Tầng Đầu Địa Ngục
(The First Circle)
Tác giả: A. Solzhenitsyn
Dịch giả: Hải Triều
Nhà xuất bản Đất Mới - Sài Gòn
Năm xuất bản 1973
Chương 23 - Giáo đường Thánh John
Yakanov gọi lớn tên nàng - Angiya - và, như
một làn gió, những cảm giác xưa cũ đã bị lãng quên trở lại như mới hoàn toàn
làm cho tấm thân đàn ông trung niên, no đủ của y xúc động.
Ngày đó y hai mươi sáu tuổi và nàng hai
mươi mốt.
Người thiếu nữ ấy không phải được sinh ra từ
trái đất này. Nàng bất hạnh vì nàng có một linh hồn cao thượng và nàng đòi hỏi
đến một mức độ nhiều không sao chấp nhận được. Đôi khi, trong lúc nàng nói, đôi
mày và hai cánh mũi nàng rung động như những cánh chim bồ câu. Chưa ai từng nói
những lời nghiêm khắc đến như nàng với Yakanov, nàng xét nét với một vẻ cực kỳ
nghiêm trọng những hành động của Yakanov, những hành động mà y cho là rất thường.
Mà rất lạ lùng, khó hiểu làm sao, nàng coi những hành động ấy là ti tiện, hèn hạ.
Và nàng càng tìm thấy nhiều tội lỗi ở Yakanov chừng nào, y lại càng bị nàng hấp
dẫn, càng muốn được gần nàng chừng ấy. Mối tình của họ thật là lạ kỳ.
Người ta chỉ có thể nói chuyện với nàng một
cách rất thận trọng. Nàng yếu đuối đến nỗi chỉ cần đi lên một ngọn đồi cũng đủ
làm nàng kiệt sức, hoặc chỉ chạy vài bước. Ngay cả một cuộc nói chuyện hơi gay
gắt cũng đủ làm nàng thở mệt. Người ta dễ dàng làm cho nàng phật lòng, buồn rầu.
Tuy vậy, nàng vẫn có đủ sức đi trong rừng hết
ngày này sang ngày khác và, đây cũng là sự lạ kỳ, không bao giờ nàng đem theo
quyển sách nào vào rừng. Sách ngăn cản sự thông cảm giữa nàng và rừng cây, sách
làm cho nàng xao lãng sự chú ý vào rừng cây. Nàng chỉ đi lang thang trong rừng
cây và ngồi nhìn ngắm những huyền bí của rừng. Những khi Yakanov cùng vào rừng
chơi với nàng, y ngạc nhiên vì những nhận xét của nàng: Tại sao thân cây lau
chùng xuống mặt đất? Bằng cách nào màu sắc trên những lá cỏ trong rừng đổi màu
khi chiều tối? Y chưa từng bao giờ để ý đến những điều ấy. Với y, rừng cây là rừng
cây, không khí trong rừng mát dịu và tất cả mọi thứ trong rừng đều có màu xanh.
Nhưng nàng, nàng phê bình cả những đoạn tả cảnh thiên nhiên trong tác phẩm của
Turgenev, sự nông cạn của những đoạn ấy làm nàng bất mãn.
“Suối Rừng” - đó là cái tên Yakanov gọi
nàng trong mùa hè năm 1927, năm ấy họ ở gần nhà nhau. Họ đi với nhau, họ về với
nhau và trước mắt tất cả mọi người, họ là hai người trẻ tuổi đã hứa hôn với
nhau.
Nhưng sự thực, khác hẳn như thế.
Angiya không đẹp nhưng cũng không xấu,
khuôn mặt nàng thay đổi luôn luôn: nàng có thể cười vui và đầy thiện cảm, nhưng
nàng cũng có thể trình bày một bộ mặt dài thượt, mệt mỏi, thiếu hấp dẫn. Nàng
cao hơn đa số đàn bà một chút, thân hình nàng mảnh mai và yếu đuối, bước đi của
nàng nhẹ đến nỗi người ta tưởng như hai bàn chân nàng không hề chấm đất. Trong
thời gian đó tuy rằng Yakanov đã có khá nhiều kinh nghiệm về đàn bà, tuy y đặt
cao giá trị về da thịt trên thân thể đàn bà, một cái gì khác hơn nhan sắc và
thân thể của Angiya vẫn hấp dẫn y tới nàng. Và bởi vì y bị nàng hấp dẫn, y tự
nhủ rằng y yêu nàng vì nàng là đàn bà và rồi thân thể nàng sẽ nảy nở.
Nhưng trong khi nàng vẫn vui vẻ đi chơi những
ngày mùa hạ dài với Yakanov, đi với nhiều dặm sâu vào trong rừng, nằm với y
trên cỏ, nàng vẫn tỏ ra không thích để cho y nắm tay. Mỗi khi y nắm tay nàng,
nàng hỏi: “Tại sao lại cứ phải nắm tay
nhau mới được?”, và nàng gỡ tay nàng ra. Thái độ này của nàng không phải có
nguyên nhân là nàng mắc cỡ hay sợ người khác nhìn thấy, vì sau khi Yakanov đòi
hỏi nàng phải để y nắm tay cho tự ái của y khỏi bị tổn thương, nàng vui vẻ để
cho y nắm tay.
Tự nghĩ rằng mình yêu nàng, Yakanov nói với
nàng về tình yêu của y trong lúc y quỳ dưới chân nàng trên cỏ trong rừng. “Buồn biết chừng nào...” - nàng nói - “Em có cảm tưởng như em đang làm cho anh thất
vọng. Em không thể trả lời được anh em có yêu anh hay không. Em không cảm thấy
gì cả. Vì vậy em không muốn cả sống nữa. Anh thông minh, anh thật tốt, lẽ ra được
anh yêu em phải thấy sung sướng mới phải chứ? Nhưng thật là em không muốn sống”.
Nàng nói như thế nhưng mỗi buổi sáng nàng vẫn
hồi hộp tìm xem có sự thay đổi nào hiện lên trên nét mặt y hay trên thái độ của
y hay không.
Nàng nói như thế nhưng nàng cũng nói: “Ở Mạc Tư Khoa có biết bao nhiêu là thiếu nữ
đẹp. Đến mùa thu này anh sẽ gặp một cô thật đẹp và anh sẽ không còn yêu em”.
Nàng để cho y ôm nàng và hôn nàng, nhưng những
khi ấy, môi nàng và tay nàng bất động, vô hồn. “Khó quá đi”, nàng than thở. “Em
tưởng rằng tình yêu đến phải sôi nổi ghê gớm lắm, nhưng anh yêu em và em sẽ
không bao giờ còn gặp được ai tốt hơn anh, vậy mà sao em vẫn không thấy sung sướng,
em chỉ thấy em không muốn sống”.
Có một cái gì đó như rất lạc hậu ở nàng, một
cái gì rất trẻ con. Nàng sợ hãi những sợi dây vô hình, bí mật buộc liền một người
đàn ông với một người đàn bà qua hôn nhân, với giọng nói tê tái, nàng thều thào
hỏi: “Chúng mình có thể cưới nhau mà
không làm việc ấy không?”. Trong cơn khích động, Yakanov trả lời: “Vợ chồng đâu có phải chỉ lấy nhau để làm việc
ấy? Đó chỉ là một cái gì phụ thuộc đi sau sự hòa hợp, cảm thông của hai tâm hồn”.
Khi nghe y nói câu đó, lần thứ nhất môi nàng yếu đuối hôn y, và nàng nói: “Cám ơn anh. Nếu không có tình yêu, tại sao
con người ai cũng muốn sống? Em nghĩ em đã bắt đầu yêu anh. Em sẽ cố gắng yêu
anh”.
Mùa thu năm ấy, một buổi chiều gần tối họ
đi bên nhau trong một con phố vắng cạnh công trường Taganka, Angiya bỗng nói bằng
giọng nói trong rừng của nàng, giọng nói khó nghe trong tiếng động của thành phố:
- Anh có muốn em đưa anh tới coi một nơi đẹp
nhất của Mạc Tư Khoa không?
Nàng đưa Yakanov lên một ngọn đồi, tới một
hàng rào gỗ bao quanh một giáo đường nhỏ, sơn trắng và đỏ, tòa giáo đường có hậu
đường và bàn thờ chính nằm dựa vào một con phố khúc khuỷu không tên. Bên trong
hàng rào chỉ có một lối đi nhỏ vòng quanh giáo đường để rước Thánh giá, lối đi
vừa đủ rộng cho ông cha sở và ông trợ tế cùng đi cạnh nhau. Qua khung kiếng mờ
của những ô cửa sổ người ta có thể nhìn thấy, sâu trong lòng tòa giáo đường, những
ngọn lửa nến lung linh bình yên và những ánh lửa đèn màu thắp dưới những pho tượng.
Ở một góc nằm trong hàng rào có một cây sồi cổ thụ, cây sồi lớn và cao hơn mái
giáo đường. Cành lá nó đã ngả vàng phủ lên trên cả nóc tròn trên mái giáo đường
và con phố bên cạnh, làm cho tòa giáo đường đã nhỏ còn có vẻ nhỏ hơn.
- Đây là giáo đường John. - Angiya nói.
- Nhưng đây đâu có phải là nơi đẹp nhất Mạc
Tư Khoa?
- Chờ xem.
Nàng dẫn Yakanov đi qua cổng vào trong sân
giáo đường. Nền sân đá có những chiếc lá sồi màu vàng và màu cam bao phủ. Trong
vùng bóng tối dưới vòm cành lá sồi có một lầu chuông cổ, hình cái lều. Lầu
chuông và căn nhà nhỏ dính liền vào giáo đường ngăn chặn những tia nắng của mặt
trời đang lặn. Cánh cửa sắt của hành lang phía bắc mở rộng và một người đàn bà
nghèo đứng ở đó cúi đầu lễ và làm dấu thánh giá một mình trong tiếng ca cầu rực
rỡ từ bên trong vọng ra.
- Giáo đường này nổi tiếng vì đẹp và lộng lẫy,
huy hoàng.
Angiya nói thì thầm, nàng để cho vai nàng
sát vào vai Yakanov.
- Giáo đường này được làm vào thế kỷ nào?
- Sao anh lại cần phải biết thế kỷ nào? Anh
có thấy đẹp không?
- Đẹp lắm, nhưng mà...
- Anh coi này...
Angiya gỡ tay nàng ra và kéo y tới khung cổng
chính của tòa giáo đường. Họ từ trong vùng bóng tối đi ra làn ánh sáng chan hòa
của mặt trời hoàng hôn, và nàng ngồi xuống trên bậc đá thềm cửa.
Yakanov hít vào một hơi thở dài. Họ như những
người vừa từ một khu phố đông của thị trấn bước lên một đỉnh cao và phóng tầm mắt
nhìn vào một khoảng xa, rộng. Những bậc thang đá trắng chạy dài từ chân thềm của
giáo đường qua lưng ngọn đồi, xuống dòng sông Mạc Tư Khoa dưới kia. Mặt sông
cháy rực dưới ánh nắng chiều. Bên trái là tòa nhà Zamoskvorechye với những
khung cửa kiếng phản chiếu ánh nắng vàng đến chói mắt người nhìn và bên dưới, gần
như ở ngay dưới chân họ, những ống khói đen của nhà máy điện Mạc Tư Khoa tỏa
khói lên nền trời chiều. Dòng sông Yauza nhỏ hơn chảy vào dòng sông Mạc Tư
Khoa. Gần chỗ hai dòng sông giao nhau là Bệnh viện Foundling. Sau bệnh viện
này, những ngọn tường sắc của điện Kremlin nổi lên. Xa hơn nữa, năm tòa tháp
tròn mạ vàng của giáo đường Chúa Cứu Thế sáng rực trong nắng.
Và trong ánh vàng rực rỡ ấy, Angiya, với
chiếc khăn mỏng choàng trên đôi vai, toàn thân như được dát vàng, ngồi nhìn về
phía mặt trời.
- Người Nga ngày xưa chọn chỗ để xây giáo
đường và tu viện thật là khéo. - Nàng nói, giọng nàng như vỡ vụn. - Em đã đi
xuôi dòng Volga, em cũng từng đi xuôi dòng Oka nữa, bất cứ chỗ nào giáo đường
cũng được họ xây ở những chỗ đẹp nhất, trang nghiêm nhất...
Yakanov đáp lời nàng như một tiếng vang:
- Đúng đấy. Mạc Tư Khoa là nhất...
- Nhưng những cảnh đẹp ấy đang mất đi. -
Angiya nói - Mạc Tư Khoa đang bị tiêu diệt.
- Em nói bị tiêu diệt nghĩa là sao? Em nói
vậy vô nghĩa.
- Họ sắp phá giáo đường này.
- Sao em biết là sắp phá? - Yakanov hỏi lại.
Y bắt đầu cảm thấy bực bội vì giọng nói có vẻ như kết tội của Angiya. - Đây là
một kiến trúc cổ. Họ sẽ giữ nguyên nơi đây...
Y nhìn lên lầu chuông nhỏ xíu, nơi những
cành lá sồi xuyên vào gần chạm cả tới chuông.
- Họ sắp phá đi mà...
Angiya tiên đoán với vẻ biết chắc, nàng vẫn
ngồi bất động với chiếc khăn choàng vàng trên vai, trong ánh vàng.
Không những là gia đình Angiya không dạy dỗ
Angiya để nàng tin ở Chúa, mà trong dĩ vãng, khi tất cả mọi người đều phải đi lễ
nhà thờ, mẹ nàng và bà ngoại nàng đều không đi lễ, không giữ những luật cấm,
không rước lễ, họ luôn luôn làm cho tôn giáo trở thành lố bịch bởi vì tôn giáo
đã chấp nhận nông nô một cách quá ư dễ dãi. Bà ngoại nàng, mẹ nàng và các dì,
các cô nàng đều có một tật chung: họ luôn luôn đứng về phía những người bị đàn
áp, bắt bớ, săn đuổi, hành hạ bởi chính quyền. Bà ngoại nàng được những người
cách mạng trong Phong trào “Dân ý” biết mặt, biết tên vì bà cho họ trốn nấp
trong nhà bà và giúp đỡ họ tất cả những gì bà có thể. Những cô con gái bà nối
tiếp bà giúp đỡ, che giấu những người cách mạng Xã hội và Dân chủ Xã hội. Và cô
bé Angiya bao giờ cũng đứng về phía những con thỏ bị người ta đuổi bắn, những
con ngựa bị người ta đánh đập. Khi nàng lớn lên, mọi người trong gia đình nàng
đều ngạc nhiên khi thấy nàng bênh vực Giáo Hội Gia Tô vì nàng cho rằng Giáo Hội
này đang bị đàn áp, khủng bố.
Không biết là vì nàng tự nhiên tin ở Chúa
hay nàng cố làm cho nàng phải tin, Angiya nói rằng kẻ nào trốn tránh đi nhà thờ
là hèn, và trước sự khó chịu của bà ngoại và mẹ nàng, Angiya đến nhà thờ rước lễ.
Dần dần nàng cho chuyện đi lễ là quan trọng.
Yakanov hỏi nàng với vẻ ngạc nhiên thực sự:
- Tại sao em lại nghĩ rằng Giáo Hội Gia Tô
đang bị đàn áp? Có những chuyện gì xảy ra làm cho em nghĩ thế? Các giáo dân vẫn
được tự do đến nhà thờ. Không ai cấm linh mục làm lễ, kéo chuông, rước Thánh
giá - họ chỉ không được quyền can thiệp vào những vấn đề công dân và giáo dục
mà thôi.
- Rõ ràng là Giáo Hội đang bị đàn áp. -
Angiya cãi lại bằng giọng nói ôn hòa, nhỏ nhẹ như mọi khi của nàng. - Khi người
ta nói ra những lời kết tội Giáo Hội phản động, khi người ta in ra tất cả những
gì người ta muốn để bôi xấu Giáo Hội, họ không cho Giáo Hội được quyền trả lời,
quyền tự biện hộ, khi người ta kiểm tra tài sản của Giáo Hội và lưu đày những
linh mục, những việc đó chẳng phải là đàn áp thì còn là gì nữa?
- Em thấy những linh mục bị lưu đày ở đâu,
hồi nào?
- Tất nhiên là không thấy ở trong những
thành phố đó rồi.
- Dù cho họ có đàn áp thật đi nữa, -
Yakanov nói. - họ cũng mới chỉ đàn áp có mười năm thôi. Em có biết Giáo Hội đàn
áp con người đã bao lâu không? Từ 10 thế kỷ nay.
Angiya nhún vai gầy:
- Thời đó chưa có em. Em đang sống ở thời
này, em chỉ thấy những gì xảy ra trong đời em.
- Nhưng em phải biết lịch sử chứ! Em không
thể viện lý do gì để bào chữa cho sự ngu dốt. Có bao giờ em nghĩ đến chuyện
Giáo Hội đã làm cách nào để sống trong suốt 250 năm tổ quốc ta bị bọn Tatar đô
hộ không?
- Giáo Hội Gia Tô sống được có thể là vì
lòng tin của giáo đồ mạnh. Cũng có thể là vì tinh thần Gia Tô mạnh hơn tinh thần
những tôn giáo khác.
Nàng nói câu trên như một câu hỏi chứ không
phải là một lời quả quyết.
Yakanov nở nụ cười tha thứ:
- Em tưởng tượng nhiều quá. Tổ quốc ta có
bao giờ thực sự thấm nhuần tinh thần Thiên Chúa giáo trong linh hồn không? Em
có thực nghĩ rằng suốt trong cả ngàn năm Thiên Chúa giáo có mặt ở đây người ta
có thực sự tha thứ cho những kẻ đàn áp, bóc lột người ta không? Người ta có yêu
thương được những kẻ thù của người ta không? Giáo Hội chỉ sống được là vì sau
cuộc xâm lăng, trước hơn bất cứ một người dân Nga nào, Giáo chủ Cyril đã tới
cúi đầu trước tên Khan của bọn Tatar xâm lăng và yêu cầu tên này bảo vệ cho
hàng ngũ giáo sĩ. Với những lưỡi kiếm của bọn Tatar, giới giáo sĩ Nga đã bảo vệ
được đất đai, những nông nô và những giáo đường của họ. Tuy vậy, ta cũng phải
công nhận là Giáo chủ Cyril đã hành động đúng khi làm như thế, ông ta là một
nhà chính trị thực tế. Lẽ ra ai khôn ngoan cũng phải làm như ổng. Chỉ có cách
đó mới có thể thắng.
Khi Angiya bị dồn vào đường cùng, nàng
không cãi nữa. Nàng chỉ mở rộng đôi mắt ngạc nhiên nhìn người thanh niên vị hôn
phu của nàng.
- Nhờ cách đó những giáo đường đẹp đẽ này mới
được xây dựng trên những cảnh trang nghiêm, hùng vĩ này. - Yakanov nói lớn. -
Trong khi những tín đồ ly khai bị đốt lửa đến chết, những giáo đồ của những tôn
giáo khác bị đánh bằng roi gậy đến chết. Em thương hại những kẻ làm những việc
đó ư? Giáo Hội bị đàn áp? Giáo Hội nào bị đàn áp?
Y ngồi xuống cạnh nàng trên thềm đá ấm vì nắng:
- Em bất công với những người Bôn-xê-vích về
tất cả mọi mặt. Em không thèm cả đọc những quyển sách chính của họ. Họ rất kính
trọng nền văn minh thế giới. Họ tin rằng không một ai có quyền độc đoán quyết định
thay cho người khác hay bắt người khác phải nghĩ, phải làm theo mình, họ tin ở
sự hợp lý, ở lẽ phải. Điều duy nhất mà họ muốn là: công bằng. Em thử tưởng tượng
coi: công bằng hoàn toàn, công bằng tuyệt đối. Không ai được hưởng những đặc
quyền mà người khác không được hưởng. Không ai được lợi thế hơn người khác về
những điều kiện để sống. Còn có gì có thể tốt đẹp hơn một xã hội như thế? Xã hội
ấy có đáng để chúng ta hy sinh hay không? Em phải biết những phản đối vô lý của
em chỉ là những trở ngại chặng đường em vào đại học. Những phản đối của em sẽ
có ảnh hưởng gì? Em có thể làm được gì?
- Một người đàn bà như em có thể làm gì được?
- Nàng vừa nói vừa đưa tay hắt những lọn tóc của nàng về sau lưng - trong lúc
không một thiếu nữ nào kết tóc cả, nàng kết tóc thành lọn, khi mọi người cắt
tóc ngắn, nàng để tóc dài, nàng chỉ làm thế để phản đối mặc dù kiểu tóc dài
không hợp với mặt nàng. Một lọn tóc rơi trên lưng nàng, lọn kia nằm trên ngực
nàng - và nàng nói tiếp:
- Một người đàn bà không làm được việc gì hết
ngoài việc ngăn cản người đàn ông yêu mình làm những việc trọng đại, anh hùng.
Ngay cả đến người đàn bà khác thường như Natasha Rostov cũng vậy. Đó là lý do
vì sao em không chịu nổi được nàng.
Một lần nữa Yakanov ngạc nhiên:
- Sao vậy?
- Bởi vì nàng không chịu để cho Pierre gia
nhập vào nhóm “Tháng Chạp”.
Giọng nói của nàng lại tan vỡ khi nàng nói
câu trên.
Nàng vẫn có những ý nghĩ dị kỳ như vậy.
Chiếc khăn choàng mỏng rời khỏi đôi vai
nàng rơi xuống mắc ở hai cánh tay nàng như đôi cánh vàng.
Yakanov bọc nhẹ hai bàn tay y quanh bàn tay
nàng như sợ bàn tay nàng có thể vỡ:
- Nếu em là Natasha, em sẽ để cho Pierre
đi?
- Vâng.
Angiya trả lời bình thản như đó là chuyện tất
nhiên.
Yakanov không thể tưởng tượng ra một hành động
quan trọng nào đó y có thể làm để cần phải có sự đồng ý của Angiya. Đời sống của
y hoạt động, nhưng bình thường như mọi người. Y ham thích công việc đang làm và
việc này càng ngày càng đưa y lên địa vị cao hơn.
Trước mặt họ có những tín đồ đi dâng lễ muộn
đi từ dưới chân đồi lên, họ làm dấu thánh giá trước cửa vào giáo đường. Vào tới
trong sân, những người đàn ông bỏ mũ xuống. Dường như trong số những người đi lễ
đàn ông ít hơn đàn bà, họ toàn là người già, không thấy một người trẻ tuổi nào.
- Anh có sợ người ta thấy anh ở gần giáo đường
không?
Angiya hỏi. Nàng không có ý chế nhạo
Yakanov nhưng câu hỏi tự nó đã có sự chế nhạo.
Trong những năm đó việc bị một người làm
cùng sở nhìn thấy ở gần nhà thờ là một chuyện nguy hiểm. Tuy vậy Yakanov tự cho
là y không có sự nguy hiểm ấy.
Không trả lời câu hỏi của Angiya, Yakanov
nói, y bắt đầu thấy bực bội vì thái độ của nàng:
- Cẩn thận đấy, Angiya. Ta phải biết có những
gì mới xảy ra trong đời ta, biết kịp thời, biết trước khi quá muộn. Vì bất cứ
ai không biết như thế nhất định sẽ lạc lõng sau lưng mọi người. Em bị Giáo Hội
Gia Tô quyến rũ vì tinh thần của giáo lý này khuyến khích khuynh hướng lạnh nhạt
với cuộc sống này ở trong em. Đây là lần cuối cùng khuyến cáo em: em phải tỉnh
lại, em phải sống, em phải chú ý đến việc nào đó trong đời, chỉ có như thế em mới
sống được.
Angiya cúi đầu xuống, bàn tay có ngón tay
đeo chiếc nhẫn hứa hôn của Yakanov buông rơi, bất động. Tấm thân giống như thân
trẻ con của nàng lúc này như chỉ có toàn xương là xương và rất mỏng:
- Anh nói đúng. Đúng... Em cũng nhận thấy
có nhiều lúc em không muốn sống. Cuộc đời không cần có những người như em.
Yakanov cảm thấy tình yêu tan tành trong
tim y. Nàng làm tất cả những gì giết chết tình yêu ấy. Sự can đảm thực hiện lời
hứa hôn và cưới Angiya làm vợ, sống với nàng suốt đời, yếu đi trong tim
Yakanov.
Nàng ngước mắt lên nhìn y, đôi mắt nàng lộ
ánh tò mò, nàng không cười.
Yakanov nghĩ: “Cô ả này tinh thần nông cạn quá chừng”.
Nàng nói, vẻ mặt buồn và giọng nói buồn:
- Danh vọng và thành công đang chờ đợi anh.
Chắc chắn anh sẽ thành công, anh sẽ có danh vọng. Nhưng Anton, liệu anh có được
sung sướng hay không? Rồi đời anh sẽ có hạnh phúc hay không? Anh cũng nên cẩn
thận. Những người chú ý đến cuộc đời như anh... sẽ... sẽ mất... Em không thể
nào nói rõ với anh được...
Những ngón tay gầy của nàng tìm lời cho môi
nàng nói, sự khó khăn, khổ sở của cuộc tìm kiếm ấy hiện rõ trên nụ cười gượng
trên môi nàng:
- Đó, có tiếng chuông. Tiếng kinh cầu đã ngừng,
tiếng ca đã mất. Những tiếng ấy sẽ không còn trở lại nữa. Tuy vậy, âm thanh vẫn
còn văng vẳng quanh đây. Anh hiểu gì không?
Rồi nàng cố rủ y vào giáo đường. Dưới những
vòm tường tròn một dãy cửa sổ nhỏ gắn kiếng mờ chạy quanh tòa giáo đường. Qua
khung cửa sổ trên nóc tròn trên cao, ánh nắng chiều làm bên trong tòa giáo đường
sáng lên, ánh vàng trải lên những pho tượng và những bức hình vẽ cổ.
Tín đồ thưa thớt. Angiya đốt một cây nến gầy
cắm lên cây cột đồng và nàng làm thoáng dấu thánh giá, rồi nàng đứng trang
nghiêm, hai tay chắp lại trước ngực, mắt nhìn thẳng, xuất thần. Ánh vàng của trời
chiều, ánh đỏ cam của những ngọn nến mang lại đời sống và hơi ấm cho hai má
nàng.
Chỉ còn hai ngày nữa là đến ngày đản sinh Đức
Mẹ. Trong nhà thờ, một bài kinh dài được cầu để ca tụng Đức Mẹ. Lời kinh thật
hay, những danh từ ca ngợi Thánh Nữ Đồng Trinh nối tiếp nhau trôi đi như nước
trong một dòng suối, và đây là lần đầu tiên Yakanov hiểu tính chất huyền diệu
và thơ mộng của những lời cầu nguyện. Không phải là một nhà thần học vô hồn nào
đó đã viết ra được lời kinh cầu này, người sáng tác phải là một thi sĩ lớn
nhưng vô danh, một tù nhân trong một tu viện, và trong giây phút đó Yakanov xúc
động. Y không xúc động vì sự hấp dẫn thoáng qua của những thân thể đàn bà mà là
vì một cái gì đó cao thượng hơn, trong sạch hơn mà một người đàn bà có thể gợi
cho đàn ông cảm thấy.
Yakanov tỉnh lại từ cơn mơ mộng. Y đang ngồi
trên thềm của Giáo đường Thánh John, đống đất đá vụn trên thềm làm dơ vạt áo da
của y.
Đúng thật, không biết vì lý do nào, có khi
không có lý do gì hết, người ta đã phá lầu chuông kia, người ta đã phá cả những
bậc thang đá trắng từ đây đi xuống bờ sông. Không thể tưởng tượng được rằng ánh
bình minh hôm nay cũng chiếu cùng trên khoảng đất ở Mạc Tư Khoa từng sáng ánh nắng
vàng buổi chiều xa xưa, buổi chiều y và người thiếu nữ đó ngồi bên nhau. Nhưng
ngọn đồi vẫn là ngọn đồi này, cảnh vật dưới chân đồi vẫn là cảnh cũ, và khúc
sông quẹo được soi sáng bởi dãy đèn điện dưới kia vẫn là dòng sông ngày xưa.
Ít ngày sau buổi chiều đó Yakanov lãnh công
tác xuất ngoại, khi y trở về, người ta bảo y viết một bài đăng báo - thực ra
bài đó đã được viết sẵn y chỉ có việc ký tên vào đấy - bài báo viết về cảnh sa
đọa, trụy lạc tan rã của xã hội các nước Tây phương đều tồi tàn: dân chúng đói
khổ, nghèo nàn, văn hóa đồi trụy, luân lý xuống thấp, khoa học không có điều kiện
tiến bộ. Những chuyện đó không đúng hẳn sự thật nhưng cũng không hẳn là bịa đặt
hoàn toàn. Những sự kiện đó có thật nhưng cũng không được bài báo nói đến. Nếu
Yakanov tỏ ra do dự, y có thể bị nghi ngờ. Và một bài báo như bài này làm hại
được ai?
Bài báo đó được đăng lên mặt báo.
Angiya gửi trả lại chiếc nhẫn đính hôn buộc
vào một tờ giấy nhỏ trên đó nàng viết: “Gửi
cho Cyril”.
Và Yakanov không buồn, y còn cảm thấy nhẹ
người, dễ chịu.
Y đứng lên và nhón gót cho thật cao, nhìn
qua một khung cửa sổ gắn kiếng mờ nhìn vào bên trong giáo đường. Không khí có
mùi gạch vụn, lạnh và ẩm. Y không thể nhìn rõ những vật bên trong, y chỉ lờ mờ
thấy đó là những đống đá nhỏ và rác rưởi.
Yakanov rời xa khung cửa sổ, nhịp đập của
trái tim y chậm xuống và y dựa vai vào thành đá của khung cửa sắt han rỉ nhiều
năm nay không được mở.
Một lần nữa sức nặng của khối đe dọa lạnh
như đá băng do Abakumov ném ra lại đập trúng ngực y.
Lúc này Yakanov đang ở vị trí quyền hành
cao nhất đời y. Y đang giữ một chức vụ quan trọng với một cấp bậc cao trong một
Tổng Bộ mạnh nhất. Y thông minh, tài ba - và nổi tiếng là người thông minh, tài
ba. Người vợ trẻ đẹp, khả ái của y chờ đợi y về ở nhà riêng của y. Những đứa
con kháu khỉnh má đỏ hồng của y ngủ bình yên trên những chiếc giường của chúng.
Y có một nơi ở đẹp trong một tòa chung cư ở Mạc Tư Khoa gồm nhiều căn phòng trần
cao và một ban-công nhìn xuống đường. Lương tháng của y được tính bằng nhiều
ngàn đồng. Một chiếc xe Pobeda được dành riêng cho y bất cứ lúc nào y cần đi. Vậy
mà trong buổi sáng lạnh này y vẫn đứng dựa vai vào thành đá chết và y không còn
muốn sống lâu hơn nữa. Trong tâm hồn y chỉ còn có tuyệt vọng, tất cả đều vô vọng
ở trong y đến nỗi y không còn cả sức để bước đi.
Trời đã sáng.
Không khí của buổi sáng tinh sương trong vắt.
Sương đọng lại thành băng ở quanh gốc cây sồi bị chặt đổ, bám trắng những đầu
mái giáo đường gần sụp đổ hoàn toàn, băng đá cũng bám trên những khung sắt cửa
sổ, trên những sợi dây điện chạy ngang và trên hàng rào bao quanh khu sắp xây cất
tòa nhà chọc trời dưới chân đồi.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét