Những Chiến Dịch Đặc Biệt
Tác giả: Pavel Xudoplatov
Người dịch: Nguyễn Văn Thảo
Thể loại: Hồi ký
Nhà xuất bản Công an nhân dân
Năm xuất bản: 2003 (Lưu hành nội bộ)
Chương 8: Chiến Tranh Lạnh
2. Sứ mệnh của Harriman
Năm 1945 tôi gặp Harriman, đại sứ Mỹ ở Liên
Xô. Buổi gặp gỡ đầu tiên là ở Bộ Ngoại giao: tôi được giới thiệu là Pavel
Matveev, cán bộ ban thư ký của Molotov, chịu trách nhiệm về chuẩn bị kỹ thuật của
hội nghị Yalta. Sau buổi gặp chính thức đầu tiên tôi mời Harriman ăn trưa tại
Aragvi lúc ấy nổi tiếng với những món ăn Gruzia. Harriman có vẻ khoan khoái.
Tôi đưa theo công tước Radzivill như phiên dịch của mình, được giới thiệu với
Harriman với tư cách nhà ái quốc Ba Lan đang sống lưu vong ở Moskva, (trong khi
đó ông là điệp viên trực thuộc Beria). Đối với Harriman và Radzivill đó là cuộc
gặp gỡ của những người quen cũ. Harriman làm chủ một nhà máy hóa chất, nhà máy
sứ, hai mỏ than và kẽm ở Ba Lan. Quan trọng hơn nữa là Radzivill và Harriman đồng
sở hữu liên hợp than đá - thép nơi cần đến 40 nghìn công nhân. Ở tổ quốc mình
Radzivill là một nhân vật chính trị khá nổi bật, vốn là nghị sĩ và chủ tịch Ủy
ban hiến pháp và ngoại giao. Năm 1930 ông giúp Harriman mua được cổ phần một số
xí nghiệp Ba Lan trong điều kiện cạnh tranh khá quyết liệt từ phía các doanh
nhân Pháp và Bỉ.
Vào những năm 30 Beria đã chiêu mộ
Radzivill và chuyển trở lại Đức. Cuối năm 1944 hay đầu 1945 tôi được thông báo:
Radzivill bị bắt giữ và chuyển về Moskva; Beria ra lệnh sử dụng ông ta vào các
tiếp xúc thăm dò với người Mỹ ngay trước hội nghị Yalta. Vào thời gian ấy quan
hệ của chúng ta với Ba Lan đang căng thẳng. Ủy ban thân cộng sản ở Lublin tuyên
bố mình là chính phủ của đất nước để đối chọi với chính phủ Ba Lan lưu vong ở
London. Chúng ta dự định lợi dụng Radzivill để trấn an những người Ba Lan thân
Anh. Các chính quyền Mỹ và Anh trong khi đó như chúng tôi rõ, bắt đầu điều tra
chỗ cư trú bí mật của Radzivill.
Sự kiểm tra thông thường các quan hệ của
ông ta trước chiến tranh cho chúng tôi thấy: Radzivill có quan hệ làm ăn với
Harriman. Biết về điều đó, lập tức Beria ra lệnh chuyển Radzivill từ Lubianka,
nơi đến lúc ấy ông ta đã kịp ngồi tù gần một tháng, tới căn hộ ở ngoại thành
Moskva chịu sự giam giữ tại gia. Beria quyết định dùng Radzivill làm môi giới
trong tiếp xúc với Harriman.
Trong bữa trưa tại Aragvi tôi dự định nói về
sự chịu đựng của chúng ta liên quan tới các cha cố Gia tô giáo, Thanh giáo và
Chính thống, thậm chí cả với những kẻ mà trong chiến tranh đã cộng tác với chính
quyền Đức tại các lãnh thổ bị chiếm đóng. Tôi cũng định bàn bạc trong bữa ăn số
phận của các linh mục nhà thờ Chính thống Nga và đoan chắc với Harriman rằng
chính phủ Xô viết không truy nã các chức sắc Chính giáo.
Khi tôi nói về điều này, Harriman nhận xét
rằng cuộc bầu cử Giáo chủ mới đây đã gây ấn tượng thuận lợi cho dư luận Mỹ.
Chúng tôi chẳng bàn thêm được những vấn đề nào khác nữa bởi vì Harriman cảm thấy
Radzivill nói chung không phải là một phiên dịch chính thức và đã bàn với ông
ta mọi viễn cảnh kinh doanh có thể liên quan đến sự thành lập những xí nghiệp hợp
tác ở Liên Xô sau chiến tranh. Theo lời Harriman, chiến bại của Đức có thể một
cách logic dẫn tới việc hợp tác kinh tế Xô - Mỹ trở thành hiện thực. Chúng ta cần
sự giúp đỡ kinh tế, vì thế chúng ta cho phép tư bản Mỹ vào để nâng lên nền kinh
tế quốc dân bị chiến tranh hủy hoại. Harriman tính rằng phía Mỹ có thể kiếm lợi
rất nhiều khi tham gia vào phục hồi nền kinh tế của chúng ta.
Tôi nói với đại sứ Mỹ rằng chúng ta cám ơn
vì thông tin được chuyển cho chúng ta qua kênh ngoại giao về các tiếp xúc của
những điệp viên Mỹ với những nhân vật được ủy nhiệm đặc quyền của Gerdeler và của
tướng Beck ở Thụy Sĩ. Người Mỹ công khai thông báo cho chúng ta những kế hoạch
đưa nước Đức ra khỏi cuộc chiến. Tôi nhắc về việc chúng ta đã thông tin cho Văn
phòng quốc gia Mỹ những tiếp xúc bí mật của chúng ta với người Phần Lan với mục
đích ký kết hiệp ước hòa bình mà trong đó đóng vai trò trung gian là gia đình
Vallenberg.
Cuối cùng tôi hỏi Harriman, người Mỹ chờ đợi
gì từ hội nghị Yalta. Mục đích của tôi trong khi đó quy lại là để sớm chuẩn bị
lập trường về những vấn đề tế nhị nhất mà người Mỹ sẽ đụng chạm đến. Thí dụ,
tương lai của Ba Lan, các biên giới sau chiến tranh ở châu Âu hay số phận Nam
Tư, Hy Lạp và Áo. Thế nhưng Harriman chưa sẵn sàng với một cuộc trò chuyện
tương tự. Tôi hiểu rằng ông cần chỉ dẫn. Ông quan tâm hơn việc Radziviil định ở
lại Moskva bao lâu. Tôi cam đoan rằng Radzivill có thể tự do đi London, nhưng lại
thích đi thẳng về Ba Lan hơn ngay khi đất nước thoát khỏi bọn Đức.
Harriman bất ngờ đặt câu hỏi về sự lôi kéo
tư bản Do Thái để khôi phục nền kinh tế của chúng ta bị chiến tranh hủy hoại.
Nói riêng, ông cho biết các giới kinh doanh Mỹ ủng hộ ý tưởng sử dụng tư bản Do
Thái để phục hồi tỉnh Gomel ở Beloruxia - nơi sinh sống của phần đông người Do
Thái.
Tôi tìm mọi cách cố chuyển câu chuyện sang
đề tài khoa học. Và thế, tôi khuyên Harriman chú ý đến các xử sự của con gái
ông mà những trò phiêu lưu với đám trẻ ở Moskva có thể gây cho cô ta thiệt hại
lớn: trong thành phố đủ loại du côn, điều không có gì lạ nếu tính đến những khó
khăn của thời chiến. Những nhận xét của tôi được nói mềm mỏng, thân tình và cố
ý nhấn mạnh rằng, tất nhiên chính phủ chúng ta sẽ cố không để có những hành động
nào bôi nhọ thanh danh của chính Harriman cũng như gia đình ông. Trong khi đó
tôi lưu ý đặc biệt rằng Harriman có được lòng kính trọng của lãnh đạo quốc gia
chúng ta. Những ngăn ngừa này không hề là sự đe dọa lẫn ý đồ tống tiền nào đó.
Ngược lại, mục đích của chúng ta là cho ông ta thấy không hề có những sự khiêu
khích nào đối với ông ta. Cái sự kiện là chúng tôi bàn bạc với ông không chỉ những
vấn đề ngoại giao mà còn những vấn đề hoàn toàn riêng tư, thêm nữa vấn đề lại
khá tế nhị, chỉ cho thấy độ tin cậy của chúng ta. Nhưng Harriman không hề có phản
ứng khi tôi thể hiện mối quan tâm về việc cung cấp vodka và trứng cá đen cho những
hội nghị sắp tới ở Krưm.
Trò chuyện với Radzivill, Harriman nhấn mạnh
rằng Yalta cần phải bật đèn xanh cho những khởi sự kinh doanh tương lai tại
Đông Âu thời hậu chiến và ở Liên Xô. Giữ mạch trò chuyện tôi nói rằng ý nghĩa của
việc Radzivill bí mật đến Moskva là để loại trừ đủ thứ tin đồn, dường như bạn của
Goering sắp xuất hiện ở Thụy Điển hoặc Anh với tư cách người đưa tin của
Hitler. Radzivill không những lập tức dịch những lời của tôi mà từ phía mình đã
ủng hộ tôi, khẳng định ý định của mình xuất hiện ở châu Âu chỉ sau chiến tranh.
Bởi nhẽ trong cuộc gặp gỡ, như một quan chức cao cấp của chính phủ, tôi nhân
danh lãnh đạo đã tặng quà Harriman - một bộ đồ uống trà.
Cuộc trò chuyện của tôi với Harriman ở
Aragvi, sau đó tại khách sạn Xô viết, được ghi băng. Sau đó chúng tôi nghe băng
ghi, cố tìm trong đó những nét bổ sung để xác lập chân dung tâm lý các thành
viên phái đoàn Mỹ tại Hội nghị Yalta. Điều này đối với Stalin còn quan trọng
hơn những tin tình báo: khả năng thiết lập các tiếp xúc cá nhân với những người
đứng đầu các phái đoàn phương Tây, Roosevelt và Churchill là điều quyết định.
Và đích thực, những quan hệ cá nhân của các thủ lĩnh thế giới đóng vai trò khổng
lồ khi bàn bạc và tiếp nhận các tài liệu tại hội nghị Yalta.
Tháng 11-1945 khi Stalin nghỉ ở Krưm,
Harriman vô vọng tìm cách cố gặp được ông để bàn bạc các kế hoạch hợp tác kinh
tế và chính trị. Tôi nghe kể, ông ta đã đến gặp Molotov và thuyết phục ông ấy rằng
ông là bạn của chúng ta, trong suốt mấy năm luôn bàn những vấn đề tế nhị với những
nhân vật có chức quyền Xô viết và riêng với Stalin. Thế nhưng lần này Molotov hững
hờ và quan cách. Điều đó có nghĩa là từ đây Harriman không còn là mối quan tâm
đối với chúng ta và ông đã bị cấm tiếp cận với cấp cao nhất của chúng ta.
Harriman rời Moskva vào cuối tháng 1-1946.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét