Những Chiến Dịch Đặc Biệt
Tác giả: Pavel Xudoplatov
Người dịch: Nguyễn Văn Thảo
Thể loại: Hồi ký
Nhà xuất bản Công an nhân dân
Năm xuất bản: 2003 (Lưu hành nội bộ)
Chương 5: Tình Báo Xô Viết Trước Ngưỡng Cửa
Chiến Tranh
3. Hiệp ước Molotov - Ribbentrop. Trước ngưỡng
cửa cuộc chiến tranh
Tháng 8-1939 khối lượng thông tin tình báo tăng
vọt đột ngột. Chúng tôi nhận được những tin tức tin cậy về việc các chính phủ
Pháp và Anh không nóng vội giúp Liên Xô trong trường hợp chiến tranh với Đức.
Điều đó hoàn toàn trùng hợp với các tài liệu nhận được ba hay bốn năm về trước
từ nhóm Cambrige. Theo các tin tức này, văn phòng Hội đồng bộ trưởng Anh, chính
xác hơn, Nevill Chamberlain và ngài John Saimon xem xét khả năng thỏa thuận ngầm
với Hitler để giúp y trong sự đối kháng quân sự với Liên Xô. Thông tin từ ba
nguồn tin cậy ở Đức lưu ý đặc biệt: Đức Quốc xã kiên quyết phản đối chiến tranh
trên hai mặt trận.
Các chỉ thị nhận được buộc chúng tôi nhanh
chóng xem xét các phương án hợp tác với các bên về việc chống trả sự gây hấn
chiến tranh. Chỉ thị đề cập không chỉ đến các cuộc thảo luận từ đầu năm 1939 với
Anh và Pháp, mà còn cả với nước Đức. Ở Đức, các tướng lĩnh Đông Phổ ủng hộ sự
điều chỉnh các quan hệ hòa bình với Liên Xô.
Xem xét các khả năng lựa chọn tương ứng với
các chỉ thị nhận được (hoặc hiệp ước hòa bình với người Anh và người Pháp, hoặc
sự điều chỉnh hòa bình với Đức) tôi thậm chí không hình dung ra rằng các thương
thuyết kinh tế được kết thúc bằng hiệp ước về hợp tác của Berlin và Moskva. Khi
tôi được thông tin về việc ngoại trưởng Đức sắp đến Moskva ngày 23-8-1939 - chỉ
mấy giờ trước khi điều đó xảy ra, - tôi đã kinh ngạc. Sau khi Ribbentrop đến và
mười ba giờ tiếp theo của việc ký kết Hiệp ước không tấn công (sự kiện này diễn
ra trong điện Kremli vào hai giờ sáng ngày 24-8), đã trở nên rõ ràng: quyết định
được phê chuẩn không phải là bất ngờ. Mục đích chiến lược của ban lãnh đạo Xô
viết là tránh chiến tranh trên hai mặt trận bằng bất cứ giá nào - ở Viễn Đông
và ở châu Âu. Đường lối ngoại giao như thế, không gắn với những tính toán, đã
được thiết lập từ những năm 20, khi Liên Xô thực hiện hợp tác kinh tế và ủng hộ
các quan hệ bình thường với Italia sau khi Benito Mussolini lên cầm quyền năm
1922. Lãnh đạo Kremli đã sẵn sàng thỏa hiệp với bất cứ chính thể nào nhằm bảo đảm
ổn định cho Liên Xô. Đối với Stalin và giới thân cận của ông việc biến Liên Xô
thành một cường quốc hùng mạnh nhất thế giới luôn luôn là sự ưu tiên.
Nhưng khả năng phát triển ổn định chỉ có thể
sau khi hoàn tất tập thể hóa năm 1934. Trước đó chúng ta đã trải qua tuần tự nội
chiến, nạn đói, sự điêu tàn. Và chỉ đến giữa những năm 30 công nghiệp hóa mới
đem lại những thành quả ban đầu. Sự hùng hậu của quốc gia đang lớn mạnh được chứng
tỏ trong những hoạt động quân sự thành công chống Nhật Bản, Mông Cổ và Mãn
Châu. Dù đã thiết lập quan hệ ngoại giao với tất cả các nước hàng đầu thế giới,
mặc dù thế chúng ta vẫn bị cô lập, nó thể hiện một cách trực quan khi các cường
quốc thế giới không cho chúng ta tham dự các quyết định mà quyền lợi của họ phụ
thuộc vào đó. Tất cả các hiệp định về châu Âu và châu Á được phê chuẩn bởi các
nước phương Tây và Nhật Bản đều gây tổn hại cho các quyền lợi của Liên Xô. Hiệp
định Anh - Đức năm 1935 kêu gọi tái vũ trang lực lượng quân đội-hải quân Đức,
và các hiệp định tiếp theo giữa các cường quốc thế giới về trang bị các loại vũ
khí hiện đại cho các hạm đội của mình, thậm chí người ta không nhắc đến Liên
Xô.
Phái đoàn Pháp và Anh đến Moskva mùa hè năm
1939 để thăm dò khả năng thành lập một liên minh có thể chống Hitler, bao gồm
chỉ những nhân vật hạng hai. Như thế, đường lối của Stalin trong quan hệ với
Hitler dựa trên sự suy đoán đúng đắn, rằng tính thù địch của thế giới phương
Tây và Nhật Bản đối với thể chế Xô viết sẽ làm cho thế cô lập của Liên Xô càng
nghiêm trọng.
Nhìn lại, không thể không đi tới kết luận rằng
ba đồng minh tương lai - Liên Xô, Anh và Pháp - có lỗi trong việc cho phép Hitler
triển khai thế chiến II. Thái độ không thân thiện và mâu thuẫn - đã cản trở sự
thành công của thỏa hiệp giữa một bên là Anh và Pháp, với Liên Xô. Sự thỏa hiệp
hẳn đã cho phép chung sức ngăn cuộc xâm lăng của Hitler chống Ba Lan. Các sử
gia thế chiến II không hiểu sao đã bỏ qua rằng các cuộc thương thuyết Anh -
Pháp - Xô năm 1939 được bắt đầu trên thực tế theo sáng kiến của tổng thống Mỹ
Franklin Roosevelt. Donald Maklin báo rằng phái đại diện của mình tới thủ tướng
Anh Chamberlain với lời cảnh báo: sự thống trị của Đức ở Tây Âu hẳn là nguy hại
cho các quyền lợi của cả Mỹ lẫn Anh. Roosevelt kích động Chemberlain để kìm chế
Hitler tham gia vào các thương thuyết với những đồng minh châu Âu của Anh, kể cả
Liên Xô. Các nguồn tin báo rằng chính phủ Anh tỏ vẻ miễn cưỡng với sáng kiến của
Mỹ, vậy nên buộc phải gây sức ép lên người Anh, để buộc họ chịu thương thuyết với
chính quyền Xô viết về việc soạn thảo các biện pháp quân sự để đối chọi với
Hitler.
Mặc dù vậy, sự nhanh chóng mà hiệp ước
không tấn công được ký với Hitler, đã làm tôi sửng sốt: mới hai ngày, trước khi
nó được ký kết, tôi nhận được lệnh tìm kiếm mọi cách có thể để điều chỉnh quan
hệ hòa bình với nước Đức. Chúng tôi còn tiếp tục gửi những đề nghị chiến lược
cho Stalin và Molotov, thế mà hiệp ước đã được ký: Stalin tự mình tiến hành
thương lượng trong hoàn cảnh bí mật nghiêm ngặt nhất.
Tôi không biết gì về các biên bản Hiệp ước
Molotov - Ribbentrop, nhưng nói chung các biên bản bí mật loại này là sự thường
thấy trong các quan hệ ngoại giao động chạm đến những vấn đề đặc biệt phức tạp.
Trước ngưỡng cửa chiến tranh, chính phủ Anh đã ký những hiệp ước bí mật với Ba
Lan - đề cập đến sự trợ giúp quân sự cho Ba Lan trong trường hợp chiến tranh với
Đức. Năm 1993, ví dụ, một tờ nhật báo Đức đã đăng biên bản mật và ghi chép các
cuộc nói chuyện bí mật giữa Gorbachov và thủ tướng Helmut Kol diễn ra ngay trước
khi hợp nhất nước Đức. Và hiện giờ, khi đọc các biên bản mật Hiệp ước Molotov -
Ribbentrop, tôi chẳng tìm thấy có gì bí mật trong chúng. Các chỉ thị dựa vào
các hiệp định được ký kết, khá là rõ ràng và xác định: không chỉ lãnh đạo cơ
quan tình báo, mà cả giới lãnh đạo quân đội và các nhà ngoại giao biết về
chúng. Bản đồ thực tế sự phân chia Ba Lan, phụ lục cho biên bản ngày 28-9-1939,
đã xuất hiện trên các trang báo Sự Thật, thiếu chữ ký của Stalin và Ribbentrop, và
cả thế giới đều có thể nhìn thấy nó. Ấy nhưng lúc đó nước Ba Lan đã bị chiếm
đóng.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét