao tiềm năng khoa học của
các nhà vật lý Liên Xô, họ biết rất rõ các nhà bác học như Ioffe, Kapitsa và họ
chân thành cho rằng khi cấp thông tin về các bí mật nguyên tử cho Liên Xô, và
thống nhất sự nỗ lực, có thể vượt người Đức trong việc chế tạo bom nguyên tử.
1. Tin đồn về các nghiên cứu khoa học “siêu
vũ khí” được khẳng định
Ngay từ năm 1940 các bác học Xô viết khi biết
về những lời đồn lan truyền ở Tây Âu về việc sản xuất một thứ vũ khí siêu mạnh,
đã có những bước đầu tiên để sáng tỏ khả năng chế tạo bom nguyên tử. Thế nhưng
họ cho rằng chỉ chế tạo được thứ vũ khí này về mặt lý thuyết chứ chắc gì thực
hiện nổi trong tương lai gần. Viện Hàn lâm khoa học về nghiên cứu các vấn đề
năng lượng nguyên tử dưới sự chủ tọa của viện sĩ Khlopin, chuyên gia về hoá
sóng hạt, mặc dù vậy vẫn đề nghị chính phủ và các cơ sở khoa học theo dõi các ấn
phẩm khoa học của các chuyên gia phương Tây về vấn đề này. Dù chính phủ không
trích phương tiện cho các nghiên cứu nguyên tử, trưởng phòng khoa học kỹ thuật
của tình báo NKVD Kvaxnikov đã định hướng các mạng điệp viên vùng Scandinavia,
Đức, Anh và Mỹ, giao trách nhiệm thu thập toàn bộ thông tin về soạn thảo “siêu
vũ khí” - bom uran.
Sáng kiến này của Kvaxnikov gắn với những sự
kiện kịch tính khác khi từ lâu ở Đức, Anh, Mỹ các nhà vật lý đã bắt tay vào
nghiên cứu khả năng chế tạo vũ khí hạt nhân, trước cả khi chính phủ Mỹ tổ chức
trung tâm đặc biệt về chế tạo bom nguyên tử ở Los Alamos.
Mùa thu 1939 các bác học hàng đầu của Đức
dưới sự lãnh đạo của Suman đã liên kết vào “Hội uran” thuộc Cục vũ trang quân đội
nơi, cùng tham gia là Verner Geizenberg, Karl-Fridrik von Vaitszeker, Paul
Gratek, Otto Hann, Wilhem Grot và những người khác. Viện vật lý Berlin của Hội
thủ tướng Wilhem trở thành trung tâm nghiên cứu nguyên tử, còn giáo sư
Geizenberg được cử làm giám đốc. Được lôi kéo vào nghiên cứu khoa học là các viện
Hóa Lý của các trường đại học Tổng hợp Hamburg, Laixich, Greifsvald, Geidelberg
và Rostoksk.
Trong vòng 2 năm nhóm Geizenberg đã tiến
hành các nghiên cứu lý thuyết khởi điểm và các thử nghiệm cần thiết để xây dựng
lò phản ứng hạt nhân với việc sử dụng uran và nước nặng. Xác định được chất gây
nổ là hạt của uran 238 - uran 235 thường có trong quặng uran.
Những nghiên cứu đã định đòi hỏi một lượng
uran khá nhiều và nước nặng hoặc than chì sạch (grafit). Người Đức đã lấy quặng
ở mỏ Iakhimov, Tiệp Khắc. Sau khi chiếm Bỉ mùa xuân 1940, bọn Đức đã chiếm được
tại nhà máy “Union miner” gần 1200 tấn uran tinh chất, gần một nửa dự trữ uran
thế giới (nửa khác trong năm đó được bí mật chuyển từ Congo sang Mỹ). Chiếm
Nauy, trong tay người Đức có nhà máy của hãng “Norsk-gidro” ở Rukan lúc ấy là
nhà máy duy nhất sản xuất và cung cấp nước nặng (trước đó 185 kg nước nặng theo
đơn đặt của Jolio-Quyri được chuyển đến Paris, và chính nó đã lọt sang Mỹ).
Tháng 12-1940 dưới sự lãnh đạo của
Geizenberg người Đức đã xây lò phản ứng thử nghiệm đầu tiên, còn hãng
Auergezelsaft nắm được cách sản xuất uran kim loại. Đồng thời các phòng thí
nghiệm bí mật của Simens đã bắt đầu tìm cách xử lý sạch than chì để dùng nó với
tính cách chất hãm các nơtron trong lò phản ứng khi thiếu nước nặng, cũng như
triển khai kế hoạch đảm bảo điện năng cho phương án.
Đáng kể là gần như cùng lúc đó bằng quyết định
của Hội nghị đặc biệt NKVD vào tháng 4-1940 đã trục xuất khỏi Liên Xô nhà vật
lý Đức nổi tiếng F. Houtermans. Ông ta làm việc lâu tại trường đại học vật lý -
kỹ thuật ở Kharkov với nhà vật lý danh tiếng Landao, nghiên cứu các vấn đề vật
lý hạt nhân. Tháng 12-1937 Houtermans bị bắt “như một kẻ nước ngoài di tản giả vờ là người chống phát xít”.
Houtermans đồng ý cộng tác với cơ quan NKVD sau khi trở về Đức. Nhưng ông ta bị
Gestapo bắt như một người có cảm tình với cộng sản. Các nhà khoa học Đức đã xin
thả ông và đưa vào công việc khoa học ở Đức.
Bước ngoặt trong số phận của Houtermans dẫn
tới sự tích cực hóa các nghiên cứu về khả năng chế tạo vũ khí nguyên tử ở Mỹ và
Anh năm 1941. Houtermans ủy nhiệm cho người thân tín, nhà vật lý Đức F. Raikhe,
người trốn khỏi Đức năm 1941, thông báo cho các nhà vật lý về sự bắt đầu các
công việc ở nước Đức phát xít về chế tạo vũ khí nguyên tử.
Nhóm trưởng tình báo ta ở New York
Ovakimian thông tin cho chúng tôi vào tháng 4-1941 về cuộc gặp gỡ của người chạy
khỏi nước Đức với các nhà vật lý danh tiếng nhất của thế giới phương Tây đang
có mặt tại Mỹ mà trong tiến trình đó đã bàn bạc về tiềm năng khổng lồ của uran.
Thành công lớn trong hướng hoạt động tình
báo hàng đầu này đã đạt được sau khi chúng ta cử sang Washington với tư cách
trưởng nhóm Zarubin (“Kuper”, “Makxim”) dưới vỏ bí thư sứ quán cùng với vợ là
Liza, cựu binh tình báo.
Stalin tiếp Zarubin ngày 12-10-1941 trước
lúc ông sang Washington. Lúc đó quân Đức ở gần Moskva. Stalin nói với Zarubin rằng
nhiệm vụ chính của ông trong năm tới là tác động chính trị của chúng ta đến Mỹ
thông qua mạng lưới điệp viên ảnh hưởng.
Trước đấy thông tin chính trị ở Mỹ là tối
thiểu, vì chúng ta không có những đụng độ các quyền lợi với Mỹ. Nhưng trước chiến
tranh Kremli lo lắng bởi các tin tức đến từ Mỹ, rằng trong trường hợp Liên Xô
thất bại trong chiến tranh với Đức, chính phủ Mỹ sẽ xem xét khả năng công nhận
chính phủ Kerenxky là chính phủ hợp pháp ở Nga, và lãnh đạo Xô viết nhận thức
được tầm quan trọng và tính cấp thiết của thông tin về các ý đồ của chính phủ Mỹ,
bởi sự tham gia của Mỹ trong cuộc chiến tranh với Hitler có một ý nghĩa lớn.
Các tin tức về chương trình nghiên cứu vũ
khí nguyên tử đến từ Anh, Mỹ, Scandinavia và Đức đã thay đổi hướng các nỗ lực của
tình báo chúng ta.
Ngày 16-9-1941 văn phòng quân sự Anh xem
xét một báo cáo chuyên môn về việc chế tạo bom uran trong vòng 2 năm. Phương án
về bom uran có tên “Hợp kim ống” được đầu tư rất nhiều tiền. Điệp viên Maklin ở
Bộ Ngoại giao Anh chuyển cho chúng ta báo cáo 60 trang của văn phòng quân sự
Anh với sự thảo luận đề án này.
Nguồn khác của chúng ta - điệp viên từ tổ hợp
công nghiệp Imperial chemical industry
báo rằng tổ hợp đang xem xét vấn đề bom nguyên tử chỉ ở mặt lý thuyết. Đồng thời
chúng tôi cũng rõ Ủy ban tướng lĩnh Bộ tham mưu Anh cũng phê chuẩn quyết định
xây dựng nhà máy bom nguyên tử. Nhóm trưởng ta ở London Gorxky cấp tốc đề nghị
Trung tâm tiến hành thẩm định các tài liệu được chuyển về.
Hoạt động tình báo ở Mỹ định hướng tới sự đối
kháng của Đức và Nhật Bản. Nhóm trưởng ở San Francisco Kheifets cố tuyển dụng hệ
thống điệp viên ở Mỹ rồi sau sử dụng ở Đức, nhưng kết quả không đáng kể. Trong
nhiệm vụ của Kheifets và Zarubin là vô hiệu hoá hoạt động chống Liên Xô của bạch
vệ lưu vong ở Mỹ như cựu thủ tướng chính phủ lâm thời Kerenxky, thủ lĩnh đảng
Eser [Xã hội-Cách
mạng] Trernov bị Lenin trục xuất khỏi Nga năm 1922.
Nhưng mọi điều đó trở thành thứ yếu, khi
Kheifets và cán bộ tác chiến Xemenov báo về, rằng chính quyền Mỹ dự định kéo
các nhà bác học vĩ đại, trong đó kể cả những người được giải Nobel, để soạn thảo
một vấn đề đặc biệt bí mật và chính phủ dành 20% tổng chi phí nghiên cứu kỹ thuật
- quân sự cho mục đích này.
Đến tháng 2-1942 tôi giữ chức Phó cục trưởng
Cục tình báo đối ngoại và nhớ thông báo này.
Nó chứa nội dung vô cùng quan trọng làm
thay đổi quan niệm bảo thủ của chúng ta đối với vấn đề nguyên tử.
Cuộc gặp gỡ đầu tiên của Kheifets và Oppenheimer
diễn ra vào tháng 12-1941 ở San Francisco tại hội nghị quyên góp giúp đỡ những
người tị nạn và cựu binh cuộc nội chiến Tây Ban Nha. Kheifets tham dự cuộc họp
này với tư cách phó lãnh sự quán Liên Xô. Ông nói tốt tiếng Anh, Đức và Pháp và
là một nhân cách xuất chúng. Từ những năm 30, vốn là phó nhóm trưởng tại
Italia, ông đã nhận ra và bắt đầu việc tuyển dụng bước đầu Fermi và học trò của
ông ta là Pontekorvo là những người có các quan điểm chống phát xít và có thể
trở thành nguồn của thông tin khoa học - kỹ thuật.
Tôi gặp Kheifets vào những năm 30 và lập tức
sức quyến rũ và tính chuyên nghiệp của một nhà tình báo đã chinh phục tôi. Một
thời gian Kheifets làm thư ký của Krupxkaia.
Kheifets quay vòng trong các giới khác nhau
ở San Francisco, được sự kính trọng của những người cộng sản và phái tả (họ gọi
ông là “ngài Braun”). Kheifets kể với tôi là đã hai lần gặp Oppenheimer và vợ
ông ta. Đến thời gian ấy Kheifets đã nghe thấy tin đồn về công việc chế tạo một
loại siêu vũ khí, nhưng Moskva vẫn đang ngờ vực ở tầm quan trọng và không thể
trì hoãn của vấn đề nguyên tử.
Chính lúc ấy Kheifets đã báo rằng Oppenheimer
có nhắc đến bức thư mật của Albert Einstein gửi tống thống Roosevelt năm 1939
trong đó lưu ý ông ta tới sự cấp thiết nghiên cứu để chế tạo loại vũ khí mới chống
chủ nghĩa phát xít.
Nhà chuyên nghiệp giàu kinh nghiệm Kheifets
biết rất tốt cách làm thân với Oppenheimer. Không phải là trả tiền, đe dọa hoặc
tống tiền bằng cách bôi nhọ thanh danh. Nhờ vẻ quyến rũ riêng ông thiết lập
quan hệ tin cậy với Oppenheimer thông qua em trai của ông ta là Frank khi nói
chuyện nhân sự tấn công Trân Châu cảng của Nhật Bản và hiểm họa chủ nghĩa phát
xít đang treo trên đầu thế giới.
Trong nghĩa chính xác Oppenheimer, Fermi và
Stsilard chưa bao giờ là điệp viên của ta. Cả Kvaxnikov lãnh đạo tình báo khoa
học - kỹ thuật Liên Xô những năm 1947-1960 cũng khẳng định điều đó: “Các bác học làm việc với tình báo ta, không
thể gọi là điệp viên”.
Thông tin của Kheifets có tính chất cực kỳ
quan trọng. Trung tâm giao cho Xemenov (mật danh Tven) kiểm tra tin tức nhận được
từ Kheifets. Xemenov phải làm rõ các nhà bác học - chuyên gia chủ chốt được lôi
kéo làm việc với đề án siêu bí mật, và xác định vai trò cụ thể của từng người.
Xemenov vào cơ quan an ninh năm 1937. Anh
là một trong số ít người có học vấn đại học kỹ thuật, và anh được phái đi học ở
Mỹ, tại trường đại học công nghệ Massachusetts, để trong tương lai sử dụng theo
hướng tình báo khoa học - kỹ thuật. Chính Xemenov và trợ lý của anh đã thiết lập
được các tiếp xúc vững chắc với những nhà vật lý gần gũi với Oppenheimer ở Los
Alamos những năm 20-30 đã làm việc tại Liên Xô và có liên hệ với kiều dân Nga
chống phát xít ở Mỹ. Kênh thông tin chính về bom nguyên tử đã bắt đầu hoạt động
đều đặn như thế. Đó là Xemenov lôi cuốn vợ chồng Koen cộng tác, thực hiện vai
trò người đưa tin; năm 1945 Lona Koen chuyển cho chúng ta những tài liệu khoa học
quan trọng bậc nhất về cấu trúc bom nguyên tử.
Xemenov xác định ai trong số các nhà bác học
nổi tiếng tham gia vào cái gọi là đề án Manhattan về chế tạo bom nguyên tử, và
mùa xuân 1942, độc lập với Kheifets, báo rằng không chỉ các bác học, mà chính
phủ Mỹ quan tâm nghiêm túc đến vấn đề này. Xemenov cũng báo rằng tham gia đề án
có chuyên gia nổi tiếng về chất nổ Kixtiakovxky, người Ucraina.
Chúng tôi cho ngay chỉ thị sử dụng mạng điệp
viên để tiếp xúc với Kixtiakovxky, nhưng các điệp viên quan trọng của ta ở Mỹ -
Iakhontov tướng quân đội Sa hoàng, di tản sang Mỹ sau nội chiến, lấy chị gái của
vợ bộ trưởng an ninh quốc gia Liên Xô Merkulov; và Xergei Kurnakov, cựu binh của
các chiến dịch GPU về di tản ở Mỹ, đã không thể lôi kéo được Kixtiakovxky.
Một thời gian Xemenov có liên hệ với vợ chồng Julius và Ethel Rozenberg được Ovakimian lôi kéo hợp tác với tình báo ta từ những
năm 30. Thông tin khoa học - kỹ thuật của Rozenberg không có ý nghĩa - họ và những
người họ hàng là bảo hiểm từ xa với các chiến dịch chủ yếu. Sau đó vụ bắt giữ
và xét xử đối với họ đã gây sự chú ý của toàn thế giới.
Có lẽ Xemenov có vai trò chủ chốt trong sự
thành lập kênh thông tin tình báo về bom nguyên tử mà qua đó những năm
1941-1945 chúng ta nhận được, như Terletsky viết trong hồi ký, các tổng kết bí
mật, cũng như tài liệu Anh với sự mô tả các cuộc thử nghiệm chính về xác định
thông số các phản ứng hạt nhân, lò phản ứng, các loại lò uran, các ghi chép việc
thử bom uran và v.v...
Tháng 3-1942 Maklin trao cho chúng ta các
tài liệu về sự tăng cường đối với vấn đề nguyên tử ở Anh. Cùng năm này tình báo
quân đội lôi kéo được Fuchs cộng tác.
Có sự cảnh báo của Flerov về các công việc
liên quan đến bom nguyên tử, các tín hiệu cho thấy mối quan tâm của người Đức đối
với vấn đề nguyên tử từ nhóm bí mật của NKVD ở Kharkov bị chiếm đóng.
Nhiều sự kiện quan trọng diễn ra ở nước ta.
Ngày 5-1-1942 Stalin nhận được thư của nhà vật lý trẻ, chuyên gia về các phản ứng
hạt nhân, viện sĩ tương lai Flerov, người đã chú ý đến sự vắng mặt đáng ngờ
trên báo chí nước ngoài từ năm 1940 các công bố khoa học mở về vấn đề uran, mà
theo anh, điều đó chứng tỏ sự bắt đầu công việc chế tạo vũ khí nguyên tử ở Đức
và các nước khác. Flerov cảnh báo rằng người Đức có thể là những người đầu tiên
chế tạo được bom nguyên tử.
Bức thư đến trùng với thông tin của điệp
viên từ Kharkov. Chúng tôi được báo Houtermans từng cư trú chính trị ở Liên Xô,
vào thời Kharkov bị chiếm đóng thực tế đã trở thành một trong những lãnh đạo
trường đại học vật lý kỹ thuật Ucraina. Trong các báo cáo của điệp viên,
Houtermans đến Kharkov trong “quân phục SS”.
Được phép của lãnh đạo tôi báo ngay với
Kapitsa về sự xuất hiện của Houtermans ở Kharkov và Kiev trong phái đoàn quân sự
Đức để tổ chức lại thiết bị khoa học. Kapitsa cho thông báo đó có một ý nghĩa
quan trọng, chỉ ra rằng điều đó khẳng định sự phát triển công việc chế tạo bom
nguyên tử ở Đức.
Và tôi (lúc đó tôi chuyên trách tổ chức
phong trào du kích và thu thập thông tin tình báo về Đức và Nhật Bản) được giao
làm sáng tỏ tất cả về các nghiên cứu nguyên tử ở Đức.
Thông tin từ mạng tình báo nhận được trong
giới công nghiệp Thụy Điển là mâu thuẫn. Thông tin về bom nguyên tử đến từ Mỹ
và Anh là trùng hợp. Nó được khẳng định khi chúng tôi nhận được thông báo về khả
năng chế tạo bom nguyên tử từ lời nhà bác học nguyên tử nổi tiếng Elizabeth
Meither. Meither ở trong tầm ngắm của tình báo ta kể từ năm 1938 khi bà có khả
năng đến Liên Xô để làm việc. Sau bà phải chạy khỏi nước Đức phát xít sang Thụy
Điển nơi Nils Bor đã giúp bà thu xếp công việc tại Viện vật lý. Các điệp viên nữ
nối kết với Meither chỉ dẫn Zoia Rưbkina, nhóm trưởng tình báo NKVD tại
Stokholm, chỉ dẫn theo chỉ thị của Beria.
Tháng 3-1942 Beria gửi cho Stalin toàn bộ
thông tin đến từ Mỹ, Anh, Scandinavia và Kharkov bị chiếm đóng. Trong thư ông
chỉ ra rằng ở Mỹ và Anh đang tiến hành các công việc khoa học về chế tạo vũ khí
nguyên tử.
Đến đầu năm 1943 ở ta chưa tiến hành những
công việc thực tế trong lĩnh vực chế tạo bom nguyên tử. Còn trước sự tấn công của
Đức, Ủy ban quốc gia về các nghiên cứu công nghiệp quân sự đã từ chối đề nghị của
các nhà vật lý nguyên tử của Viện nghiên cứu vật lý - kỹ thuật ở Kharkov và nhà
bác học Đức di tản Lange chế tạo thiết bị nổ siêu mạnh. Đề nghị được gửi tới
phòng sáng chế Bộ Quốc phòng nhưng người ta cho là nó là quá sớm và đã không ủng
hộ.
Tháng 3-1942 Beria đề nghị Stalin thành lập
nhóm cố vấn khoa học gồm những bác học tên tuổi và các cán bộ có trách nhiệm để
điều phối công việc về nghiên cứu năng lượng nguyên tử trực thuộc Ủy ban quốc
phòng. Ông cũng đề nghị Stalin cho phép giới thiệu thông tin về vấn đề nguyên tử
nhận được qua mạng tình báo với các bác học nổi tiếng để có sự đánh giá. Stalin
đồng ý và yêu cầu để một số nhà bác học nổi tiếng đưa ra kết luận về vấn đề
này.
Phát biểu về vấn đề chế tạo bom nguyên tử
trong tương lai gần, là viện sĩ Ioffe và học trò của ông là Kurtratov những người
được làm quen với các tài liệu tình báo, và viện sĩ Kapitsa (ông được thông báo
miệng về việc chế tạo bom nguyên tử ở Mỹ, Anh và Đức).
Người ta mời Ioffe tham gia nghiên cứu năng
lượng nguyên tử theo lời khuyên của viện sĩ Vernadxky. Tiếp theo Ioffe đã đóng
vai trò đáng kể trong sự xoa dịu các mâu thuẫn giữa các bác học trường đại học
Tổng hợp Moskva và Viện hàn lâm, và ông là một trong những người có sáng kiến
thành lập ngay sau chiến tranh ba trung tâm nghiên cứu nguyên tử chủ yếu.
Kapitsa cho rằng chế tạo bom nguyên tử là
thách thức cho vật lý hiện đại, và sự giải quyết nó chỉ có thể bằng nỗ lực
chung của các nhà bác học chúng ta và các nhà bác học Mỹ và Anh, nơi đang tiến
hành các nghiên cứu nền tảng về năng lượng nguyên tử.
Tôi nghe kể rằng tháng 10-1942 tại biệt thự
của mình Stalin chỉ tiếp Vernadxky và Ioffe. Vernadxky khi viện dẫn thỏa thuận
không chính thức của các nhà vật lý lớn nhất thế giới về công việc hợp tác, đã
đề nghị Stalin nhờ Nils Bor và các nhà bác học khác đã di tản sang Mỹ, cũng như
các chính phủ Mỹ và Anh chia sẻ với chúng ta thông tin và cùng nhau tiến hành
công việc về năng lượng nguyên tử. Đáp lại Stalin nói rằng thật là ngây thơ về
chính trị nếu họ nghĩ rằng các chính phủ phương Tây cho chúng ta thông tin về
thứ vũ khí mà trong tương lai sẽ cho khả năng thống trị thế giới. Thế nhưng
Stalin đồng ý rằng cách tiếp cận thăm dò không chính thức tới các chuyên gia
phương Tây nhân danh các bác học chúng ta có thể là có lợi.
Sau cuộc gặp gỡ đó, như sau này Vannikov, Bộ
trưởng quân khí, một trong những nhà lãnh đạo chương trình nguyên tử, kể với
tôi, lần đầu tiên giới lãnh đạo đất nước hoàn toàn tin chắc vào khả năng chế tạo
vũ khí nguyên tử, và Stalin bị quyến rũ bởi tiềm năng công phá mãnh liệt của
bom nguyên tử đến nỗi vào cuối tháng 10-1942 đã đề nghị đặt mật danh cho kế hoạch
tấn công của chúng ta ở Stalingrad là chiến dịch “Uran”.
Stalin lệnh cho Pervukhin Bộ trưởng công
nghiệp hóa chất giúp đỡ tích cực nhất các bác học trong việc chế tạo vũ khí
nguyên tử.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét