Tầng Đầu Địa Ngục
(The First Circle)
Tác giả: A. Solzhenitsyn
Dịch giả: Hải Triều
Nhà xuất bản Đất Mới - Sài Gòn
Năm xuất bản 1973
Chương 33 - Chuyện vặt trong tù
Nerzhin đến giúp Potapov chế tạo cái bánh
ngọt. Trong những năm dài đói khát vì bị quân Đức bắt làm tù binh rồi ở tù
trong những nhà tù Xô Viết, Potapov đã học được sự thật là ăn không phải là một
cái gì đáng để cho con người xấu hổ, chê bỏ, chán ghét, ngược lại, ăn là một thống
khoái của đời sống, ăn là tinh hoa của đời sống con người.
Tôi muốn
biết thì giờ
Qua
những bữa ăn...
Ăn
sáng, ăn trưa, ăn tối...
Người kỹ sư điện cao thế hát nho nhỏ. Mặc
dù anh đã dâng hiến trọn vẹn cuộc đời cho những dòng điện tới cả ngàn kilowatt,
Potapov, nhờ khéo tay và thông minh, rất sớm đã trở thành một chuyên viên nấu bếp
cừ khôi: anh có thể chế tạo những chiếc bánh cam bằng vỏ khoai tây và trong Viện
Mavrino, anh nổi tiếng với tài làm bánh ngọt và những món tráng miệng.
Lúc này, Potapov đang bận rộn trước hai cái
bàn nhỏ kê liền lại, đặt giữa giường anh và giường của Pryanchikov. Khi Nerzhin
tới, Potapov đang long trọng pha sữa đặc, sô-cô-la và hai quả trứng gà (đa số
những món này do Rubin cung cấp, Rubin thường nhận được đồ tiếp tế và bao giờ
cũng ăn chung với anh em) thành một thứ dung dịch không có tên trong ngôn ngữ của
nhân loại. Potapov đưa ra nhận xét là Nerzhin đến muộn và sau đó, ra lệnh cho
Nerzhin đi tìm ngay hai cái ly sắt có thể dùng làm khuôn bánh. Nerzhin đề nghị
để anh đi mượn hai cái ca dùng để cạo râu, anh sẽ rửa hai cái ca sắt này bằng
nước nóng.
Cảnh nghỉ ngơi thảnh thơi của ngày Chủ nhật
ngự trị trên gian phòng đầy những giường ngủ. Nhiều người nằm trên giường nói
chuyện với bạn, nhiều người khác đang đọc sách, những mẩu đối thoại bay đi, bay
lại quanh họ. Nhiều người khác nằm yên, hai tay đặt dưới đầu, nhìn ngay lên trần
phòng.
Tất cả những thứ tiếng ấy hòa hợp thành một
âm thanh hỗn độn.
Tù nhân Zemelya, nằm phây phây trên chiếc
giường trên, anh bận quần cụt, ở trần, tay mân mê những sợi lông trên ngực, miệng
mỉm nụ cười vui và hiền lành thường trực, đang kể một câu chuyện với tù nhân
Miska Mordvin nằm cách anh hai giường:
- Nếu chú muốn biết sự thật... Tất cả những
bê bối này bắt đầu bằng một nửa đồng kopeck.
- Sao? Liên can gì đến đồng kopeck?
- Trước đây, trong năm 1926, 1928 gì đó,
năm đó chú còn nhỏ xíu, ở trước những ghi-sê phát tiền người ta có treo tấm bảng
“Nhớ lấy cả những đồng một nửa kopeck tiền lẻ”. Thời đó có đồng nửa kopeck. Bọn
phát tiền có bổn phận phải trả đủ cả từng đồng. Đó là thời thanh bình...
- Thời đó không có chiến tranh sao?
- Không có chiến tranh, chú có thể tưởng tượng
được không? Đó là thời trước chiến tranh. Thanh bình. Phải đó, thanh bình.
Trong những công sở người ta làm việc sáu tiếng đồng hồ một ngày, không phải
làm quá nhiều giờ như bây giờ. Và mọi việc đều êm đẹp. Mọi người làm việc tốt.
Chỉ cần chú phải làm việc thêm mười lăm phút là người ta trả chú tiền phụ trội
liền. Chú nghĩ coi cái gì biến mất trước nhất? Những đồng nửa kopeck. Tình trạng
bê bối bắt đầu. Rồi đến những đồng tiền biến mất. Tới năm 1930, những đồng bạc
biến nốt. Không còn tiền lẻ nữa. Đôi khi, họ không thèm trả chú cả những đồng
ruble lẻ. Kể từ đó, những sai lầm theo nhau đến. Ở ngoài phố, bọn hành khất
không thèm hỏi xin đồng kopeck nữa, họ nói: “Bạn công dân, cho tôi một đồng
ruble...”. Khi lãnh tiền lương do nhà nước trả, chú chớ dại mà đòi họ trả cho
chú cả những đồng kopeck ghi trên sổ lương, họ sẽ cười vào mũi chú, họ sẽ gọi
chú là... đồ bần tiện, bủn xỉn. Nhưng họ đã lầm: đồng nửa kopeck tuy nhỏ nhưng
nó tượng trưng cho sự lương thiện của con người, cho sự kính trọng con người.
Nói cách khác, họ coi thường con người, họ đái lên đầu con người. Không ai đòi
hỏi quyền được hưởng những đồng nửa kopeck. Và con người mất giá trị vì thế.
Trên một chiếc giường khác, một tù nhân
đang đọc sách ngừng lại để nói với người nằm ở giường bên:
- Chính phủ của Nga Hoàng thối nát. Một
chính phủ yếu xìu như thế không đổ sao được. Anh nghe này: Một thiếu phụ cách mạng
tuyệt thực trong tám ngày để bắt một anh quản đốc nhà tù phải xin lỗi... Và anh
quản đốc ngu đần này chịu xin lỗi... Bây giờ làm gì có ai dám nghĩ đến chuyện
đòi Quản đốc Nhà tù Krasnaya Presnya xin lỗi...?
[Những người tù
này đang nói đến cuốn tiểu thuyết Người mẹ của Maxime Gorki]
- Bây giờ họ sẽ nhét thức ăn vào ruột bà ta
vào ngày tuyệt thực thứ ba. Sau đó, họ cho bà ta thêm một hạn tù nữa vì tội
khiêu khích. Anh đọc chuyện đó ở đâu vậy?
- Trong tiểu thuyết của Gorki.
Tù nhân Dvoyetyosov nằm gần đó ngóc đầu
lên:
- Ai đọc Gorki đó?
- Tôi.
- Đọc làm chi vậy?
- Đọc để biết chuyện ngày xưa ra sao, cũng
có lợi lắm chứ. Như những chi tiết Gorki tả về khám đường Niznhy Novgrod chẳng
hạn. Ở khám đường này, anh có thể bắc thang trèo qua tường mà không ai ngăn cản
anh hết. Anh có thể tưởng tượng nổi chuyện ấy không? Về bọn giám thị thì Gorki
tả cho ta biết rằng họ có súng lục nhưng lâu quá không được dùng đến nên súng rỉ
hết, họ chỉ có thể dùng súng vào việc thay búa đóng đinh lên vách. Biết được những
chuyện ấy cũng có lợi lắm chứ?
Ở bên dưới họ, đề tài thảo luận được nói đến
luôn trong những nhà tù đang được nhiều người tham dự. Đó là đề tài Người ta nên ở tù lúc nào nhất? Cách đặt
câu hỏi này cho người ta thấy quan niệm chung là ở đời này không ai tránh khỏi
việc ở tù, chẳng sớm thì muộn ai cũng phải tù. Những người ở tù thường có
khuynh hướng phóng đại số người ở tù. Thực ra hiện giờ chỉ có khoảng từ mười
hai triệu đến mười lăm triệu người đang ở tù song những tù nhân tin rằng có tới
hai mươi triệu đến ba mươi triệu người đang ở tù. Họ cho rằng bên ngoài nhà tù
gần như không còn đàn ông nữa. Câu hỏi “Người
ta nên ở tù lúc nào nhất?” ngụ ý muốn hỏi người ta nên ở tù khi còn trẻ hay
ở tù khi đã già? Nhiều tù nhân thường là những anh trẻ. Ở tù trẻ, người ta có dịp
tìm biết nghĩa lý của đời sống, biết những gì có giá trị thực trong đời và những
gì tầm thường, để tới năm ba mươi nhăm tuổi, sau khi đã ở tù mười năm, người
đàn ông vừa trưởng thành có thể xây dựng đời mình trên những căn bản hiểu biết
khôn ngoan và đứng đắn. Những người ở tù khi đã già có thể khổ sở khi thấy rằng
đời mình là một chuỗi dài những sai lầm đó. Nhiều tù nhân khác - đa số là những
ông tù già - cũng lạc quan không kém khi nói rằng người ta nên ở tù khi về già,
về già đi tù là nhất. Vì khi đã già, người ta vào tù như vào Viện Dưỡng Lão vậy.
Lúc đó người ta đã tận hưởng được tất cả những lạc thú ở đời. (Trong ngôn ngữ của
tù nhân, “tất cả” có nghĩa là việc có
một tấm thân đàn bà, quần áo tốt, thức ăn tốt và rượu mạnh). Họ đưa ra nhận xét
là đời sống trong tù không làm hại gì được những người già trong khi nó có thể
làm hại rất nhiều những người trẻ. Có những người trẻ, sau khi được ra khỏi tù,
trở thành “không còn thích đàn bà”.
Đó là đề tài đang được bàn cãi sôi nổi nhất
trong phòng. Tù nhân thường rất ham nói. Nhiều người nói để trấn an mình, để an
ủi mình, nhiều người nói để tự hành hạ mình, tự làm mình thêm khổ sở. Nhưng rốt
cuộc, vấn đề vẫn không được sáng tỏ hơn, vẫn không ai nắm được sự thật. Trong
những buổi chiều Chủ nhật người ta thấy ở tù là một lạc thú, nhưng khi họ trở dậy
vào sáng thứ Hai, ở tù bao giờ cũng là một cực hình.
Nhưng việc thảo luận về đề tài ở tù vào tuổi
nào tốt trên đây tuy có nhiều người tham dự nhưng không bao giờ đưa những người
tham dự đến chỗ kích động, to tiếng. Trái lại, cuộc trao đổi ý kiến đưa họ đến
gần nhau hơn trong nỗi buồn chung. Cuộc thảo luận không dẫn người ta đến đâu hết,
nhất là không làm cho người ta cáu giận.
Cuộc thảo luận về đề tài ở tù tàn đi, gian
phòng im lặng trong một lúc, sau đó người ta nghe tiếng Khorobrov nói:
- Khi người mình bắt đầu chuyến bay đầu
tiên lên mặt trăng, tự nhiên là sẽ có một cuộc họp cuối cùng trước khi hỏa tiễn
khai hỏa. Phi hành đoàn sẽ nguyện tiết kiệm đến tối đa nguyên liệu, nguyện phá
kỷ lục tốc lực, nguyện không ngừng phi thuyền đang bay lại để sửa chữa... Một
trong ba phi hành gia phải là một cán bộ chính trị. Trong chuyến bay, cán bộ
này sẽ yêu cầu hai phi hành gia kia học tập chính trị và lấy lời tuyên bố của họ
gửi về đăng báo.
Pryanchikov nghe được lời tiên đoán này
trong lúc anh đi ngang gian phòng với chiếc khăn tắm và hộp đựng xà bông. Như
người biểu diễn một động tác vũ điệu, anh nhảy tới bên giường Khorobrov và
nghiêm trọng nói:
- Ilya Terentich... cho phép tôi được cải
chính: việc xảy ra sẽ không như anh nói đâu... Bởi vì...
Pryanchikov đưa ngón tay trỏ lên môi với vẻ
bí mật như một diễn viên trong một phim trinh thám:
-... người Hoa Kỳ sẽ lên mặt trăng nước.
Chàng cười, tiếng cười trong như tiếng của
một đứa trẻ, rồi nhảy đi.
Anh thợ khắc ngồi cạnh Sologdin trên giường.
Anh và Sologdin đang say mê thảo luận về đề tài đàn bà. Anh thợ khắc đã ngoài bốn
mươi, tuy nét mặt anh còn trẻ, tóc anh đã có nhiều sợi bạc. Mái tóc ấy hợp với
anh.
Hôm nay, anh thợ khắc đang hài lòng. Quả thực
là anh đã lầm khi anh vội nuốt bản truyện ngắn của anh trong phòng khám trước
khi lên xe đi gặp vợ, nếu anh đừng quá vội, anh có thể đem được truyện ra ngoài
và trao cho vợ anh. Nhưng trong cuộc gặp mặt, vợ anh có nói cho anh biết rằng
chị đã đưa cho nhiều người tin cẩn và có uy tín đọc những truyện ngắn gửi ra
trước đây của anh và tất cả mọi người đều khen là hay, là truyện rất giá trị.
Anh cũng biết rằng vợ anh có thể phóng đại những lời khen và những người thân
được chị cho coi những đoản thiên ấy thường chỉ khen chứ không chê, nhưng dù
sao anh vẫn thấy sung sướng. Anh nghĩ rằng dù anh viết hay hoặc viết dở, anh
cũng đã ghi lại được cho hậu thế những sự thật về sự đối xử của Stalin với những
chiến sĩ Nga bị Đức bắt làm tù binh trong trận thế chiến thứ Hai, anh nói lên
tiếng kêu thương ai oán của cả triệu người không may đó. Anh cảm thấy kiêu hãnh
và anh tự nguyện sẽ tiếp tục viết truyện. Cuộc gặp gỡ hôm nay còn đem lại cho
anh nhiều tin vui: vợ anh vẫn trung thành với anh, vẫn chờ đợi anh, chị đã gửi
nhiều đơn xin cho anh được tự do, chị đã nhờ nhiều luật sư uy tín biện hộ cho
anh và chắc chắn là trong thời gian tới, họ sẽ có tin vui hơn nữa.
Trước hết, anh thợ khắc nói về hai chị vợ
người Nga của anh, sau đó anh nói đến cuộc sống của anh khi anh là tù binh Đức ở
trên đất Đức và những chị đàn bà Đức khả ái mà anh được gần ở đó. Anh so sánh
đàn bà Nga với đàn bà Đức và đây là lần đầu tiên Sologdin được nghe nói đến sự
cách biệt này. Anh thợ khắc nói rằng đàn bà Nga quá tự lập, quá tự tin, không
chịu chấp nhận thiệt thòi khi yêu, họ quan sát người đàn ông họ yêu, tìm hiểu
những nhược điểm của người yêu, và tấn công vào những lúc người họ yêu ít can đảm
nhất. Đàn bà Nga bao giờ cũng ngang hàng với đàn ông trong tình yêu. Trong khi ấy,
người đàn bà Đức mềm như một cây lau trong bàn tay người đàn ông họ yêu. Đàn bà
Đức coi người đàn ông họ yêu là ông chúa, là người đàn ông duy nhất trên trái đất,
người tốt nhất, đáng quý nhất. Họ hoàn toàn lệ thuộc và theo ý muốn người họ
yêu. Họ chỉ mơ đến chuyện làm sao làm cho người họ yêu hài lòng. Vì vậy, anh thợ
khắc thấy rằng với đàn bà Đức, anh sung sướng hơn, anh là ông chủ, là ông chúa.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét