Những Chiến Dịch Đặc Biệt
Tác giả: Pavel Xudoplatov
Người dịch: Nguyễn Văn Thảo
Thể loại: Hồi ký
Nhà xuất bản Công an nhân dân
Năm xuất bản: 2003 (Lưu hành nội bộ)
Chương 7: Tình Báo Soviet Và Vấn Đề Nguyên
Tử
9. Sự thật về vụ án Rozenberg, trò xảo thuật
của FBI
Vợ chồng Rozenberg được lôi kéo cộng tác
năm 1938 bởi Ovakimian và Xemenov. Theo sự trớ trêu của số phận, vợ chồng
Rozenberg được người Mỹ và chúng ta giới thiệu trên báo chí như những nhân vật
chủ chốt trong gián điệp nguyên tử cho Liên Xô. Trong thực tế vai trò của họ
không quan trọng nhường ấy. Họ hoạt động tuyệt đối ở ngoài mối liên hệ với các
nguồn thông tin chính về bom nguyên tử vốn được điều phối bởi một bộ máy tình
báo chuyên biệt.
Những năm 1943-1945 đứng đầu mạng điệp viên
New York là Kvaxnikov và Paxtelniak, sau đó một thời gian ngắn là Apexian (mật
danh “Tháng Năm”) mà dưới sự phụ trách của họ có Xemenov, Feklixov, Iatsov.
Nhân thể, Kvaxnikov xuất hiện trên truyền hình Mỹ năm 1990 thừa nhận rằng vợ chồng
Rozenberg, khi giúp tình báo chúng ta thu nhận thông tin về hàng không, hóa chất
và kỹ thuật điện đài, đã không có liên quan gì cả đến những tài liệu nghiêm túc
về bom nguyên tử.
Mùa hè 1945 con rể của Rozenberg, thượng sĩ
quân đội Mỹ Gringlas (“Kalibr”) vốn làm việc tại các xưởng ở Los Alamos, ngay
trước khi thử bom nguyên tử đã chuẩn bị cho chúng ta một thông báo ngắn về các
trạm kiểm soát ra vào. Người đưa tin có thể đến gặp anh ta, vì thế Kvaxnikov từ
sự phê chuẩn của Trung tâm đã chỉ thị cho điệp viên Gold (“Raimon”) sau khi gặp
Fuchs theo kế hoạch ở Santa Fé, đi đến Albukerke và lấy thông báo chỗ anh ta.
Trung tâm bằng chỉ thị đã vi phạm nguyên tắc cốt tử của tình báo - không cho
phép điệp viên hay người đưa tin của một nhóm tình báo nhận tiếp xúc và đến với
mạng lưới tình báo khác không liên quan với anh ta. Thông tin của Gringlas về vấn
đề nguyên tử là tối thiểu, không đáng kể, vì lý do đó tình báo chúng ta không nối
lại tiếp xúc với anh ta sau lần gặp ấy với Gold. Khi Gold bị bắt năm 1950, ông
ta khai ra Gringlas, còn anh ta lại khai ra Rozenberg. Đóng vai trò định mệnh
trong số phận vợ chồng Rozenberg là chỉ thị của nhóm trưởng tình báo MGB tại
Washington, Paniuskin và trưởng phòng tình báo khoa học-kỹ thuật Raina, giao
cho cán bộ tác chiến Kamenov nối lại liên lạc với Gold năm 1948 khi ông ta đã ở
trong tầm ngắm của FBI. Vào thời ấy Barkovxky làm việc trong mạng điệp viên
khoa học-kỹ thuật ở Mỹ.
Lần đầu tiên tôi biết về việc bắt giữ vợ chồng
Rozenberg từ thông báo của TASS và hoàn toàn không lo lắng về nó. Ai đó có thể
cảm thấy kỳ quặc, nhưng cần lưu ý rằng, khi chịu trách nhiệm về hành động của mấy
nghìn chiến sĩ phá hoại và điệp viên trong hậu phương Đức và về hàng trăm nguồn
thông tin ở Mỹ, kể cả những chiến dịch của điệp viên ngầm, tôi không cảm thấy sự
bất an. Vào thời là trưởng Cục “X”, một cách vô điều kiện, tôi biết các nguồn
thông tin chủ yếu và không thể nhớ nổi là trong số họ, chí ít theo tài liệu
tình báo về bom nguyên tử, vợ chồng Rozenberg lại được ghi nhận như nguồn quan
trọng. Lúc ấy chỉ thoáng trong đầu tôi rằng Rozenberg có thể là có liên quan với
việc tiến hành các chiến dịch tình báo của ta, nhưng trong bất cứ trường hợp
nào cũng không có vai trò độc lập gì cả. Tóm lại sự bắt giữ họ tôi không cho là
sự kiện đáng chú trọng đặc biệt.
Qua đi một năm, vào cuối mùa hè năm tiếp
theo tôi đã vô cùng sửng sốt khi trung tướng Xavtsenko, lúc ấy là phó Tổng cục
trưởng tình báo MGB, đến văn phòng tôi và thông báo rằng Ignatiev vừa được bổ
nhiệm Bộ trưởng An ninh quốc gia ra lệnh báo với ông ấy tất cả các tài liệu về
những thất bại của các chiến dịch tình báo ở Mỹ và Anh liên quan với vụ
Rozenberg. Ông ta cũng nói rằng trong BCHTƯ cũng thành lập một Ủy ban đặc biệt
về xem xét các hậu quả có khả năng nhân việc bắt giữ Gold, Gringlas và vợ chồng
Rozenberg. Theo tôi hiểu, vấn đề nói đến các vi phạm nguyên tắc làm việc tình
báo - tác chiến bởi các cán bộ cơ quan An ninh quốc gia.
Tôi biết Xavtsenko từ những năm 20 khi ông
đứng đầu phòng tác chiến ban tham mưu bộ đội biên phòng trên biên giới với
Rumani. Năm 1946 ông trở thành Bộ trưởng An ninh Ucraina, còn sau này, năm
1948, nhờ sự nâng đỡ của Khrusev, chuyển sang công tác ở Ủy ban thông tin, sau
đó trở thành phó phụ trách Tổng cục tình báo MGB. Vào cuối những năm 40 - đầu
những năm 50 ông trực tiếp phê chuẩn việc tiến hành những chiến dịch chủ yếu ở
Mỹ và Anh. Thế nhưng Xavtsenko nói với tôi rằng ông không thể tin chắc vào kết
luận của bộ máy của ông về vụ Rozenberg, bởi sự cộng tác của họ với chúng ta bắt
đầu trước chiến tranh và tiếp tục trong giai đoạn chiến tranh. Đến thời gian ấy
các trưởng nhóm của ta ở Mỹ và Mexico - Gorxky và Vaxilevxky nổi danh ở các nước
đó dưới tên Gromov và Taraxov, đã bị sa thải khỏi cơ quan tình báo. Số phận giống
thế đối với cả vợ chồng Zarubin, vốn biết rõ mạng điệp viên ta ở Mỹ vào giữa những
năm 40. Kheifets đến lúc này đã ngồi trong tù 2 năm như kẻ tham gia “âm mưu Do
Thái”. Vì thế Xavtsenko không thể hỏi họ về các tài liệu tác chiến lưu trữ để
làm báo cáo cho BCHTƯ. Những nhân chứng quan trọng nhất Ovakimian và Zarubin đứng
đồng hướng Mỹ trong những năm chiến tranh, không che giấu thái độ coi thường của
mình đối với Xavtsenko vì sự thiếu kinh nghiệm trong công tác tình báo và gọi
ông ta công khai là “đồ chó đẻ”. Họ từ chối nói chuyện với ông, tuyên bố rằng sẽ
chỉ cho các giải thích ở BCHTƯ. Iatskov, Xokolov và Xemenov, có liên quan đến
các việc này, lúc ấy đang ở nước ngoài, nhưng Xavtsenko không muốn dựa vào các
giải thích của họ hay vào các kết luận của Kvaxnilov đang phụ trách tình báo
khoa học - kỹ thuật, như vào những nhân vật có mối quan tâm.
Xavtsenko và tôi bị gọi vào BCHTƯ đảng với
một câu hỏi duy nhất: ai chịu trách nhiệm cho bức điện báo tai hại cho phép cuộc
gặp không thể cứu chữa của Gold với Gringlas ở Albukerke?
Xavtsenko và các cán bộ tình báo hướng Mỹ của
cơ quan an ninh đã chuẩn bị tường trình về kết quả công tác của Ủy ban lên
BCHTƯ. Theo tôi nhớ nó khẳng định rằng các thất bại là hậu quả những sai lầm
Xemenov gây ra do chỉ đạo Gold. Trong tường trình cũng nói rằng cuộc gặp gỡ bí
mật của Gringlas với Gold được sự cho phép của Trung tâm. Trong tường trình nói
rằng Ovakimian, trưởng phòng hướng Mỹ những năm 40, bị sa thải khỏi cơ quan An
ninh quốc gia. Những công lao khổng lồ của ông tất nhiên không có lấy một lời
nhắc tới.
Tôi kiên quyết phản đối những kết luận này,
bởi Xemenov và Ovakimian trong những việc cụ thể đã chứng tỏ là những cán bộ
tác chiến lành nghề. Thực tế cuối những năm 30 chính họ đã tạo lập một mạng lưới
khá đáng kể những nguồn điệp báo thông tin khoa học - kỹ thuật ở Mỹ. Thế nhưng
cả ở BCHTƯ lẫn ở Cục cán bộ người ta đã bỏ qua những suy tính của tôi, họ bị
quy tội vì sự thất bại, và họ bị sa thải khỏi cơ quan tình báo do làn sóng chống
Do Thái, bởi Xemenov là người Do Thái. Tôi nhớ chúng tôi đã gom góp tiền để
giúp Xemenov cho đến khi ông tự thu xếp công việc tư vấn và phiên dịch ở Viện
thông tin khoa học-kỹ thuật thuộc Viện hàn lâm.
Năm sau, scandal này lại bất ngờ tiếp diễn.
Tôi lại bị gọi lên BCHTƯ gặp Kixelev, trợ lý của Malenkov. Hoàn toàn bất ngờ
khi tôi gặp Xavtsenko chỗ ông ta. Kixelev là người nguyên tắc và thô lỗ. Từ miệng
ông ta tôi nghe thấy những lời buộc tội quen thuộc của những năm 1938-1939:
BCHTƯ vạch trần những mưu đồ của một số cán bộ tác chiến riêng biệt và một loạt
cán bộ lãnh đạo MGB lừa dối Đảng, khi làm giảm nhẹ vai trò gia đình Rozenberg
trong công tác tình báo. Trong một lá thư nặc danh của một cán bộ MGB chuyển về
BCHTƯ, Kixelev nói, ghi nhận vai trò đáng kể của vợ chồng Rozenberg trong việc
khai thác thông tin về vấn đề nguyên tử. Để kết luận, Kixelev nhấn mạnh rằng
Ban Kiểm tra TƯ Đảng sẽ xem xét những tín hiệu này về những ý đồ đưa BCHTƯ đến
chỗ lầm lạc về thực chất vụ Rozenberg.
Xavtsenko và tôi đồng thanh phản đối
Kixelev một cách kiên quyết, tuyên bố rằng các chiến dịch tình báo của ta ở Mỹ
về vấn đề nguyên tử thực tế đã ngừng vào năm 1946 và chúng ta buộc phải dựa vào
các nguồn ở Anh. Chúng tôi viện dẫn những chỉ thị của Beria nhận được năm 1946
giữ các nguồn thông tin để thực hiện chiến dịch chính trị có lợi đối với chúng
ta về tuyên truyền giải trừ vũ khí nguyên tử trong giới khoa học và trí thức
các nước phương Tây.
Kixelev buộc tội chúng tôi là thiếu chân thực
và có những mưu đồ hạ thấp ý nghĩa của những tiếp xúc của tình báo ta với vợ chồng
Rozenberg. Tôi trả lời ông ta rằng tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm về công tác
thâm nhập mạng điệp viên của ta vào các cơ sở nguyên tử của Mỹ những năm
1944-1946. Trong khi đó tôi nhấn mạnh rằng, dĩ nhiên, giá trị của sự thâm nhập
điệp viên và các tiếp cận tới những đối tượng chúng ta quan tâm bị biến tướng đột
ngột phụ thuộc vào địa vị công tác của các nguồn thông tin. Vợ chồng Rozenberg
chỉ là một mắt xích không đáng kể của hoạt động bề ngoài của ta tại các cơ sở
nguyên tử Mỹ. Các tài liệu của vợ chồng Rozenberg và con rể họ Gringlas không
thể được xếp vào phạm trù thông tin quan trọng. Vợ chồng Rozenberg vốn ấu trĩ,
nhưng đồng thời trung thành với chúng ta bởi tín niệm cộng sản của mình, nhưng
hoạt động của họ không có ý nghĩa nguyên tắc trong việc nhận các bí mật nguyên
tử Mỹ.
Kixelev bằng giọng quan cách tuyên bố rằng
sẽ báo rõ với BCHTƯ và cá nhân Malenkov các lý giải của chúng tôi, và Ban Kiểm
tra Đảng sẽ xác lập ai chịu trách nhiệm về sự thất bại của các chiến dịch tình
báo ở Mỹ.
Vợ chồng Rozenberg xử sự anh hùng trong tiến
trình điều tra và tại tòa án. Theo lý do đó các cấp lãnh đạo đã ngừng kiếm tìm
vật tế thần.
Nhìn lại các sự kiện, thấy rõ ngay rằng vụ
vợ chồng Rozenberg ngay từ đầu đã thấm đẫm màu sắc chính trị mà nó đã che mờ
tính không đáng kể thông tin khoa học - kỹ thuật trong lĩnh vực vũ khí nguyên tử.
Họ đã cho thông tin về hóa chất và định vị sóng. Quan trọng hơn nhiều đối với
chính quyền Mỹ và lãnh đạo Xô viết hóa ra là thế giới quan cộng sản và lý tưởng
của họ vốn cần thiết cho Liên Xô vào giai đoạn căng thẳng chiến tranh lạnh và
cơn cuồng khích chống chủ nghĩa cộng sản. Vào những điều kiện cực kỳ khó khăn họ
đã khẳng định là những người bạn bè cứng rắn của Liên Xô.
Sự bắt giữ vợ chồng Rozenberg lập tức ngay
sau thú nhận của Gringlas, theo ý tôi, chỉ ra rằng FBI hành động cũng y như
NKVD, tuân thủ các thiết chế và chỉ dẫn chính trị, thay vào chỗ phải tiếp cận
công việc một cách chuyên nghiệp. FBI coi thường việc làm rõ tất cả những nhân
vật liên quan với vợ chồng Rozenberg. Điều đó hẳn đòi hỏi không chỉ theo dõi
vòng ngoài, mà cả nghiên cứu mạng điệp báo của Rozenberg nhằm biết rõ cán bộ
tác chiến hay điệp viên mà họ có mối liên lạc. Chỉ có thế mới có thể xác định mức
độ sự tham gia của họ trong các chiến dịch của tình báo Xô viết. Sự hấp tấp của
FBI đã ngăn cản phản gián Mỹ lần tới Fiser (đại tá Abel), điệp viên Xô viết cắm
sâu ở Mỹ năm 1948 và mãi năm 1957 mới bị bắt. Ảnh với mật danh Elen Sobell, vợ
của Morton Sobell, thành viên nhóm Rozenberg, bị các nhân viên FBI phát hiện chỉ
khi bắt Fiser.
Khi tôi đọc những đoạn trích từ cuốn sách của
Lamfer và Sahtman về hành động của FBI vào những năm 50 chống lại mạng điệp
viên Xô viết, tôi đã kinh ngạc là cả FBI và NKVD đều sử dụng vẫn chỉ một loại
phương pháp khi điều tra vụ án. Thực tế toàn bộ vụ án Rozenberg được xây dựng
chỉ dựa vào những thú nhận của người bị buộc tội. Tôi đặc biệt sửng sốt với các
luận cứ của người bảo vệ vợ chồng Rozenberg, rằng FBI đã ép và chỉ dẫn Gold và
Gringlas đối với các lời khai của họ tại tòa án. Tất nhiên hành động của FBI là
hoàn toàn logic, bởi nó không xử lý nổi với nhiệm vụ chủ yếu của nó: làm rõ vai
trò đích thực của vợ chồng Rozenberg trong khai thác và chuyển thông tin mật
cho Liên Xô.
Vợ chồng Rozenberg trở thành nạn nhân của
chiến tranh lạnh. Người Mỹ và chúng ta cố moi được tối đa lợi ích chính trị từ
phiên tòa. Rất đáng kể là vào giai đoạn cao trào chủ nghĩa bài Do Thái ở ta và
những tố giác cái gọi là “âm mưu Do Thái” tuyên truyền của ta đã gán cho chính
quyền Mỹ việc tiến hành chiến dịch bài Do Thái và săn đuổi những người Do Thái.
Tôi có cảm giác rằng ở Mỹ phiên tòa về
Rozenberg đã dấy lên sự mạnh mẽ tinh thần bài Do thái. Chúng ta đã lợi dụng điều
đó; nhanh chóng dịch ra tiếng Nga những vở kịch và tiểu phẩm của nhà văn Mỹ, thời
ấy là đảng viên cộng sản, Hovard Fast về chủ nghĩa bài Do Thái ở Mỹ. Vụ án
Rozenberg biến thành một trong những yếu tố tuyên truyền mạnh mẽ của ở ta và Ủy
ban hòa bình thế giới được thành lập với sự cổ vũ tích cực của chúng ta vào cuối
những năm 40.
Theo tôi nhớ, ở Mỹ vào những năm 40 thành
công của bốn mạng điệp báo: tại Francisco nơi có lãnh sự quán; ở Washington nơi
có sứ quán; ở New York - cơ sở đại diện thương mại “Amtorg” và lãnh sự quán; và
cuối cùng, ở Washington được lãnh đạo bởi nhóm trưởng Akhmerov. Ông lãnh đạo hoạt
động của Golox, một trong những người, tổ chức chủ yếu công tác tình báo gắn bó
chặt chẽ với ĐCS những năm 30. Bổ sung vào đó còn nhóm điệp viên hoạt động độc
lập ở Mexico được sự chỉ đạo của Vaxilevxky.
Tôi nhớ rằng sự chạy trốn sang Canada năm
1945 của Guzenko - nhân viên mật mã từ bộ máy tùy viên quân sự - có những hậu
quả kéo dài. Guzenko thông báo với các cơ quan phản gián Mỹ và Canada các cứ liệu
cho phép họ lần tới mạng điệp viên chúng ta đã hoạt động tích cực tại Mỹ vào những
năm chiến tranh. Hơn thế, y còn trao cho họ danh mục biệt danh của các nhà bác
học hạt nhân Mỹ và Canada mà chúng đã tích cực tìm hiểu. Các nhà bác học này
không phải là điệp viên, nhưng là những nguồn thông tin quan trọng về bom
nguyên tử.
Những tin tức nhận từ Guzenko, cũng như những
thú nhận của điệp viên tình báo quân đội Bentli bị FBI chiêu dụng, cho phép phản
gián Mỹ chui vào mạng điệp viên chúng ta. Thế nhưng bất cứ thông tin nào
Guzenko báo cho FBI, đều đòi hỏi sự kiểm tra kỹ lưỡng, mà điều đó cần hàng năm
trời làm lụng cật lực. Khi phản gián Mỹ đã tiếp cận các nguồn thông tin, chúng
ta đã nhận được tin tức quan trọng nhất về bom nguyên tử và đã phong tỏa liên lạc
với mạng điệp viên. FBI khẳng định rằng Guzenko đã giúp giải mã các bức điện đặc
biệt, và điều đó giúp khám phá ra các điệp viên Gold, Nana và Fuchs. Thế nhưng
tôi không cho việc giải mã các bức điện đóng vai trò quyết định trong sự phát
giác các chiến dịch tình báo của ta. Từ năm 1941 điệp viên Sults-Boizen (“Xtarsina”)
từ Berlin báo về chúng tôi rằng bọn Đức đã chiếm được một cuốn sách chỉ dẫn của
ta ở Petsamo, Na Uy. Tất nhiên chúng tôi đã thay các mã khóa của mình. Tôi nhớ
rằng năm 1944 trong phạm vi cộng tác giữa Stalin và Tito nảy sinh vấn đề về huấn
luyện kỹ thuật giải mã cho các cán bộ An ninh Nam Tư gửi sang ta. Lúc ấy
Ovakimian, phó Tổng cục tình báo NKVD, phụ trách địa bàn Mỹ đã kiên quyết phản
đối việc huấn luyện những người Nam Tư. Tôi còn nhớ ông đã nói: “Chúng ta đã thay đổi các khóa mã sau thất bại
của các nhóm ở Đức. Cần gì phải chia sẻ kinh nghiệm với các phái viên của Tito,
chúng ta có đủ cơ sở nghi ngờ trò chơi hai mặt của họ - trong sự cộng tác với
tình báo Anh”. Sự phản đối của Ovakimian được tiếp nhận.
Còn từ 1944 khi Zarubin từ Mỹ trở về,
Ovakimian đã e ngại rằng FBI đã cài được các điệp viên của nó vào các nhóm điệp
viên ta. Khi Zarubin giải thích các lời buộc tội được đưa ra chống lại ông,
nhưng dù sao để phòng ngừa, chúng tôi lại thay khóa mã số. Vì thế tôi không
nghĩ rằng FBI phát giác ra mạng điệp viên của ta trên cơ sở mật mã chiếm được ở
Petsamo.
Người Mỹ và người Anh đã giải mã được ghi
chép của các chỉ huy mạng điệp viên ở Washington, San Francisco, New York,
London, Mexico, Stokholm, Stambul, Xophia, Canberra với Moskva.
Chúng ta đã giảm nhẹ cho phía Mỹ công việc
này khi chuyển văn bản đầy đủ của các bức điện nhận được theo tuyến NKVD cho Quốc
tế cộng sản.
Do theo dõi thường xuyên sóng điện đài
chúng ta, các cơ quan đặc biệt Mỹ từ năm 1940, đã xác lập thông tin do báo chí
đưa; hơn 200 điệp viên Xô viết tham gia vào thu thập tài liệu về bom nguyên tử
và các tài liệu mật của các cơ quan chính phủ Mỹ trong đó có cả cơ quan đặc biệt.
Nhưng một loạt mật danh chủ chốt vẫn không bị phát giác.
Tháng 5-1995 FBI gạt bỏ giả thuyết của tôi
về việc tình báo chúng ta nhận cứ liệu về bom nguyên tử. FBI ghi nhận rằng
Fermi, Oppenheimer, Stsilard và Bor, không phải là gián điệp. Nhưng tôi cũng
đâu khẳng định điều đó.
Tháng 9-1992 ở quân y viện KGB tôi gặp đại
tá về hưu, cựu binh tình báo Iatskov mà Gold giữ liên lạc những năm 1945-1946.
Chúng tôi nhớ lại toàn bộ câu chuyện này được kể trong cuốn sách của Lamfer, về
sự bắt được bức điện báo từ lãnh sự quán ta ở New York gửi Moskva, kiểu như đó
là cơ sở để phản gián Mỹ tìm ra Fuchs, trong đó - có bức điện đã giải mã của
lãnh sự quán ta gửi Trung tâm về cuộc gặp của Gold và Fuchs vào tháng 1-1945
trong nhà chị gái của Fuchs là Kristel. Như Feklixov viết trong cuốn sách của
mình, như chứng cứ chống lại Fuchs là bản đồ Santa Fé ở bang New Mexico không
xa Los Alamos nơi được đánh dấu chỗ gặp của Gold và Fuchs. Được khẳng định rằng
trên bản đồ phát hiện khi lục soát nhà Gold, có dấu vân tay của Fuchs.
Đối với tôi, một nhà tình báo, những hoàn cảnh
không cho phép FBI chui được vào mạng điệp viên của ta là hoàn toàn dễ hiểu.
FBI không đủ thời gian trong một năm rưỡi tổ chức kiểm soát và nắm được hết một
số lượng chuyên gia từ nhiều nước đến Mỹ tham gia chương trình nguyên tử. Ở
Liên Xô phản gián của ta có những khả năng lớn hơn nhiều để kiểm tra những người
được lôi cuốn vào chương trình nguyên tử. Nó dựa trên hệ thống của những tài liệu
tác chiến.
Dù chúng ta đã len vào được giới thân cận của
Oppenheimer, Fermi và Stsilard thông qua Fuchs, Pontekorvo và những người khác,
chúng ta không bao giờ ngừng những nỗ lực của mình để nhận các tài liệu từ
phòng thí nghiệm Berkeley, bởi các soạn thảo của nó gắn chặt với các nghiên cứu
ở Los Alamos. FBI nắm được mối quan tâm của chúng ta, nhưng nó đánh giá quá cao
sự quan tâm đó và tập trung vào chống đối lại trong khi đó hướng này chỉ đóng
vai trò phụ.
Thông tin cực kỳ quý giá về bom nguyên tử
chúng ta nhận vào giai đoạn cuối, ngay trước vụ nổ thử đầu tiên. Vào giai đoạn
khi phản gián Mỹ tăng cường hơn công việc của nó, chúng ta đã cắt mọi tiếp xúc
với những điệp viên có liên hệ với ĐCS và những tổ chức “cánh tả” khác được cài
vào đề án. Kết quả là không ai trong số cộng tác với chúng ta bị bắt quả tang
và trực tiếp tại thời điểm chuyển thông tin.
Để kết luận tôi muốn nói: tình báo Xô viết
là người có sáng kiến triển khai các hoạt động quy mô rộng về chế tạo vũ khí
nguyên tử ở Liên Xô và giúp đỡ thiết thực cho các bác học chúng ta trong sự
nghiệp này. Thế nhưng vũ khí nguyên tử được chế tạo bởi những nỗ lực khổng lồ của
các nhà bác học nguyên tử và các cán bộ ngành công nghiệp.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét