Những Chiến Dịch Đặc Biệt
Tác giả: Pavel Xudoplatov
Người dịch: Nguyễn Văn Thảo
Thể loại: Hồi ký
Nhà xuất bản Công an nhân dân
Năm xuất bản: 2003 (Lưu hành nội bộ)
Chương 9: Raul Vallenberg, “Phòng Thí Nghiệm
- X” Và Những Bí Mật Chính Trị Khác Của Kremli
3. Khu đặc biệt của nhà tù nội bộ và phòng
thí nghiệm đặc biệt của NKVD-MGB những năm 1940-1950
Ở Moskva, bị giam trong khu đặc biệt của
nhà tù Lubianka có các nhân vật đặc biệt quan trọng cần chiêu dụ, nếu họ từ chối,
họ bị thủ tiêu. Các biên bản hỏi cung Vallenberg đều đặn được gửi cho phòng nước
Đức của tình báo chúng ta. Có khả năng, các điều tra viên dọa ông khi buộc tội
ông có quan hệ với Gestapo.
Từ những tài liệu được công bố trên báo chí
thấy rõ: Vallenberg bị giam ở Moskva trong hai nhà tù, nhà tù nội bộ ở Lubianka
và ở Lefortovo.
Khu đặc biệt của nhà tù nội bộ giống một
khách sạn hơn nhà tù. Các phòng giữ những người bị bắt chỉ có thể gọi tạm là
phòng giam: trần cao, đồ gỗ bình thường. Thức ăn được đem tới từ nhà ăn hay nhà
hàng của NKVD, tất nhiên khác hẳn thức ăn nhà tù. Thế nhưng đó là điềm báo dữ.
Trong tòa nhà này có ban quản trị NKVD-MGB nơi những năm 1937-1950 tiến hành thực
thi bản án liên quan đến những nhân vật bị kết án tử hình, cũng như những ai cần
thủ tiêu đặc biệt, tức không qua xét xử.
Tại ngõ Varxonofiev, đằng sau nhà tù
Lubianka, là phòng thí nghiệm chất độc và xà lim đặc biệt của nó trực tiếp trực
thuộc Bộ trưởng và ban quản trị. Phòng thí nghiệm chất độc trong các tài liệu
chính thức được gọi là “Phòng thí nghiệm
- X”. Trưởng phòng thí nghiệm là đại tá quân y, giáo sư Mairanovxky chuyên
nghiên cứu ảnh hưởng của các khí độc và thuốc độc chết người và bệnh ung thư.
Trong các giới khoa học giáo sư được đánh giá cao.
Toàn bộ công việc của phòng thí nghiệm, các
cán bộ được sử dụng cho các chiến dịch của cơ quan đặc biệt, cũng như việc đi
vào phòng thí nghiệm bị hạn chế hà khắc, thậm chí đối với cả thành phần lãnh đạo
của NKVD-MGB, như tôi và phó của tôi Eitingon, cũng không được đến gần “Phòng thí nghiệm - X” và khu đặc biệt.
Phụ trách công việc của phòng thí nghiệm là
Bộ trưởng và Thứ trưởng thứ nhất, về phòng thí nghiệm này đến giờ vẫn còn nhiều
lời đồn đại kinh khủng. Sự kiểm tra tiến hành từ thời Stalin sau việc bắt giữ
Mairanovxky, còn sau đó thời Khrusev trước 1960 trong mục đích đả phá Stalin,
cho thấy rằng Mairanovxky và các cán bộ nhóm của ông được dùng để thi hành các
bản án tử hình và thủ tiêu những nhân vật không có lợi theo quyết định trực tiếp
của chính phủ những năm 1937-1947 và năm 1950. Tôi biết những hành động loại
này cũng được tình báo chúng ta thực hiện ở nước ngoài vào những năm 60-70. về
điều này thiếu tướng KGB Oleg Kalugin đã viết.
Các sĩ quan tình báo và phản gián dưới sự
chỉ đạo của Utekhin, đã làm việc với Vallenberg. Thường là trung tá Kapelianxky
hỏi cung. Ông ta bị sa thải khỏi cơ quan năm 1951 do nguồn gốc Do Thái. Dù sự
tham gia của Kapenlianxky vào những cuộc hỏi cung được khẳng định bằng văn bản,
tên ông ta ghi trong sổ trực gọi tù nhân đi hỏi cung chỗ điều tra viên, ông ta
phủ nhận điều đó và nói rằng không nhớ tù phạm nào có tên như thế. Thế nhưng
theo các ghi chép trong sổ thấy rõ chính Kapelianxky gọi Vallenberg từ xà lim đến
hỏi cung một ngày trước cái chết của ông.
Vụ Vallenberg đến đầu tháng 7-1947 đã rơi
vào ngõ cụt. Ông từ chối cộng tác với tình báo Xô viết và đã không còn cần thiết
như một nhân chứng của các trò chơi chính trị bí mật, hoặc như một con tin tòa
án Nuremberg đã kết thúc.
Giống như Vallenberg bị chuyển vào xà lim đặc
biệt của “Phòng thí nghiệm - X” nơi
người ta tiêm cho ông một mũi tiêm chết người với lý do chữa bệnh. Cơ quan y tế
nhà tù không có chút khái niệm gì về điều đó, và cái chết của ông được xác nhận
theo cách thông thường. Thế nhưng bộ trưởng an ninh Abakumov hẳn được báo về
nguyên nhân cái chết, đã cấm mổ tử thi và đã hỏa táng ông.
Những người bị hỏa táng đều chôn vào mộ
chung. Sau này người ta rất không muốn thừa nhận rằng những người nổi tiếng như
Tukhatrevxky, Iakir, Uborevich, Meierkhold và những người khác được chôn trong
mộ chung đó. Nhà hỏa thiêu của tu viện Donxkoi lúc đó là duy nhất, vì thế có thể
trong ngôi mộ ấy đang có di hài thủ trưởng, bạn và thầy tôi Spigenglaz và nhà
lãnh đạo tình báo Xerebrianxky. Cũng rất có khả năng là di hài Vallenberg và
Beria đều được chôn ở đó.
Tháng 6-1993 tờ Tin tức đăng bài báo của Makximova Vallenberg đã chết. Đáng tiếc,
chứng cứ có đủ, còn báo Hôm Nay,bài
báo của Abarinov “Người ta không chỉ rửa
tiền mà còn cả các giả thuyết”. Trong cả hai bài báo đều dẫn từ các tài liệu
liên quan đến số phận Vallenberg.
Từ ghi chép công vụ của Vưsinxky gửi
Molotov (1947) thấy rõ rằng, cuối 1944 người Thụy Điển đề nghị Bộ Ngoại giao
Liên Xô bảo vệ bí thư thứ nhất của phái đoàn Thụy Điển ở Budapest, Raul
Vallenberg.
Sau một thời gian người Thụy Điển thông báo
với Bộ Ngoại giao rằng Vallenberg không có trong phái đoàn của họ khi rời
Budapest và đề nghị tìm kiếm ông. Về vấn đề này họ gửi 8 công hàm đến các cấp
Liên Xô và 5 lần dò hỏi miệng. Đại sứ Thụy Điển ở Moskva Sederblom năm 1946 trực
tiếp xin riêng Stalin làm sáng tỏ số phận Vallenberg.
Về phần mình Bộ Ngoại giao cũng mấy lần hỏi
XMERS và Bộ An ninh về Vallenberg. Cuối cùng vào tháng 2-1947 Bộ Ngoại giao được
thông tin bởi P.Fedotov lúc ấy là trưởng Tổng cục tình báo, rằng Vallenberg ở
trong tay MGB.
Từ ghi chép công vụ đã nhắc tới, Vưsinxky viết:
“bởi vụ Vallenberg đến hiện nay tiếp tục
không tiến triển, tôi đề nghị bắt đồng chí Abakumov trình bản trường trình về
thực chất vụ việc và về đề nghị thủ tiêu ông ta”.
Đối với tôi không có nghi ngờ ý nghĩa
đáng sợ trong những lời cuối của Vưsinxky. Ông ta không đề nghị khép vụ án (hồi ấy
dùng chữ ngưng vụ án), mà hầu như “đòi” để Abakumov trình đề nghị thủ tiêu
Vallenberg như một nhân vật không mong muốn đối với lãnh đạo Liên Xô. Và thế,
Vưsinxky đã có yêu cầu như thế, điều cực kỳ quan trọng, vốn là phó của Molotov
về công tác tình báo mà thời đó được thực hiện bởi Ủy ban thông tấn. Fedotov,
người báo với Vưsimtky về việc Vallenberg đang trong nhà tù, hồi đó cũng là một
trong những lãnh đạo Ủy ban thông tấn.
Chỉ thị của Molotov trên ghi chép của
Vưsinxky cũng có ý nghĩa lớn: “Gửi đ/c
Abakumov. Yêu cầu báo cáo với tôi, 18.5.1947”.
Thực tế đó là sự chỉ thị của người phó đứng
đầu chính phủ và là lãnh đạo tình báo yêu cầu trình đề nghị về việc thủ tiêu
Vallenberg như thế nào. Sau khi đề nghị được xem xét, Stalin hoặc Molotov cho sự
đồng ý của mình bằng miệng hoặc đôi khi bằng văn bản. Nếu nói miệng, thì
Abakumov như được xác định trong tiến trình kiểm tra và điều tra vụ án ông ta,
ghi trên các tài liệu ấy: “Đã nhận được sự
đồng ý của các đ/c Stalin, Molotov” và ghi ngày tháng.
Theo các tài liệu chính thức: Vallenberg chết
ngày 17-7-1947. Thế nhưng 18-8-1947 Vưsinxky thông tin cho đại sứ Thụy Điển về
việc chính phủ Xô viết không có các tư liệu về Vallenberg và ông ta không thể bị
bắt giữ bởi chính quyền Xô viết, mà rất có thể, đã là nạn nhân vô tình của những
trận đánh trên đường phố Budapest.
Vào ngày 3-5-1956 trong tiến trình đàm phán
Thụy Điển - Liên Xô diễn ra ở Moskva, phía Thụy Điển trao cho chính phủ ta các
tài liệu liên quan đến Raul Vallenberg. Lúc ấy BCHTƯ đã phê chuẩn quyết định kiểm
tra và làm sáng tỏ các hoàn cảnh cái chết của nhà ngoại giao Thụy Điển. Quyết định
của BCHTƯ đến tận bây giờ vẫn chưa công bố.
Chính phủ Xô viết thông tin cho chính phủ
Thụy Điển rằng các cơ quan chuyên ngành đã nghiên cứu và kiểm tra các tài liệu
phía Thụy Điển trao về Raul Vallenberg. Những cuộc tìm kiếm thận trọng trong
lưu trữ nhà tù ở Lubianka, Lefortovo cũng như Vladimir và các nhà tù khác đã
không cho được gì cả: không phát hiện ra các tin tức về việc Vallenberg đến
Liên Xô (năm 1947 chúng ta thông báo với Bộ Ngoại giao rằng Vallenberg ở trong
tay MGB). Các cơ quan chuyên trách sau đó kiểm tra tất cả các tài liệu lưu trữ
của các cơ quan bổ trợ, kết quả trong tài liệu cơ quan quân y nhà tù nội bộ ở
Lubianka phát hiện ra báo cáo của Xmoltsov gửi cựu Bộ trưởng An ninh Abakumov.
Báo cáo nói rằng tội nhân Vallenberg đã bất ngờ chết trong xà lim của mình tối
17-7-1947. Nguyên nhân cái chết: vỡ động mạch cơ tim.
Tôi cho rằng sự tiêu hủy các tài liệu điều
tra lưu trữ về vụ Vallenberg bắt đầu trong quá trình kiểm tra. Thấy rõ bởi người
có sáng kiến trực tiếp việc bắt giữ và ám hại ông là Molotov và Bulganin, tất cả
đang nắm quyền lực và giữ chức vụ chủ đạo trong giới lãnh đạo đất nước. Bulganin
ký lệnh bắt Vallenberg, đang đứng đầu chính phủ, còn Molotov ra lệnh thủ tiêu
nhà ngoại giao Thụy Điển, vẫn đang ở trong ban lãnh đạo tối cao của nhà nước.
Mười năm sau cái chết của Vallenberg, chính
quyền thừa nhận chính thức sự kiện bắt giữ Vallenberg, nhốt ông vào ngục và chết
vì vỡ động mạch cơ tim. Nó cũng tuyên bố rằng Raul Vallenberg bị bắt một cách
phạm pháp theo lệnh Abakumov, kẻ vì những tội ác phạm phải trong đó có việc bắt
Vallenberg, đã chịu hình phạt khốc liệt nhất.
Đó là sự dối trá trơ tráo. Trong tiến trình
điều tra vụ án đã không đưa ra lời buộc tội như thế đối với Abakumov.
Đến giờ vẫn chưa tìm ra trong lưu trữ KGB
ghi chép của Abakumov gửi Molotov mà trong đó hẳn phải trình bày bản chất sự việc
Vallenberg, và hẳn là chứa những đề nghị khốc hại đối với ông ta, do Vưsinxky
tác động.
Thế nhưng trong lưu trữ KGB, như người ta
tuyên bố với con trai tôi mùa thu 1994, đã tìm được một tài liệu từ đó thấy rằng
chủ tịch KGB Xerov đề nghị Molotov tiếp ông ta nhân vụ Vallenberg vào tháng
2-1957, khi chuẩn bị công hàm ngoại giao gửi chính phủ Thụy Điển với sự thừa nhận
việc bắt giữ Vallenberg và cái chết của ông.
Hiện thời chưa phát hiện ra ghi chép của
Xerov trong đó ông ta trước khi chuẩn bị công hàm chính thức của chính phủ Liên
Xô, phải báo với Khrusev và Bulganin, tương ứng là bí thư thứ nhất BCHTƯ và chủ
tịch Hội đồng bộ trưởng, về điều gì đã xảy ra với Vallenberg.
Biết kiểu cách của Khrusev, tôi khẳng định
rằng ông ta giữ trong lưu trữ của mình ghi chép của Xerov một cách vô điều kiện,
chứa đựng sự bôi nhọ nghiêm trọng Molotov. Đối với Khrusev ghi chép này có ý
nghĩa thiết thực trong hoàn cảnh đấu tranh gay gắt vì quyền lực vào đầu năm
1957 mà kết thúc, như đã rõ, bằng sự thất bại của cái được gọi là nhóm chống đảng
Molotov, Kaganovich, Malenkov và gia nhập với họ là Sepilov. Thế nhưng nguyên
do gì không rõ đối với tôi, Khrusev đã không lợi dụng vụ Vallenberg chống lại
Molotov. Tôi vẫn nhớ các điều tra viên đã khá lì lợm lấy từ tôi các số liệu về
sự tham gia của Molotov trong các vụ việc bí mật với các nhà công nghiệp và ngoại
giao phương Tây, và tôi hiểu rằng những câu hỏi của họ còn lâu mới là tình cờ.
Nhưng cái tên Vallenberg lúc ấy chưa được chú trọng.
Xerov nhất thiết phải xin phép Khrusev để
tiêu hủy các tài liệu về vụ Vallenberg. Hoàn toàn có thể là sau đó nó được tiêu
hủy. Nguyên nhân là rõ ràng: tháng 2-1957 Molotov đang còn mạnh và là nhân vật
khá uy tín trong lãnh đạo. Ông cũng như những nhà hoạt động nhà nước khác có
liên hệ trực tiếp đến những hoạt động tai tiếng, hẳn quan tâm để những chứng cứ
biến đi.
Nhất thiết phải còn một bức thư khác của
Xerov trong đó ông ta có nghĩa vụ báo cáo với Khrusev rằng hồ sơ của Vallenberg
đã bị tiêu hủy.
Lần cuối cùng vụ Vallenberg được điều tra
theo lệnh Gorbachov dưới sự giám sát của Bakatin, chủ tịch KGB. Sự điều tra mới
đã khẳng định rằng đích thực Vallenberg đã chết trong tù. Cũng đã xác định rằng
hồ sơ nhà tù và điều tra lưu trữ bị tiêu hủy.
Chắc rằng cháu của Molotov, giáo sư
Nikonov, chủ tịch quỹ “Chính trị” vốn lúc ấy là trợ lý của Bakatin, phải biết một
số chi tiết của những cuộc tìm kiếm tài liệu về vụ án Vallenberg.
Tiếc thay, các lưu trữ cũng như bản thảo cứ
cháy và cứ bị tiêu hủy, Nhưng dấu vết vẫn còn lại. Thường tìm được những cái
tình cờ và bất ngờ. Như một cán bộ kỹ thuật trong lưu trữ KGB, không liên quan
gì đến vụ Vallenberg, đã phát hiện hộ chiếu ngoại giao và tư trang của ông
trong cái túi rơi ra từ một bọc lớn những tài liệu chưa chọn lọc.
Sau vụ tai tiếng lớn được gây nên bởi cuốn
sách được xuất bản ở phương Tây, tôi đã viết vào tháng 5-1994 lời giải thích
cho phòng lưu trữ thống kê cơ quan an ninh Liên bang theo yêu cầu của Ủy ban
Liên Xô - Thụy Điển về vụ Vallenberg. Con trai tôi trò chuyện với các đại diện
Thụy Điển: việc làm sáng tỏ sự thật về vụ án Raul Vallenberg phụ thuộc không ít
từ phía Thụy Điển vốn kiên trì từ chối đưa ra công luận các số liệu các báo cáo
của ông về các tiếp xúc với các cơ quan đặc biệt Đức và Mỹ vào những năm
1941-1945.
Như nhà sử học Phần Lan Seppo Izotalo nói với
tôi, hiện nay trong tay chính quyền Thụy Điển có các tài liệu về việc Vallenberg
thực hiện các nhiệm vụ của tình báo Mỹ, cũng như sự tham gia của ông theo ủy
nhiệm của người chú, nhà tài phiệt Markus Vallenberg trong việc “tẩy rửa” những
tài sản bọn Hitler chiếm được của dân Do Thái.
Tôi nghĩ rằng lúc nào đó các nhà nghiên cứu
vẫn sẽ tìm tới các tài liệu lưu trữ của chúng ta và của nước ngoài, như điều đó
đã xảy ra với vụ Katyn, và sẽ đặt dấu chấm trong câu chuyện rối rắm và bi thảm
của Vallenberg.
Ý đồ của nhà cầm quyền chúng ta, phải nói
là không phải không thành công, che giấu sự thật về Vallenberg làm gợi nhớ đến
vụ xử bắn năm 1940 các tù binh Ba Lan trong rừng Katyn gần Smolensk và ở những
địa điểm khác. Chỉ đến năm 1992 trên báo chí đăng các tài liệu lưu trữ vụ án
này, nói riêng là báo cáo của cựu chủ tịch KGB Selepin về sự tiêu hủy các tài
liệu gắn với hành động đó. Tất cả điều đó cho cơ sở tiên đoán rằng, cả vụ
Vallenberg người ta cũng xử lý như thế.
Dù B.N. Eltsin đã chuyển cho Lech Walesa
các tài liệu và vụ án về các tù binh Ba Lan dường như đã khép lại, lớp phủ bí mật
vẫn còn chưa được gỡ bỏ đến cùng. Từ các tài liệu trích dẫn trong lưu trữ của
KGB không có các tư liệu là những hành động này được lên kế hoạch và được thực
hiện như thế nào. Thậm chí những người tham gia tích cực việc chiêu mộ các sĩ
quan Ba Lan, đã không tưởng tượng nổi một số phận như thế nào chờ đợi họ khi từ
chối cộng tác với NKVD. Tôi cho rằng Raikhman người có quan hệ tới các vụ Ba
Lan, biết điều đó.
Thông báo chính thức của chính phủ nói rằng
các tù binh Ba Lan đang trong các trại giam, đã rơi vào tay quân Đức và bị bắn.
Đích thực một số sĩ quan Ba Lan bị giết bởi vũ khí Đức. Lúc ấy nhiều người, và
tôi cũng vậy, đã tin vào giả thuyết này.
Lần đầu tiên tôi nghe thấy rằng chúng ta bắn
các tù binh Ba Lan, từ thiếu tướng KGB Kevorokov, phó tổng giám đốc TASS vào những năm 80. Ông nói rằng Falin,
phụ trách ban quốc tế BCHTƯ ĐCS Liên Xô vào những năm 70 đã nhận cảnh cáo từ
Andropov vì sự quan tâm tới vụ Katyn và đề nghị bắt đầu sự điều tra mới. Tôi
kinh ngạc bởi rằng theo lời Kevorkov, ở BCHTƯ lo lắng nhất là làm sao để đổ
toàn bộ trách nhiệm về vụ này cho NKVD và che giấu vụ việc thực ra được thực hiện
theo quyết định của Bộ Chính trị.
Nói về sự tiêu diệt hàng loạt một cách tội
lỗi các tù binh Ba Lan và ý đồ Khrusev và Gorbachov che giấu bi kịch này, cần
ghi nhận cả cái tình huống, rằng, rất có thể, việc xử bắn người Ba Lan năm 1940
là một dạng hành động thanh toán nợ với những kẻ chống Liên Xô cuồng nhiệt, các
sĩ quan Ba Lan, vì sự tàn sát 40 nghìn (theo các tài liệu khác nhau thì con số
khác nhau) tù binh của ta trong các trại tập trung sau thất bại của Hồng quân
năm 1920 gần Varsava.
Năm 1953, tôi và Eitingon bị buộc tội đã tổ
chức thủ tiêu những người không có lợi cho Beria bằng chất độc tại các căn hộ
bí mật đặc biệt ở ngoại ô, và những vụ giết người này được công bố như cái chết
vì tai nạn.
Abakumov cũng bị buộc tội tiêu diệt những
người có hại cho ông ta.
Bất chấp các đòi hỏi của luật pháp, trong
các bản luận tội, trong tuyên án về các vụ án không có tên “những nạn nhân của chúng tôi”. Đó không
phải là sự vô tình hay kết quả công việc cẩu thả của điều tra viên, họ biết
công việc của mình. Đơn giản là không có, không tồn tại các nạn nhân. Trong sự
thanh toán của Beria và Abakumov với các đối thủ của họ, cả tôi lẫn Eitingon đã
không tham gia.
Tất cả những vụ thủ tiêu bí mật các điệp
viên hai mang và đối thủ chính trị của Stalin, Molotov, Khrusev những năm
1930-1950 được thực hiện theo mệnh lệnh của chính phủ. Chính vì thế những chiến
dịch chiến đấu cụ thể được tiến hành bởi các thuộc hạ của tôi và cán bộ “Phòng thí nghiệm - X” chống lại kẻ thù
đích thực nguy hiểm đối với nhà nước Xô viết như hình dung thời ấy, người ta
không bắt tội tôi và Eitingon.
Abakumov người ra lệnh nhân danh chính phủ
về việc tiến hành các chiến dịch, cũng không bị khép tội. Còn Beria những năm
1945-1953 không hề có liên quan gì đến các vụ này và thậm chí không biết về
chúng nữa.
Toàn bộ công việc của “Phòng thí nghiệm - X” không chỉ là khoa học như danh nghĩa đối với
những ai điều tra vụ án, Beria và Abakumov, chính phủ và BCHTƯ đảng, đang theo
dõi và điều hành tiến trình điều tra và xác định nội dung của nó.
Năm 1951 Mairanovxky cùng với Eitingon,
Raikhman, Matuxov và A. Xverdlov bị bắt và bị khép tội giữ chất độc bất hợp
pháp, cũng như họ là những người tham gia vào âm mưu Do Thái mà mục đích là chiếm
chính quyền và tiêu diệt các nhà lãnh đạo cao nhất của nhà nước, kể cả Stalin.
Riumin đứng đầu việc điều tra vụ này đã lấy được những lời thú nhận huyễn hoặc ở
Mairanovxky (ông phản cung năm 1958) và Broverman, phó phụ trách ban thư ký của
Abakumov. Cuối năm 1952 khi Riumin, phó của Bộ trưởng An ninh Igantiev, bị cách
chức, bộ phận điều tra đã không thể trình kết luận buộc tội chống Mairanovxky
như Riumin đã chuẩn bị nó. Những lời khai của trưởng phòng thí nghiệm chất độc
không được củng cố bởi các thừa nhận của các bác sĩ bị bắt theo vụ Abakumov, những
người không hề có khái niệm về phòng thí nghiệm này.
Không ai trong số bác sĩ bị bắt biết gì về
hoạt động bí mật của Mairanovxky: ông tự tiến hành thử nghiệm với những người bị
kết án tử hình theo chế độ được chính phủ và Bộ An ninh thiết lập. Ghi lại toàn
bộ những thú nhận của Mairanovxky là quá mạo hiểm, bởi ông viện dẫn tới những
chỉ thị của các cấp cao hơn và những huân chương ông được nhận. Chính vì thế vụ
án của ông đã được xem xét tại cơ quan ngoài tòa án, Hội nghị đặc biệt thuộc Bộ
An ninh. Rõ ràng, có những kế hoạch nào đó trong tương lai sử dụng Mairanovxky
với tư cách nhân chứng chống lại ai đó ở cấp lãnh đạo tối cao. Người ta để ông
sống và vào tháng 2-1953 tuyên án mười năm tù vì giữ chất độc một cách phạm
pháp và lạm dụng địa vị công tác.
Mairanovxky bị xét xử không lâu trước cái
chết của Stalin. Khi Beria lại đứng đầu các cơ quan an ninh, Mairanovxky gửi
cho ông một khối lượng lớn tuyên bố, đòi hỏi được trả tự do, được minh oan và
viện tới công việc dưới sự lãnh đạo trực tiếp của ông những năm 1938-1945. Hẳn
Beria định thả ông ta, nhưng nhanh chóng chính ông bị bắt. Viện Công tố không
chậm trễ lợi dụng ngay các tuyên bố của Mairanovxky chống lại chính ông, chống
lại Beria, Abakumov và Merkulov. Giờ đây Mairanovxky được đưa ra như một kẻ đồng
lõa của Beria trong những kế hoạch huyền thoại của ông tiêu diệt ban lãnh đạo
Xô viết bằng thuốc độc.
Tôi được rõ về bốn sự kiện năm 1946-1947.
Tôi có ý nói đến những kẻ dân tộc chủ nghĩa Ucraina nổi tiếng mà tôi đã kể,
cũng như người nước ngoài, Samet và Orrins.
Samet, kỹ sư Ba Lan gốc Do Thái, được chiêu
mộ năm 1939, nghiên cứu những công trình tuyệt đối bí mật về sử dụng những thiết
bị chiến lợi phẩm của Đức trên các tàu ngầm của ta. Samet liên hệ với người
Anh: ông ta định di cư sang Palestine. Để cài điệp viên vào nhóm thân cận của
Samet và kiểm soát các liên hệ của ông ta với người nước ngoài, Eitingon được cử
đến Ulianovxk nơi mọi sự xảy ra. Mairanovxky đến sau, cùng với điệp viên là bác
sĩ bệnh viện nhà máy, đã tiêm cho Samet một mũi tiêm chất độc curra trong lúc khám bệnh kiểm tra.
Tướng Volkogonov năm 1992 trình lên thượng
viện Mỹ danh sách những người Mỹ chết ở Liên Xô trong những năm thế chiến II
cũng như “chiến tranh lạnh”, và nhân danh tổng thống Eltsin bày tỏ sự tiếc nuối
liên quan với cái chết của họ. Trong danh sách này có Orrins. Người ta thủ tiêu
Orrins, như Volkogonov xét, để ông ta không thể kể sự thật về các nhà tù và trại
giam Xô viết.
Ở phương Tây đến thời gian đó đã khá rõ về
trại giam GULAG và nguyên nhân vì thế người ta tiêu diệt Orrins không đơn giản
như được viết trong báo chí của chúng ta. Xét theo các tài liệu, Orrins bị NKVD
bắt một cách bất hợp pháp và bị kết án bởi Hội nghị đặc biệt 8 năm tù giam vì
tuyên truyền chống Liên Xô. Trong thực tế Orrins đến Liên Xô bằng hộ chiếu giả Tiệp
Khắc, về điều này báo chí không nói một lời. Ông ta thực sự có cảm tình với các
lý tưởng cộng sản và là đảng viên bí mật ĐCS Mỹ. Orrins cũng là điệp viên lâu đời
của Quốc tế cộng sản và NKVD ở Trung Quốc, Viễn Đông và Mỹ. Vợ ông là Nora thuộc
mạng điệp viên của NKVD ở Mỹ và Tây Âu và chịu trách nhiệm về sự phục vụ các
căn hộ bí mật của chúng ta ở Pháp và Mỹ những năm 1938-1941. Orrins bị bắt năm
1938 khi bị nghi là gián điệp hai mang. Vợ ông trở về Mỹ năm 1939. Thoạt đầu bà
cho rằng chồng ở Liên Xô vì lý do tác chiến, nhưng sau đó đã hiểu là ông bị bắt.
Chúng ta có những cơ sở giả định rằng Nora đã bắt đầu cộng tác với FBI và các
cơ quan đặc biệt khác của Mỹ và Nhật. Có thể, bà cố theo nhiệm vụ của tình báo
Mỹ thiết lập lại các liên hệ với mạng điệp viên của ta ở Mỹ bị đứt năm 1942.
Vào cuối chiến tranh Nora nhờ chính quyền Mỹ để họ giúp tìm chồng bà, tính chuyện
giải phóng cho ông. Trong giai đoạn quan hệ tốt của chúng ta với Mỹ, người ta
cho phép cán bộ sứ quán Mỹ ở Moskva gặp Orrins ở nhà tù Butưrxk, khi theo đuổi
các mục đích của mình, làm sáng tỏ người Mỹ biết những gì về hoạt động của ông
ta.
Sau sự đổ vỡ mạng tình báo của ta ở Mỹ và
Canada những năm 1946-1947, Molotov e sợ rằng nếu thả Orrins, thì người Mỹ có
thể lôi kéo ông ta vào Ủy ban điều tra hoạt
động chống Mỹ và sử dụng như nhân chứng chống lại ĐCS Mỹ. Ngoài ra, theo ý
kiến của các cơ quan đặc biệt, các tiếp xúc của Nora Orrins với chính quyền Mỹ
và sự cộng tác với FBI đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho mạng tình báo chúng ta
ở Mỹ và Pháp.
Abakumov khi biết điều đó, đã đề nghị trừ
khử Orrins, đề nghị được Stalin và Molotov phê chuẩn. Năm 1947 Mairanovxky
trong lúc kiểm tra y tế đã tiêm cho Orrins đang trong tù một mũi tiêm chết người.
Tôi và Eitingon được giao tổ chức việc mai táng ông ta tại nghĩa địa Do Thái ở
Penza và xác nhận ngày chôn cất vào năm 1944 hoặc 1945.
Giờ đây nhớ lại con người ấy, tôi cảm thấy
hối tiếc. Nhưng lúc ấy, trong những năm “chiến tranh lạnh” cả chúng ta lẫn người
Mỹ đều không có khái niệm đạo đức khi thủ tiêu những đối thủ nguy hiểm, những
điệp viên hai mang.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét