Những Chiến Dịch Đặc Biệt
Tác giả: Pavel Xudoplatov
Người dịch: Nguyễn Văn Thảo
Thể loại: Hồi ký
Nhà xuất bản Công an nhân dân
Năm xuất bản: 2003 (Lưu hành nội bộ)
Chương 12: Âm Mưu Chống Beria Và Sự Sụp Đổ
Của Ông
4. Đối kháng với chính quyền và điều tra
Qua đi mấy ngày.
Ngày 21-8-1953 người ta bắt tôi. Đó là thứ
sáu. Tôi đang trong văn phòng của mình khi sĩ quan trực ban vào hỏi tôi có ý định
gọi Eitingon để lập hồ sơ về hưu cho ông không do thiếu tài liệu về các vụ công
cán nước ngoài. Sĩ quan trực, trung tá, tức dưới cấp tôi, đã quan tâm đến công
việc không thuộc chức năng của anh ta. Tôi hiểu: đó là một dấu hiệu xấu... Sau
một lúc, Eitingon gọi điện thoại cho tôi và nói ông được gọi vào Cục
cán bộ, mà ông đang bị loét dạ dày, vì thế không thể đi được. Tôi trả lời là
không biết người ta gọi để làm gì. Sau một giờ - trong cửa văn phòng xuất hiện
thiếu tá Bưtskov, thư ký của tôi. Anh ta nói có tài liệu với chỉ thị mật của Bộ
trưởng được gửi tới. Lúc ấy một trong số phó của tôi, bí thư đảng ủy cơ quan
Xtudnikov đang báo cáo, tôi lệnh cho anh ta ra, và Bưtskov dẫn vào ba sĩ quan.
Tôi biết một trong ba người - đó là trung
tá Gordeev, chỉ huy cơ quan chịu trách nhiệm bắt giữ và lục soát trong những
trường hợp đặc biệt quan trọng. Chính Gordeev tiến hành bắt giữ Voznexenxky ủy
viên Bộ Chính trị; Kuznetsov Bí thư BCHTƯ đảng; Sakhurin Bộ trưởng Công nghiệp
hàng không và những nhân vật chức quyền cao khác. Tôi hỏi ngay có lệnh bắt tôi
không. Gordeev trình nó và nói lệnh do Kruglov ký, còn quyết định lục soát do
Xerov ký.
Lúc đó tôi đề nghị không đi qua phòng tiếp
khách để khỏi gây náo loạn cho các nhân viên, mà ra từ cửa khác. Đó là sự vi phạm
thô bạo luật pháp, nhưng họ đồng ý. Theo mọi nguyên tắc, tôi phải ký biên bản
khám xét trong văn phòng tôi và ở nguyên vị trí khi chưa lục soát xong.
Chúng tôi đi xuống dưới từ tầng bảy vào nhà
tù nội bộ nằm dưới hầm Lubianka. Thiếu sự tuân thủ các hình thức, tôi viết phiếu
đăng ký và bị nhốt vào xà lim như một tù nhân đeo số tám.
Tôi xúc động mạnh nên không nhớ những gì diễn
ra quanh tôi. Chỉ nhớ - đầu tôi rất đau, nhưng may thay, tìm được trong túi những
viên thuốc. Tôi kinh ngạc khi sực nhớ người ta không khám người tôi mà chỉ kiểm
tra xem có vũ khí hay không. Đến giờ ăn, tôi cố nuốt một thìa canh để trôi viên
thuốc, và bắt đầu ngẫm nghĩ về tình cảnh của mình. Vừa lúc cửa mở và hai giám
thị vội vã đưa tôi ra khu hành chính nhà tù và lục soát. Tôi bị tước đi hết, kể
cả những viên thuốc giảm đau. Người ta tháo khỏi tay tôi cái đồng hồ Thụy Sĩ có
lịch mà tôi mua 15 năm về trước ở Bỉ, và đặt vào túi trên áo vét của tôi. Tôi bị
dẫn đến cái xe tù bịt kín, và vào thời điểm cuối một trong số giám thị rút đồng
hồ từ túi của tôi. Sự ăn cắp vặt này làm tôi sững sờ: tôi không thể tưởng tượng
rằng các giám thị nhà tù đặc biệt bí mật có thể xử sự như những tên móc túi. Đó
là tôi nghĩ lúc đó, dù tôi càng rõ hơn rằng tôi đã bị phán quyết. Sau đó tôi chợt
nghĩ rằng, có thể, tôi sẽ lợi dụng việc ăn cắp đồng hồ này.
Người ta đưa tôi đến nhà tù Butưrok nơi lặp
lại sự lục soát, sau đó bị nhét vào xà lim đơn, không khác gì xà lim nhà tù Phần
Lan nơi thời trai trẻ tôi đã bị ngồi mấy tháng. Cuộc hỏi cung đầu tiên diễn ra
ngay ngày hôm đó, lúc đêm khuya. Rudenko và đại tá tư pháp Tsaregadxky hỏi cung
tôi. Rudenko thô lỗ tuyên bố rằng tôi bị bắt như một kẻ tham gia tích cực vào
âm mưu của Beria mà mục đích là chiếm chính quyền, rằng tôi là nhân vật tin cậy
và đồng lõa của Beria trong các vụ thỏa thuận bí mật với các cường quốc nước
ngoài chống lại quyền lợi của nhà nước Xô viết, rằng tôi tổ chức một loạt hành
động khủng bố chống lại kẻ thù cá nhân của Beria và lập kế hoạch ám hại các nhà
lãnh đạo nhà nước Liên Xô.
Nghe những lời buộc tội kinh tởm ấy, tôi giận
dữ chống lại những hành vi phạm pháp đối với tôi như một kẻ bị bắt: tôi không
có mặt khi lục soát văn phòng mình, người ta không đưa cho tôi danh mục các đồ
vật tịch thu lúc lục soát, và tột độ là khi áp giải đưa tôi về nhà tù Butưrok
giám thị đã ăn cắp chiếc đồng hồ Thụy Sĩ đeo tay của tôi.
Rudenko và Tsaregradxky hóa đá, trợn trừng
nhìn tôi, không tin vào tai mình. Cuối cùng Rudenko trấn tĩnh và nói rằng sẽ ra
lệnh xem xét mọi sự. Trong khi cả hai đang bối rối, tôi quyết định dấn tiếp và
thể hiện sự phản kháng, rằng bất kể luật pháp, tôi bị hỏi cung ban đêm. Nhưng
Rudenko đã cảnh giác và dứt lời tôi:
- Chúng tôi sẽ không tuân thủ nguyên tắc
khi hỏi cung những kẻ thù đáng nguyền rủa của chính quyền Xô viết. Các anh ở
NKVD đã tuân thủ các hình thức cơ đấy. Với các anh, với Beria và toàn bè đảng
các anh, chúng tôi sẽ xử sự thế đấy.
Bản sao cuộc hỏi cung đầu tiên của tôi ngày
21-8-1953, Rudenko chuyển cho Malenkov. Tôi biết về điều đó sau 40 năm, khi cố
vấn tổng thống Eltsin, thượng tướng Dmitri Volkogonov cho con trai tôi xem tài
liệu này. Biên bản, cần nói đúng cho Rudenko, không có những thú nhận bịa đặt
và xuyên tạc. Trong đó ghi lại rằng tôi không thừa nhận những cáo buộc dành cho
tôi, rằng về hoạt động “tội phạm” của Beria tôi chỉ được rõ từ thông báo chính
thức và tôi không hề biết một âm mưu nào trong Bộ Nội vụ. Tuy vậy, trong biên bản
không nhắc đến những phản kháng của tôi.
Sáng hôm sau trong xà lim xuất hiện sĩ quan
trực ban với danh mục các đồ vật tịch thu trong lúc lục soát tôi, trong chúng
có chiếc đồng hồ. Tôi ký tài liệu.
Tại cuộc hỏi cung thứ hai, tiện thể nói
thêm, diễn ra ban ngày, Rudenko nhã nhặn hỏi tiểu sử của tôi. Trả lời ông ta,
tôi nhấn mạnh rằng không có quan hệ gì với Beria cho đến khi ông được đề cử năm
1938 vào bộ máy trung tâm của NKVD.
Bất ngờ Rudenko đề nghị tôi đưa ra những lời
khai làm chứng chống lại Beria: kể về kế hoạch của ông câu kết ngầm với Hitler
về ký kết hòa bình riêng rẽ nhờ sự trung gian của đại sứ Bungari Xtamenov, về sự
lôi kéo “gián điệp Anh” Maixky để thiết lập những tiếp xúc mật với Churchill,
và, cuối cùng, về những âm mưu được chuẩn bị nhằm tiêu diệt ban lãnh đạo Liên
Xô bằng thuốc độc. Rudenko nói thêm rằng Beria đã hủy bỏ mệnh lệnh của chính phủ
về việc bắt cóc các thủ lĩnh lưu vong Gruzia ở Paris bởi trong số chúng có ông
chú của vợ ông. Giúp chúng tôi vạch mặt
những kế hoạch độc ác của Beria là nghĩa vụ đảng viên của anh, ông ta nói.
- Thứ nhất, tôi không biết các kế hoạch
kinh khủng này, - tôi đáp, - thứ hai, Xtamenov là điệp viên của chúng ta mà qua
đó theo lệnh chính phủ tung tin giả nhằm tranh thủ thì giờ, dừng sự tấn công của
quân Đức. Còn Maixky thì tôi trò chuyện lần cuối cùng năm 1946, khi Beria không
còn phụ trách cơ quan an ninh, mà chỉ chuyên trách tình báo nguyên tử, và từ đó
đến giờ tôi chẳng có liên hệ gì với ông ta.
Tôi cũng phủ nhận sự tham gia vào các kế hoạch
khủng bố chống các kẻ thù của Beria: suốt ba mươi năm phục vụ trong cơ quan an
ninh tôi đã làm tất cả, nhiều khi liều cả mạng mình để bảo vệ chính phủ, nhà nước
và người Xô viết khỏi những kẻ thù chung của chúng ta.
Rudenko thô lỗ cắt ngang tôi và đưa ra thêm
một buộc tội nữa: tôi không thi hành lệnh Stalin và Malenkov thủ tiêu những kẻ
thù độc ác nhất của nhà nước Xô viết như Kerenxky và Tito. Ông ta nói:
- Đừng nuôi ảo tưởng rằng nếu anh và
Eitingon nhiều năm về trước đã tiến hành chiến dịch thủ tiêu Trotsky và
Konovalets, thì điều đó cứu được các anh. Đảng và chính phủ đề nghị các anh hợp
tác với chúng tôi vạch trần các hành động tội phạm của Beria, và số phận anh phụ
thuộc vào việc anh giúp chúng tôi như thế nào. Nếu anh từ chối cộng tác với
chúng tôi, thì chúng tôi tiêu diệt không chỉ anh, mà toàn bộ gia đình anh. Bây
giờ anh là tù nhân số tám trong 50 tên bị bắt về vụ án Beria.
Qua những năm thanh trừng và những phiên tòa
công khai tôi tất nhiên biết người ta dùng những biện pháp gì để đạt được những
thú nhận và chứng cứ giả.
Từ các hồ sơ điều tra của những tình báo viên
chúng tôi bị bắt vào những năm 1937-1938, tôi hiểu một điều: dù số phận anh đã
bị định trước, biện pháp duy nhất giữ phẩm cách con người và tên tuổi mình
trong sạch - phủ nhận những tội ác được gán cho anh khi còn đủ sức. Đồng thời
tôi hiểu rằng để cứu bản thân và gia đình, tôi không nên thể hiện tính thủ cựu
liên quan đến sự tồn tại âm mưu của Beria. Vì thế tôi tuyên bố rằng sẵn sàng
thông báo về tất cả các sự kiện tôi rõ. Đồng thời tôi tiếp tục giữ ý kiến là
tôi không biết gì về âm mưu của Beria và những vụ thủ tiêu người không có lợi
cho ông. Tôi nói rằng lệnh về kế hoạch bắt cóc các thủ lĩnh Gruzia lưu vong ở
Paris và lệnh hủy bỏ nó xuất phát từ chính phủ, điều đó được khẳng định bởi bộ
trưởng Kruglov với sự hiện diện của tôi sau việc bắt Beria tại cuộc họp Đoàn chủ
tịch BCHTƯ ĐCS Liên Xô ngày 5-8-1953.
Đó là lần gặp cuối cùng của tôi với
Rudenko. Sau một ngày các cuộc hỏi cung đã lặp lại, nhưng bây giờ do
Tsaregradxky tiến hành, kẻ tuyên đọc cáo trạng chính thức cho tôi có tội trong
âm mưu với sự tham gia của Xtamenov với mục đích ký kết hòa bình tay đôi với
Hitler; trong sự thành lập một nhóm đặc biệt trực thuộc bộ trưởng Bộ Nội vụ để
theo lệnh Beria thực hiện những vụ sát hại bí mật những người có thái độ thù địch
đối với ông và các nhà lãnh đạo đảng và chính phủ, trong sự câu kết với “tên Do
Thái” Mairanovxky, cựu trưởng “Phòng thí nghiệm - X”, để thực hiện những vụ giết
người này với sự ứng dụng các chất độc đặc biệt. Theo lời ông ta, tôi sử dụng
Mairanovxky, người bị bắt trước tôi, như người họ hàng của mình và là nhân vật
tin cậy để giết các kẻ thù của Beria tại các điểm hẹn và biệt thự bí mật của
NKVD-MGB.
Thêm vào các lời buộc tội đó ông ta còn bổ
sung sự tham gia trong âm mưu với mục đích giành chính quyền trong nước và che
giấu chính phủ thông tin về những hoạt động phản bội của “bè lũ Tito” Nam Tư những
năm 1947-1948.
Tsaregradxky nói về kế hoạch của Beria chạy
trốn sang phương Tây bằng máy bay chiến đấu từ căn cứ không quân gần Murmanxk.
Tôi gạt bỏ những lời bịa đặt này và tuyên bố: lực lượng không quân không phụ
thuộc vào tôi, và vì thế tôi không thể giúp thực hiện một kế hoạch tương tự. Rõ
ràng người ta xuyên tạc chiến dịch kiểm tra thành công hệ thống phòng không của
NATO. Chuyến bay đường dài của máy bay ta trên các căn cứ quân sự ở Na Uy cho
phép xác định điểm yếu của người Mỹ và người Anh. Sau gần 40 năm, tôi gặp đại
tá Zimin, sĩ quan của chúng tôi giữ tiếp xúc với Bộ Tổng tham mưu, ông kể với
tôi rằng, chuyến bay ấy suýt dẫn ông vào tù. Đã rõ là Beria với tư cách phó chủ
tịch thứ nhất Hội đồng bộ trưởng đã cho phép chuyến bay này nhưng không báo cáo
với Malenkov. Và chính sự kiện đó mới được dẫn ra như chứng cứ rằng Beria muốn
sử dụng căn cứ không quân gần Murmanxk để chạy trốn khi âm mưu của ông thất bại.
Thượng tướng Xtemenko, phó Tổng tham mưu
trưởng, như người có sáng kiến “những kế hoạch phản bội” này lúc ấy chưa đến
năm mươi tuổi, buộc phải xuất ngũ. Khrusev và Malenkov đã nương nhẹ và không muốn
đưa ra trước tòa các quan chức quân đội cao cấp. Gần mười lăm năm sau Brejnev
đưa Xtemenko trở lại quân đội chính quy để soạn thảo kế hoạch đổ quân vào Tiệp
Khắc. Xtemenko hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và nhận quân hàm đại tướng và ngôi
sao Anh hùng Liên Xô vì nhiệm vụ này.
Tsaregradxky đưa ra với tôi lời buộc tội, rằng
tôi bằng cách “phản bội hèn nhát nhất” đã làm đổ vỡ chiến dịch thủ tiêu Tito. Tất
nhiên mọi phản kháng và đòi hỏi cho tôi phản bác những cáo buộc này đã bị phớt
lờ.
Tsaregradxky khép tội liên hệ của tôi với
“những kẻ thù của nhân dân” bị xử bắn - Spigelglaz, Maly và các nhà tình báo
khác. Ông ta cố trình bày tôi là kẻ đồng lõa của họ, khi nói rằng Beria biết
các mối liên hệ xấu xa này, nhưng muốn im đi, nhằm tuyển mộ tôi một cách tin cậy
hơn vào tổ chức những kẻ mưu phản của ông. Lừa dối đảng và chính phủ, tôi nhận
từ tay Beria những phần thưởng cao không xứng đáng. Đồng thời, ông ta nói,
Beria che giấu BCHTƯ và chính phủ, rằng tôi có vô số tài liệu làm ô danh trong
Bộ phận điều tra của NKVD-MGB, và cất nhắc tôi thành một trong những lãnh đạo của
ngành tình báo Xô viết.
Trong những năm chiến tranh, theo lời
Tsaregradxky, thi hành chỉ thị của Beria, tôi bí mật gài mìn các biệt thự và
dinh thự ngoại thành của chính phủ, còn sau đó che giấu sự gài mìn các cơ sở
này trước Cục bảo vệ Kremli để tiêu diệt các nhà lãnh đạo đảng và chính phủ vào
thời điểm thích hợp đối với bọn mưu phản. Sau này tôi biết rằng phó của tôi, đại
tá Orlov bị gọi vào Viện Công tố và được lệnh cùng một nhóm cán bộ rà soát các
dinh thự chính phủ ở tuyến đường Minxk tìm mìn chôn theo lệnh của tôi. Cuộc tìm
kiếm kéo dài một tháng rưỡi nhưng không phát hiện được quả mìn nào cả.
Thực ra như tôi đã kể, chúng tôi được lệnh
rải mìn để ngăn chặn bước tiến của quân Đức vào tháng 10-1941. Nhưng sau khi
đánh lui quân Đức, mìn đã được gỡ bỏ.
Các nhóm công binh đặc biệt cũng cố phát hiện
các báu vật do Beria “giấu” trong các hầm đặc biệt, nhưng chẳng tìm được gì.
Tại các cuộc hỏi cung tôi không bị đánh đập,
nhưng không được ngủ. Các điều tra viên thay đổi nhau, cho tận 5 giờ sáng lặp
đi lặp lại chỉ một câu hỏi: tôi có thú nhận sự tham gia của mình trong các kế
hoạch và hoạt động phản bội của Beria hay không?
Gần một tháng rưỡi sau, tôi hiểu rõ, sự thừa
nhận nói chung không cần đối với Tsaregradxky. Đơn giản tôi sẽ bị dẫn đi lúc kết
thúc vụ án một cách hình thức và người ta sẽ bắn tôi như một kẻ thù chưa tước
vũ khí, lì lợm phủ nhận tội lỗi của mình. Thế nhưng tôi hiểu rằng một số người
bị bắt, ví dụ, Bogdan Kobulov, cố kéo dài thời gian. Tsaregradxky cho tôi xem
những đoạn trích từ biên bản hỏi cung ông ta: Kobulov không khai về tội gián điệp,
các chiến dịch với điệp viên nước ngoài, thay vào đó ông ta nói rằng bộ máy của
Xudoplatov “bị đầy rẫy” những cá nhân đáng ngờ. Một điều tra viên đầy kinh nghiệm,
Kobulov cố tạo nên ấn tượng, dường như ông ta cộng tác với Viện Công tố và có
thể sẽ có lợi cho nó trong tương lai. Đối với tôi một phương án như thế là
không thể chấp nhận. Tôi hiểu rằng tôi thuộc danh sách những nhân vật và quan
chức MVD cần phải bị tiêu diệt. Những lời buộc tội tôi dựa trên các sự kiện mà
chính phủ xem xét chúng không phải dưới ánh sáng sự thật, mà chỉ là nguyên cớ để
loại bỏ tôi - một chứng nhân không mong muốn.
Trong khi diễn ra những cuộc hỏi cung, tôi
ngồi trong xà lim đơn. Người ta không bố trí đối chứng với các nhân chứng hay
cái gọi là những kẻ đồng lõa, nhưng tôi có một cảm giác là kề bên có những nhân
vật chủ chốt khác về vụ án này. Ví dụ, tôi nhận ra bước đi của Merkulov khi ông
ta bị dẫn đi hỏi cung ngang qua xà lim tôi. Tôi biết Merkulov gần gũi với Beria
thời ở Kavkaz và sau này ở Moskva, nhưng suốt 8 năm gần đây đã không làm việc với
ông, vì đã bị cách chức Bộ trưởng An ninh từ năm 1946. Tôi hiểu Rudenko nhận được
chỉ thị tiêu diệt những người thân cận với Beria kể cả trong quá khứ. Tôi cũng
biết Merkulov bị đột quỵ ngay sau cái chết của Stalin và đang ốm nặng. Nếu
Beria lập kế hoạch mưu phản, khó tưởng tượng nổi là Merkulov có thể đóng được
vai trò gì đáng kể trong đó.
Ở giai đoạn điều tra này tôi quyết định
hành động trong tinh thần những lời khuyên mà người đi trước và thầy tôi
Spigelglaz đã cho những tình báo viên bị bắt quả tang và không có khả năng phủ
nhận tội mình: từ từ cần ngừng trả lời các câu hỏi, từ từ ngừng ăn, không thông
báo tuyệt thực mà mỗi ngày vứt một phần thức ăn vào hố xí. Sẽ đảm bảo rằng sau
hai-ba tuần anh sẽ rơi vào suy kiệt, sau đó là nhịn ăn hoàn toàn. Sau đó một thời
gian bác sĩ trại giam sẽ đến và đưa ra chẩn đoán: kiệt sức; sau đó anh sẽ được
chuyển vào bệnh viện và chịu chế độ nuôi dưỡng cưỡng chế.
Tôi biết rằng Spigenglaz “bị gãy” trong nhà
tù Lefortovo, ông chịu đựng trò chơi này được hai tháng. Đối với tôi mẫu mực là
Kamo (“Ter-Petroxian”) chỉ huy nhóm chiến đấu bí mật mà theo mệnh lệnh của
Lenin đã cướp tiền ở nhà băng Tbilixi năm 1907 và chuyển chúng sang châu Âu. Ở
đấy Kamo bị cảnh sát Đức bắt khi người của ông định đổi số tiền cướp được.
Chính quyền Sa hoàng đòi trao trả ông ta, nhưng Kamo đã phản kháng thụ động: giả
vờ rơi vào trầm uất. Các bác sĩ thần kinh giỏi nhất của Đức chỉ ra trạng thái
suy yếu thần kinh của ông. Điều đó đã cứu Kamo. Ông được chữa chạy trong tù mà
từ đó ông trốn thoát được. Sau cách mạng Kamo làm việc tại Treka với Beria ở
Kavkaz và hy sinh ở Tbilixi năm 1922.
Như Kamo kể với các chiến sĩ Treka trẻ, thời
điểm khó khăn nhất là khi người ta chọc vào cột sống để kiểm tra phản ứng đau của
người bệnh và đưa anh ta ra khỏi trầm uất. Nếu chịu được nỗi đau kinh khủng, bất
cứ bác sĩ thần kinh nào cũng sẽ phán rằng anh không thể bị hỏi cung và đưa ra tòa.
Cuối mùa thu tôi bắt đầu mất sức.
Tsaregradxky cố đánh lừa tôi, nói rằng đối với tôi chưa phải đã hết tất cả: những
chiến tích quá khứ có thể được lưu ý. Nhưng tôi không trả lời các câu hỏi đặt
ra. Người ta đưa đến xà lim một nữ bác sĩ, tôi không trả lời câu hỏi và cô ta đề
nghị chuyển tôi sang khối bệnh viện để kiểm tra.
Trong khối bệnh viện người ta bỏ tôi ngoài
hành lang trước văn phòng của bác sĩ. Bất ngờ xuất hiện một nhóm tù hình sự ba
hay bốn tên, được dùng làm hộ lý. Chúng bắt đầu la hét rằng cần kết liễu tên cớm
này, và xông vào đánh tôi. Tôi quá yếu không thể chống cự, chỉ ngọ ngoạy để giảm
bớt cú đánh. Sự đánh đập kéo dài mấy phút, nhưng trong tôi có niềm tin chắc chắn
rằng các bác sĩ theo dõi màn diễn này từ phòng mình. Bảo vệ quay lại và đuổi bọn
hành hạ tôi đi. Tôi hiểu: chúng được lệnh không đánh vào đầu.
Trong phòng tôi bị ép ăn. Về thời gian này
tôi chỉ nhớ một cách mơ hồ. Sau mấy ngày trong bệnh viện tôi bị chọc cột sống -
thực sự là đau khủng khiếp, nhưng tôi đã chịu được và không kêu thét.
Trong ghi chép của vợ, tôi đã ở ban thần
kinh bệnh viện nhà tù Butưrok hơn một năm. Suốt thời gian đó người ta nuôi tôi
một cách cưỡng chế. Tôi đã sống sót nhờ sự nâng đỡ của vợ. Sau hai-ba tháng tôi
bắt đầu cảm thấy sự nâng đỡ đó: hàng tuần có thức ăn gửi đến, các hộ lý bày ra
những đồ ăn - hoa quả tươi, cá, cà chua, dưa chuột, gà rán..., nhìn đồ ăn tôi
biết đó là mẹ vợ tôi chuẩn bị. Trái tim ngập niềm vui: trong nhà mọi sự đều ổn,
có thể khỏi lo, dù Tsaregradxky nói rằng những người thân của tôi bị lưu đày và
đã từ tôi như từ một kẻ thù của nhân dân.
Sau mấy tháng cô y tá túc trực thường xuyên
trong phòng tôi, nói những lời đáng ngạc nhiên:
- Pavel Anatolievich ạ, tôi thấy anh không
ăn cà chua. - Và nhìn vào mắt tôi, cô nói thêm: - Tôi sẽ làm nước cà chua cho
anh. Nó tăng sức cho anh đấy. Người ta nói, để sống sót, điều đó đơn thuần là cần
thiết.
Quan hệ thân tình đặc biệt giữa chúng tôi
đã bắt đầu như thế. Khi trực cô ngồi cạnh tôi trên giường và im lặng đọc sách.
Có lần tôi chú ý đến tờ báo bọc quyển sách, và thấy thông báo về xử bắn
Abakumov. Điều đó dẫn tôi đến ý nghĩ, nghĩa là cả Beria, cả những cán bộ có
trách nhiệm, bị bắt theo vụ án của ông cũng đã bị bắn. Ở đấy có tên mấy cán bộ
cấp bậc thấp hơn tôi. Đành vậy, đừng chờ sự tha thứ, tôi nghĩ. Nghĩa là trò
chơi vẫn tiếp diễn. Tôi chống cự không ăn uống. Nhưng nhờ cô y tá tôi biết được
đôi điều đang diễn ra bên ngoài. Những cuốn sách cô đọc được bọc báo có thông
tin quan trọng đối với tôi. Tôi hiểu cách này do vợ tôi nghĩ ra khi lôi kéo được
cô y tá về phía mình.
Tôi gặp may là không rơi vào làn sóng thứ
nhất những kẻ bị xử về vụ Beria. Các bà vợ của Beria, Goglidze, Kobulov, Mesik,
Mamulov và của những người khác bị bắt và chịu đi đày.
Nhanh chóng sau khi tôi bị bắt, Vera
Xpektor bà hàng xóm cạnh nhà (vợ tôi làm việc với Mark Xpektor, chồng bà vào những
năm 20 ở GPU Ôđécxa) gặp vợ tôi và bằng cử chỉ cho thấy muốn nói chuyện với cô
không có ai trông thấy trên hành lang.
Lúc gặp bà nói:
- Mark chuyển lời chào và yêu cầu tôi nhất
thiết nói với cô: chính phủ đã hủy bỏ sắc lệnh mà theo đó Bộ Nội vụ hay bất cứ
công sở có quyền trục xuất hành chính các thành viên gia đình của kẻ thù nhân
dân thiếu quyết định của tòa án.
Dù người ta tìm mọi cách đòi vợ tôi trả lại
căn hộ, cô chống cự và tuyên bố chỉ tuân theo quyết định của tòa án.
Cực kỳ quan trọng là cuộc gặp gỡ của cô với
chính Xpektor, đại tá an ninh về hưu - đó là một người sáng suốt. Họ gặp nhau
như tình cờ tại bệnh viện MVD, chứ không phải ở nhà tôi. Xpektor rất có cảm
tình với tôi nên hiểu mọi sự buộc tội tôi là quá vớ vẩn. Khi nghe đồn tôi sắp
chết, ông soạn ra kế hoạch để vợ tôi tiếp xúc bí mật với tôi. Mark bố trí cho vợ
tôi gặp Volkhonxky, phó Tổng cục trưởng các trại giam, và Butưrok cũng do ông
phụ trách. Volkhonxky đưa ra phương án: vào một ngày định trước, khi ông tiếp họ
hàng những người bị bắt, vợ tôi sẽ đến văn phòng ông tại nhà tù Butưrok với lý
do là cô không tin những lời đồn hình như chồng vẫn sống, và muốn biết tại sao
- vi phạm mọi nguyên tắc nhà tù - ban quản trị Butưrok đòi hỏi chuyển thức ăn
cho chồng hàng ngày. Cô đúng là mang đến tất cả những gì bác sĩ đòi hỏi, trừ rượu.
Volkhonxky bảo vợ tôi đến chính xác vào giờ hẹn, để ông có thể gọi cô y tá mới
được chọn trực trong phòng tôi. Đó chính là cô y tá đã làm tôi ngạc nhiên kia -
cô chừng hai lăm tuổi, đôn hậu.
- Việc tiếp theo tùy thuộc vào chị, hãy làm
việc với cô ta và lôi kéo cô ta, - Volkhonxky nói thêm.
Vợ tôi quyết định kể với cô y tá, Maria
Kuzina, về người bolsevich, một anh hùng chiến tranh bị bôi nhọ để chiếm cảm
tình của cô, Volkhonxky nói thời gian trò chuyện không được quá 3-4 phút.
Chưa qua một tháng, kế hoạch đã thực hiện
được. Vợ tôi gặp cô y tá, cầu xin cô và Volkhonxky giúp cứu chồng, để tôi được
ra tòa nơi sẽ quyết định một cách công bằng số phận của tôi. Cuộc nói chuyện tất
nhiên bị ghi băng, nhưng nó không gây sự chú ý của Viện Công tố. Vợ tôi đã tìm
cách liên lạc với Maria và giữa họ đã có quan hệ tin cậy. Vợ tôi tìm mọi khả
năng có thể để cảm ơn người phụ nữ đôn hậu này. Chúng tôi giữ quan hệ thân tình
cả sau khi tôi được tha.
Trong tù không bao giờ tôi trò chuyện với
Maria - cô chỉ dịu dàng nắm tay tôi, cho thấy rằng, tờ báo bọc sách sẽ cho tôi
thông tin cần thiết.
Cứ thế kéo dài chừng nửa năm, và rất bất ngờ
đối với tôi, người ta đặt tôi lên cáng và trong chiếc xe y tế chuyên môn có
lính gác chở tôi ra ga xe lửa. Đó là mùa đông năm 1955. Từ lúc tôi bị bắt đã
qua chừng một năm rưỡi.
Hai lính áp giải vũ trang mặc dân sự khênh
tôi vào ngăn tàu. Con tàu đi đâu? Tôi không biết. Thế nhưng dù trời tối tôi vẫn
kịp đọc tấm biển trên toa “Moskva-Leningrad”.
Trong ngăn tàu có tôi và Maria. Lập tức sau
khi tàu khỏi hành lính áp giải khóa cửa bỏ đi, nói sẽ quay lại sau nửa giờ. Tôi
nằm ở ngăn dưới, còn Maria - ngăn trên. Không nói một lời, cô chìa cho tôi cuốn
sách bọc tờ báo Sự thật với chính bài
báo về việc xử bắn Abakumov nọ. Trong báo cũng nói về việc Malenkov thôi chức vụ
đứng đầu chính phủ, thay ông ta là Bulganin. Thông tin này đặc biệt quan trọng
đối với tôi.
Tại nhà ga Moskva ở Leningrad xe cấp cứu đã
chờ chúng tôi và tôi bị chở về Chữ thập
nổi tiếng buồn thảm - nhà tù mà thời Sa hoàng dùng để tạm giam. Một chái nhà tù
được biến thành bệnh viện tâm thần. Khám cho tôi là bác sĩ tâm thần, trung tá
quân y Petrov, người về sau theo dõi “việc chữa trị” người theo phái ly khai -
bảo vệ nhân quyền Vladimir Bukovxky. Thời của tôi nhà tù đầy rẫy không chỉ tù
hình sự mà cả tù chính trị, một số họ đã ở đây hơn mười lăm năm.
Petrov hoàn toàn vừa ý việc khám bệnh và xếp
tôi vào lán cùng tướng Xumbatov, Cục trưởng Cục kinh tế Bộ An ninh, và
Xarkixov, chỉ huy bảo vệ của Beria. Tôi hiểu lán bị nghe trộm. Tôi cảm thấy là
cả hai người cùng phòng đều bị bệnh tâm thần. Xarkixov có thời là công nhân nhà
máy dệt ở Tbilixi luôn mồm than vãn rằng những lời buộc tội dối trá đối với anh
ta đã phá vỡ sự hoàn thành cấp tốc kế hoạch 5 năm trong công nghiệp dệt. Anh ta
xin các bác sĩ giúp vạch mặt công tố viên Rudenko, kẻ cản trở ứng dụng máy mới
anh ta phát minh và tăng năng suất dệt, bằng cách đó không cho anh ta nhận danh
hiệu Anh hùng Lao động Xã hội chủ nghĩa.
Xumbatov ngồi trên giường, khóc và hét. Từ
những lời rời rạc của ông có thể hiểu rằng của báu Beria chôn tại biệt thự Hội
đồng bộ trưởng ở Jukovka gần Moskva, chứ không phải bị bọn buôn lậu chở ra nước
ngoài. Sau đó tiếng hét của ông càng to hơn. Thoạt đầu tôi nghĩ tiếng hét là phản
ứng vì các mũi tiêm, nhưng khi ông chết, tôi đã biết ông bị ung thư và nỗi đau
không chịu thấu cứ hành hạ ông. Tại Chữ
thập tôi thành người tàn phế. Ở đấy lần thứ hai người ta chọc tủy sống tôi
và làm tổn hại nghiêm trọng cột sống. Tôi bất tỉnh, và chỉ truyền thức ăn để
đưa tôi trở lại cuộc sống. Đặc biệt nặng nề tôi phải chịu đựng là trị liệu sốc
điện, nó gây những cơn đau đầu kinh khủng.
Tôi ở Chữ
thập được một tuần thì vợ tôi đến Leningrad. Điều đó đã cứu sống tôi, bởi
cô kêu gọi được rất nhiều bạn bè chúng tôi, cựu cán bộ MGB Leningrad giúp đỡ.
Trong số đó, chú của vợ tôi, Krimker, một người quyến rũ nhiều tài, đã giúp được
nhiều nhất. Trí tuệ giàu sáng kiến của ông nghĩ ra chế độ ăn đặc biệt và đảm bảo
chuyển đều đặn vào lán cho tôi, còn để cung cấp thông tin, vợ và Krimker nghĩ
ra cách nói ẩn dụ. Phương thức như cũ: cuốn sách trong tay cô y tá được bọc
báo, kiểu như họ hàng gửi cho cô. Và thế là vợ cho tôi biết rằng “ông già”
(Stalin) bị đả phá tại cuộc họp chung của “các nông trang viên” (đại hội đảng lần
thứ XX), các “thủ quỹ” (những người bị bắt với tôi) cảm thấy tồi tệ, điều kiện ở
“trại chăn nuôi” vẫn thế, nhưng nó có đủ tiền và liên hệ để mọi thứ vẫn tiếp tục.
Tôi không hiểu nổi một câu: “không ai biết
bao giờ Lev Xemenovich chữa khỏi bệnh lao”. Hóa ra đó là một người có thật
- Lev Xemenovich Rapoport, đạo diễn nhà hát Akimov. Ông cho các con của cô y
tá, đến Leningrad học, thuê phòng. Đó là sự phòng ngừa nhỡ người ta lấy được bức
thư. Lúc ấy dễ dàng chứng minh là con người có thật trong thực tế.
Những phát tiêm thuốc aminazin đều đặn làm
tôi bị ức chế, và tâm trạng tôi hay thay đổi. Trước cuối năm 1957 chưa có cuộc
gặp mặt với vợ, nhưng viện công tố, muốn khép vụ án của tôi, đã cho phép cuộc gặp
gỡ. Trong tháng 12 tôi gặp vợ 7 lần. Tại buổi gặp nào cũng có điều tra viên
Tsaregradxky và hai bác sĩ. Tôi không nói một lời, nhưng ở lần gặp thứ hai tôi
không kìm nổi nước mắt. Vợ nói, với bọn trẻ mọi sự ổn thỏa và tất cả mọi người
đều khỏe. Tôi cũng biết rằng Raikhman được ân xá. Eitingon bị 12 năm tù, rằng
không ai tin vào tội lỗi của tôi, rằng bạn bè cũ vẫn giúp đỡ cô như cũ và tôi
nên bắt đầu ăn uống. Tôi không trả lời. Tôi cho là người ta cho gặp mặt nhằm
đưa tôi ra khỏi trạng thái trầm uất và chứng minh tôi giả vờ bệnh tâm thần để
tránh bị xử bắn.
Nhìn lại, tôi không loại trừ rằng dưới ảnh
hưởng các thủ tục điều trị tôi đích thực có thể lâm vào tình trạng thiểu năng ý
thức. Thế nhưng các thẩm định và bác sĩ chữa bệnh biểu hiện phần nào ngờ vực
trong đánh giá trạng thái của tôi. Trong một kết luận kín về vụ án tôi viết rằng
“Xudoplatov bị bắt, khi ở trong bệnh viện
đặc biệt của nhà tù, bị buộc tội đã tuân thủ sự bảo mật cần thiết về thực chất
của các hoạt động, trong những trường hợp riêng lẻ chuyển sang xử sự như một
người bình thường”. Kèm vào hồ sơ còn báo cáo điệp viên: “tội phạm Xudoplatov tiếp xúc trò chuyện, đã
lộ ra trí tuệ được giữ nguyên, nhân cách trọn vẹn, khả năng suy xét với sự ứng
dụng định hướng chính trị-xã hội, đặc biệt sự bảo mật công vụ”...
Thế nhưng sau một tháng tôi bắt đầu ăn thức
ăn khô, dù các răng cửa đã gãy do nuôi dưỡng cưỡng chế lâu dài. Tôi bắt đầu hồi
phục và trả lời những câu đơn giản. Điều kiện giam giữ tôi trở nên tốt hẳn.
Tháng 4-1958 trung tá Petrov tuyên bố rằng,
do trạng thái sức khỏe của tôi, có thể lập lại việc điều tra. Tôi lại được chở
ra ga và ngồi vào toa dành cho tù nhân. Tại Moskva tôi lại rơi vào nhà tù
Butưrok quen thuộc.
Tôi lập tức cảm thấy bối cảnh chính trị
trong nước đã thay đổi. Sau hai-ba ngày, một số giám thị và phụ trách khu nhà
tù - cựu sĩ quan và binh sĩ Binh đoàn đặc nhiệm - đã đến thăm tôi. Họ đến chào
và động viên tôi, công khai chửi rủa Khrusev vì đã hủy bỏ phụ cấp quân hàm
trong MVD và bằng cách ấy đặt họ vào địa vị loại người hạng hai so với những
quân nhân phục vụ trong quân đội Xô viết và KGB. Họ cũng bực tức vì Khrusev
hoãn đến hai mươi năm trả tín phiếu nhà nước mà tất cả chúng tôi có nghĩa vụ ký
với số tiền từ 10 đến 20% tiền lương. Tôi không biết trả lời thế nào, nhưng đã
cảm ơn vì sự ủng hộ tinh thần và vì khả năng được cạo râu - lần đầu tiên sau 5
năm.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét