Thứ Sáu, 29 tháng 7, 2022

Những Chiến Dịch Đặc Biệt - Chương 7-9

Những Chiến Dịch Đặc Biệt

Tác giả: Pavel Xudoplatov
Người dịch: Nguyễn Văn Thảo
Thể loại: Hồi ký
Nhà xuất bản Công an nhân dân
Năm xuất bản: 2003 (Lưu hành nội bộ)

Chương 7: Tình Báo Soviet Và Vấn Đề Nguyên Tử

9. Sự thật về vụ án Rozenberg, trò xảo thuật của FBI

Vợ chồng Rozenberg được lôi kéo cộng tác năm 1938 bởi Ovakimian và Xemenov. Theo sự trớ trêu của số phận, vợ chồng Rozenberg được người Mỹ và chúng ta giới thiệu trên báo chí như những nhân vật chủ chốt trong gián điệp nguyên tử cho Liên Xô. Trong thực tế vai trò của họ không quan trọng nhường ấy. Họ hoạt động tuyệt đối ở ngoài mối liên hệ với các nguồn thông tin chính về bom nguyên tử vốn được điều phối bởi một bộ máy tình báo chuyên biệt.
Những năm 1943-1945 đứng đầu mạng điệp viên New York là Kvaxnikov và Paxtelniak, sau đó một thời gian ngắn là Apexian (mật danh “Tháng Năm”) mà dưới sự phụ trách của họ có Xemenov, Feklixov, Iatsov. Nhân thể, Kvaxnikov xuất hiện trên truyền hình Mỹ năm 1990 thừa nhận rằng vợ chồng Rozenberg, khi giúp tình báo chúng ta thu nhận thông tin về hàng không, hóa chất và kỹ thuật điện đài, đã không có liên quan gì cả đến những tài liệu nghiêm túc về bom nguyên tử.
Mùa hè 1945 con rể của Rozenberg, thượng sĩ quân đội Mỹ Gringlas (“Kalibr”) vốn làm việc tại các xưởng ở Los Alamos, ngay trước khi thử bom nguyên tử đã chuẩn bị cho chúng ta một thông báo ngắn về các trạm kiểm soát ra vào. Người đưa tin có thể đến gặp anh ta, vì thế Kvaxnikov từ sự phê chuẩn của Trung tâm đã chỉ thị cho điệp viên Gold (“Raimon”) sau khi gặp Fuchs theo kế hoạch ở Santa Fé, đi đến Albukerke và lấy thông báo chỗ anh ta. Trung tâm bằng chỉ thị đã vi phạm nguyên tắc cốt tử của tình báo - không cho phép điệp viên hay người đưa tin của một nhóm tình báo nhận tiếp xúc và đến với mạng lưới tình báo khác không liên quan với anh ta. Thông tin của Gringlas về vấn đề nguyên tử là tối thiểu, không đáng kể, vì lý do đó tình báo chúng ta không nối lại tiếp xúc với anh ta sau lần gặp ấy với Gold. Khi Gold bị bắt năm 1950, ông ta khai ra Gringlas, còn anh ta lại khai ra Rozenberg. Đóng vai trò định mệnh trong số phận vợ chồng Rozenberg là chỉ thị của nhóm trưởng tình báo MGB tại Washington, Paniuskin và trưởng phòng tình báo khoa học-kỹ thuật Raina, giao cho cán bộ tác chiến Kamenov nối lại liên lạc với Gold năm 1948 khi ông ta đã ở trong tầm ngắm của FBI. Vào thời ấy Barkovxky làm việc trong mạng điệp viên khoa học-kỹ thuật ở Mỹ.
Lần đầu tiên tôi biết về việc bắt giữ vợ chồng Rozenberg từ thông báo của TASS và hoàn toàn không lo lắng về nó. Ai đó có thể cảm thấy kỳ quặc, nhưng cần lưu ý rằng, khi chịu trách nhiệm về hành động của mấy nghìn chiến sĩ phá hoại và điệp viên trong hậu phương Đức và về hàng trăm nguồn thông tin ở Mỹ, kể cả những chiến dịch của điệp viên ngầm, tôi không cảm thấy sự bất an. Vào thời là trưởng Cục “X”, một cách vô điều kiện, tôi biết các nguồn thông tin chủ yếu và không thể nhớ nổi là trong số họ, chí ít theo tài liệu tình báo về bom nguyên tử, vợ chồng Rozenberg lại được ghi nhận như nguồn quan trọng. Lúc ấy chỉ thoáng trong đầu tôi rằng Rozenberg có thể là có liên quan với việc tiến hành các chiến dịch tình báo của ta, nhưng trong bất cứ trường hợp nào cũng không có vai trò độc lập gì cả. Tóm lại sự bắt giữ họ tôi không cho là sự kiện đáng chú trọng đặc biệt.
Qua đi một năm, vào cuối mùa hè năm tiếp theo tôi đã vô cùng sửng sốt khi trung tướng Xavtsenko, lúc ấy là phó Tổng cục trưởng tình báo MGB, đến văn phòng tôi và thông báo rằng Ignatiev vừa được bổ nhiệm Bộ trưởng An ninh quốc gia ra lệnh báo với ông ấy tất cả các tài liệu về những thất bại của các chiến dịch tình báo ở Mỹ và Anh liên quan với vụ Rozenberg. Ông ta cũng nói rằng trong BCHTƯ cũng thành lập một Ủy ban đặc biệt về xem xét các hậu quả có khả năng nhân việc bắt giữ Gold, Gringlas và vợ chồng Rozenberg. Theo tôi hiểu, vấn đề nói đến các vi phạm nguyên tắc làm việc tình báo - tác chiến bởi các cán bộ cơ quan An ninh quốc gia.
Tôi biết Xavtsenko từ những năm 20 khi ông đứng đầu phòng tác chiến ban tham mưu bộ đội biên phòng trên biên giới với Rumani. Năm 1946 ông trở thành Bộ trưởng An ninh Ucraina, còn sau này, năm 1948, nhờ sự nâng đỡ của Khrusev, chuyển sang công tác ở Ủy ban thông tin, sau đó trở thành phó phụ trách Tổng cục tình báo MGB. Vào cuối những năm 40 - đầu những năm 50 ông trực tiếp phê chuẩn việc tiến hành những chiến dịch chủ yếu ở Mỹ và Anh. Thế nhưng Xavtsenko nói với tôi rằng ông không thể tin chắc vào kết luận của bộ máy của ông về vụ Rozenberg, bởi sự cộng tác của họ với chúng ta bắt đầu trước chiến tranh và tiếp tục trong giai đoạn chiến tranh. Đến thời gian ấy các trưởng nhóm của ta ở Mỹ và Mexico - Gorxky và Vaxilevxky nổi danh ở các nước đó dưới tên Gromov và Taraxov, đã bị sa thải khỏi cơ quan tình báo. Số phận giống thế đối với cả vợ chồng Zarubin, vốn biết rõ mạng điệp viên ta ở Mỹ vào giữa những năm 40. Kheifets đến lúc này đã ngồi trong tù 2 năm như kẻ tham gia “âm mưu Do Thái”. Vì thế Xavtsenko không thể hỏi họ về các tài liệu tác chiến lưu trữ để làm báo cáo cho BCHTƯ. Những nhân chứng quan trọng nhất Ovakimian và Zarubin đứng đồng hướng Mỹ trong những năm chiến tranh, không che giấu thái độ coi thường của mình đối với Xavtsenko vì sự thiếu kinh nghiệm trong công tác tình báo và gọi ông ta công khai là “đồ chó đẻ”. Họ từ chối nói chuyện với ông, tuyên bố rằng sẽ chỉ cho các giải thích ở BCHTƯ. Iatskov, Xokolov và Xemenov, có liên quan đến các việc này, lúc ấy đang ở nước ngoài, nhưng Xavtsenko không muốn dựa vào các giải thích của họ hay vào các kết luận của Kvaxnilov đang phụ trách tình báo khoa học - kỹ thuật, như vào những nhân vật có mối quan tâm.
Xavtsenko và tôi bị gọi vào BCHTƯ đảng với một câu hỏi duy nhất: ai chịu trách nhiệm cho bức điện báo tai hại cho phép cuộc gặp không thể cứu chữa của Gold với Gringlas ở Albukerke?
Xavtsenko và các cán bộ tình báo hướng Mỹ của cơ quan an ninh đã chuẩn bị tường trình về kết quả công tác của Ủy ban lên BCHTƯ. Theo tôi nhớ nó khẳng định rằng các thất bại là hậu quả những sai lầm Xemenov gây ra do chỉ đạo Gold. Trong tường trình cũng nói rằng cuộc gặp gỡ bí mật của Gringlas với Gold được sự cho phép của Trung tâm. Trong tường trình nói rằng Ovakimian, trưởng phòng hướng Mỹ những năm 40, bị sa thải khỏi cơ quan An ninh quốc gia. Những công lao khổng lồ của ông tất nhiên không có lấy một lời nhắc tới.
Tôi kiên quyết phản đối những kết luận này, bởi Xemenov và Ovakimian trong những việc cụ thể đã chứng tỏ là những cán bộ tác chiến lành nghề. Thực tế cuối những năm 30 chính họ đã tạo lập một mạng lưới khá đáng kể những nguồn điệp báo thông tin khoa học - kỹ thuật ở Mỹ. Thế nhưng cả ở BCHTƯ lẫn ở Cục cán bộ người ta đã bỏ qua những suy tính của tôi, họ bị quy tội vì sự thất bại, và họ bị sa thải khỏi cơ quan tình báo do làn sóng chống Do Thái, bởi Xemenov là người Do Thái. Tôi nhớ chúng tôi đã gom góp tiền để giúp Xemenov cho đến khi ông tự thu xếp công việc tư vấn và phiên dịch ở Viện thông tin khoa học-kỹ thuật thuộc Viện hàn lâm.
Năm sau, scandal này lại bất ngờ tiếp diễn. Tôi lại bị gọi lên BCHTƯ gặp Kixelev, trợ lý của Malenkov. Hoàn toàn bất ngờ khi tôi gặp Xavtsenko chỗ ông ta. Kixelev là người nguyên tắc và thô lỗ. Từ miệng ông ta tôi nghe thấy những lời buộc tội quen thuộc của những năm 1938-1939: BCHTƯ vạch trần những mưu đồ của một số cán bộ tác chiến riêng biệt và một loạt cán bộ lãnh đạo MGB lừa dối Đảng, khi làm giảm nhẹ vai trò gia đình Rozenberg trong công tác tình báo. Trong một lá thư nặc danh của một cán bộ MGB chuyển về BCHTƯ, Kixelev nói, ghi nhận vai trò đáng kể của vợ chồng Rozenberg trong việc khai thác thông tin về vấn đề nguyên tử. Để kết luận, Kixelev nhấn mạnh rằng Ban Kiểm tra TƯ Đảng sẽ xem xét những tín hiệu này về những ý đồ đưa BCHTƯ đến chỗ lầm lạc về thực chất vụ Rozenberg.
Xavtsenko và tôi đồng thanh phản đối Kixelev một cách kiên quyết, tuyên bố rằng các chiến dịch tình báo của ta ở Mỹ về vấn đề nguyên tử thực tế đã ngừng vào năm 1946 và chúng ta buộc phải dựa vào các nguồn ở Anh. Chúng tôi viện dẫn những chỉ thị của Beria nhận được năm 1946 giữ các nguồn thông tin để thực hiện chiến dịch chính trị có lợi đối với chúng ta về tuyên truyền giải trừ vũ khí nguyên tử trong giới khoa học và trí thức các nước phương Tây.
Kixelev buộc tội chúng tôi là thiếu chân thực và có những mưu đồ hạ thấp ý nghĩa của những tiếp xúc của tình báo ta với vợ chồng Rozenberg. Tôi trả lời ông ta rằng tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm về công tác thâm nhập mạng điệp viên của ta vào các cơ sở nguyên tử của Mỹ những năm 1944-1946. Trong khi đó tôi nhấn mạnh rằng, dĩ nhiên, giá trị của sự thâm nhập điệp viên và các tiếp cận tới những đối tượng chúng ta quan tâm bị biến tướng đột ngột phụ thuộc vào địa vị công tác của các nguồn thông tin. Vợ chồng Rozenberg chỉ là một mắt xích không đáng kể của hoạt động bề ngoài của ta tại các cơ sở nguyên tử Mỹ. Các tài liệu của vợ chồng Rozenberg và con rể họ Gringlas không thể được xếp vào phạm trù thông tin quan trọng. Vợ chồng Rozenberg vốn ấu trĩ, nhưng đồng thời trung thành với chúng ta bởi tín niệm cộng sản của mình, nhưng hoạt động của họ không có ý nghĩa nguyên tắc trong việc nhận các bí mật nguyên tử Mỹ.
Kixelev bằng giọng quan cách tuyên bố rằng sẽ báo rõ với BCHTƯ và cá nhân Malenkov các lý giải của chúng tôi, và Ban Kiểm tra Đảng sẽ xác lập ai chịu trách nhiệm về sự thất bại của các chiến dịch tình báo ở Mỹ.
Vợ chồng Rozenberg xử sự anh hùng trong tiến trình điều tra và tại tòa án. Theo lý do đó các cấp lãnh đạo đã ngừng kiếm tìm vật tế thần.
Nhìn lại các sự kiện, thấy rõ ngay rằng vụ vợ chồng Rozenberg ngay từ đầu đã thấm đẫm màu sắc chính trị mà nó đã che mờ tính không đáng kể thông tin khoa học - kỹ thuật trong lĩnh vực vũ khí nguyên tử. Họ đã cho thông tin về hóa chất và định vị sóng. Quan trọng hơn nhiều đối với chính quyền Mỹ và lãnh đạo Xô viết hóa ra là thế giới quan cộng sản và lý tưởng của họ vốn cần thiết cho Liên Xô vào giai đoạn căng thẳng chiến tranh lạnh và cơn cuồng khích chống chủ nghĩa cộng sản. Vào những điều kiện cực kỳ khó khăn họ đã khẳng định là những người bạn bè cứng rắn của Liên Xô.
Sự bắt giữ vợ chồng Rozenberg lập tức ngay sau thú nhận của Gringlas, theo ý tôi, chỉ ra rằng FBI hành động cũng y như NKVD, tuân thủ các thiết chế và chỉ dẫn chính trị, thay vào chỗ phải tiếp cận công việc một cách chuyên nghiệp. FBI coi thường việc làm rõ tất cả những nhân vật liên quan với vợ chồng Rozenberg. Điều đó hẳn đòi hỏi không chỉ theo dõi vòng ngoài, mà cả nghiên cứu mạng điệp báo của Rozenberg nhằm biết rõ cán bộ tác chiến hay điệp viên mà họ có mối liên lạc. Chỉ có thế mới có thể xác định mức độ sự tham gia của họ trong các chiến dịch của tình báo Xô viết. Sự hấp tấp của FBI đã ngăn cản phản gián Mỹ lần tới Fiser (đại tá Abel), điệp viên Xô viết cắm sâu ở Mỹ năm 1948 và mãi năm 1957 mới bị bắt. Ảnh với mật danh Elen Sobell, vợ của Morton Sobell, thành viên nhóm Rozenberg, bị các nhân viên FBI phát hiện chỉ khi bắt Fiser.
Khi tôi đọc những đoạn trích từ cuốn sách của Lamfer và Sahtman về hành động của FBI vào những năm 50 chống lại mạng điệp viên Xô viết, tôi đã kinh ngạc là cả FBI và NKVD đều sử dụng vẫn chỉ một loại phương pháp khi điều tra vụ án. Thực tế toàn bộ vụ án Rozenberg được xây dựng chỉ dựa vào những thú nhận của người bị buộc tội. Tôi đặc biệt sửng sốt với các luận cứ của người bảo vệ vợ chồng Rozenberg, rằng FBI đã ép và chỉ dẫn Gold và Gringlas đối với các lời khai của họ tại tòa án. Tất nhiên hành động của FBI là hoàn toàn logic, bởi nó không xử lý nổi với nhiệm vụ chủ yếu của nó: làm rõ vai trò đích thực của vợ chồng Rozenberg trong khai thác và chuyển thông tin mật cho Liên Xô.
Vợ chồng Rozenberg trở thành nạn nhân của chiến tranh lạnh. Người Mỹ và chúng ta cố moi được tối đa lợi ích chính trị từ phiên tòa. Rất đáng kể là vào giai đoạn cao trào chủ nghĩa bài Do Thái ở ta và những tố giác cái gọi là “âm mưu Do Thái” tuyên truyền của ta đã gán cho chính quyền Mỹ việc tiến hành chiến dịch bài Do Thái và săn đuổi những người Do Thái.
Tôi có cảm giác rằng ở Mỹ phiên tòa về Rozenberg đã dấy lên sự mạnh mẽ tinh thần bài Do thái. Chúng ta đã lợi dụng điều đó; nhanh chóng dịch ra tiếng Nga những vở kịch và tiểu phẩm của nhà văn Mỹ, thời ấy là đảng viên cộng sản, Hovard Fast về chủ nghĩa bài Do Thái ở Mỹ. Vụ án Rozenberg biến thành một trong những yếu tố tuyên truyền mạnh mẽ của ở ta và Ủy ban hòa bình thế giới được thành lập với sự cổ vũ tích cực của chúng ta vào cuối những năm 40.
Theo tôi nhớ, ở Mỹ vào những năm 40 thành công của bốn mạng điệp báo: tại Francisco nơi có lãnh sự quán; ở Washington nơi có sứ quán; ở New York - cơ sở đại diện thương mại “Amtorg” và lãnh sự quán; và cuối cùng, ở Washington được lãnh đạo bởi nhóm trưởng Akhmerov. Ông lãnh đạo hoạt động của Golox, một trong những người, tổ chức chủ yếu công tác tình báo gắn bó chặt chẽ với ĐCS những năm 30. Bổ sung vào đó còn nhóm điệp viên hoạt động độc lập ở Mexico được sự chỉ đạo của Vaxilevxky.
Tôi nhớ rằng sự chạy trốn sang Canada năm 1945 của Guzenko - nhân viên mật mã từ bộ máy tùy viên quân sự - có những hậu quả kéo dài. Guzenko thông báo với các cơ quan phản gián Mỹ và Canada các cứ liệu cho phép họ lần tới mạng điệp viên chúng ta đã hoạt động tích cực tại Mỹ vào những năm chiến tranh. Hơn thế, y còn trao cho họ danh mục biệt danh của các nhà bác học hạt nhân Mỹ và Canada mà chúng đã tích cực tìm hiểu. Các nhà bác học này không phải là điệp viên, nhưng là những nguồn thông tin quan trọng về bom nguyên tử.
Những tin tức nhận từ Guzenko, cũng như những thú nhận của điệp viên tình báo quân đội Bentli bị FBI chiêu dụng, cho phép phản gián Mỹ chui vào mạng điệp viên chúng ta. Thế nhưng bất cứ thông tin nào Guzenko báo cho FBI, đều đòi hỏi sự kiểm tra kỹ lưỡng, mà điều đó cần hàng năm trời làm lụng cật lực. Khi phản gián Mỹ đã tiếp cận các nguồn thông tin, chúng ta đã nhận được tin tức quan trọng nhất về bom nguyên tử và đã phong tỏa liên lạc với mạng điệp viên. FBI khẳng định rằng Guzenko đã giúp giải mã các bức điện đặc biệt, và điều đó giúp khám phá ra các điệp viên Gold, Nana và Fuchs. Thế nhưng tôi không cho việc giải mã các bức điện đóng vai trò quyết định trong sự phát giác các chiến dịch tình báo của ta. Từ năm 1941 điệp viên Sults-Boizen (“Xtarsina”) từ Berlin báo về chúng tôi rằng bọn Đức đã chiếm được một cuốn sách chỉ dẫn của ta ở Petsamo, Na Uy. Tất nhiên chúng tôi đã thay các mã khóa của mình. Tôi nhớ rằng năm 1944 trong phạm vi cộng tác giữa Stalin và Tito nảy sinh vấn đề về huấn luyện kỹ thuật giải mã cho các cán bộ An ninh Nam Tư gửi sang ta. Lúc ấy Ovakimian, phó Tổng cục tình báo NKVD, phụ trách địa bàn Mỹ đã kiên quyết phản đối việc huấn luyện những người Nam Tư. Tôi còn nhớ ông đã nói: “Chúng ta đã thay đổi các khóa mã sau thất bại của các nhóm ở Đức. Cần gì phải chia sẻ kinh nghiệm với các phái viên của Tito, chúng ta có đủ cơ sở nghi ngờ trò chơi hai mặt của họ - trong sự cộng tác với tình báo Anh”. Sự phản đối của Ovakimian được tiếp nhận.
Còn từ 1944 khi Zarubin từ Mỹ trở về, Ovakimian đã e ngại rằng FBI đã cài được các điệp viên của nó vào các nhóm điệp viên ta. Khi Zarubin giải thích các lời buộc tội được đưa ra chống lại ông, nhưng dù sao để phòng ngừa, chúng tôi lại thay khóa mã số. Vì thế tôi không nghĩ rằng FBI phát giác ra mạng điệp viên của ta trên cơ sở mật mã chiếm được ở Petsamo.
Người Mỹ và người Anh đã giải mã được ghi chép của các chỉ huy mạng điệp viên ở Washington, San Francisco, New York, London, Mexico, Stokholm, Stambul, Xophia, Canberra với Moskva.
Chúng ta đã giảm nhẹ cho phía Mỹ công việc này khi chuyển văn bản đầy đủ của các bức điện nhận được theo tuyến NKVD cho Quốc tế cộng sản.
Do theo dõi thường xuyên sóng điện đài chúng ta, các cơ quan đặc biệt Mỹ từ năm 1940, đã xác lập thông tin do báo chí đưa; hơn 200 điệp viên Xô viết tham gia vào thu thập tài liệu về bom nguyên tử và các tài liệu mật của các cơ quan chính phủ Mỹ trong đó có cả cơ quan đặc biệt. Nhưng một loạt mật danh chủ chốt vẫn không bị phát giác.
Tháng 5-1995 FBI gạt bỏ giả thuyết của tôi về việc tình báo chúng ta nhận cứ liệu về bom nguyên tử. FBI ghi nhận rằng Fermi, Oppenheimer, Stsilard và Bor, không phải là gián điệp. Nhưng tôi cũng đâu khẳng định điều đó.
Tháng 9-1992 ở quân y viện KGB tôi gặp đại tá về hưu, cựu binh tình báo Iatskov mà Gold giữ liên lạc những năm 1945-1946. Chúng tôi nhớ lại toàn bộ câu chuyện này được kể trong cuốn sách của Lamfer, về sự bắt được bức điện báo từ lãnh sự quán ta ở New York gửi Moskva, kiểu như đó là cơ sở để phản gián Mỹ tìm ra Fuchs, trong đó - có bức điện đã giải mã của lãnh sự quán ta gửi Trung tâm về cuộc gặp của Gold và Fuchs vào tháng 1-1945 trong nhà chị gái của Fuchs là Kristel. Như Feklixov viết trong cuốn sách của mình, như chứng cứ chống lại Fuchs là bản đồ Santa Fé ở bang New Mexico không xa Los Alamos nơi được đánh dấu chỗ gặp của Gold và Fuchs. Được khẳng định rằng trên bản đồ phát hiện khi lục soát nhà Gold, có dấu vân tay của Fuchs.
Đối với tôi, một nhà tình báo, những hoàn cảnh không cho phép FBI chui được vào mạng điệp viên của ta là hoàn toàn dễ hiểu. FBI không đủ thời gian trong một năm rưỡi tổ chức kiểm soát và nắm được hết một số lượng chuyên gia từ nhiều nước đến Mỹ tham gia chương trình nguyên tử. Ở Liên Xô phản gián của ta có những khả năng lớn hơn nhiều để kiểm tra những người được lôi cuốn vào chương trình nguyên tử. Nó dựa trên hệ thống của những tài liệu tác chiến.
Dù chúng ta đã len vào được giới thân cận của Oppenheimer, Fermi và Stsilard thông qua Fuchs, Pontekorvo và những người khác, chúng ta không bao giờ ngừng những nỗ lực của mình để nhận các tài liệu từ phòng thí nghiệm Berkeley, bởi các soạn thảo của nó gắn chặt với các nghiên cứu ở Los Alamos. FBI nắm được mối quan tâm của chúng ta, nhưng nó đánh giá quá cao sự quan tâm đó và tập trung vào chống đối lại trong khi đó hướng này chỉ đóng vai trò phụ.
Thông tin cực kỳ quý giá về bom nguyên tử chúng ta nhận vào giai đoạn cuối, ngay trước vụ nổ thử đầu tiên. Vào giai đoạn khi phản gián Mỹ tăng cường hơn công việc của nó, chúng ta đã cắt mọi tiếp xúc với những điệp viên có liên hệ với ĐCS và những tổ chức “cánh tả” khác được cài vào đề án. Kết quả là không ai trong số cộng tác với chúng ta bị bắt quả tang và trực tiếp tại thời điểm chuyển thông tin.
Để kết luận tôi muốn nói: tình báo Xô viết là người có sáng kiến triển khai các hoạt động quy mô rộng về chế tạo vũ khí nguyên tử ở Liên Xô và giúp đỡ thiết thực cho các bác học chúng ta trong sự nghiệp này. Thế nhưng vũ khí nguyên tử được chế tạo bởi những nỗ lực khổng lồ của các nhà bác học nguyên tử và các cán bộ ngành công nghiệp.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét