Tầng Đầu Địa Ngục
(The First Circle)
Tác giả: A. Solzhenitsyn
Dịch giả: Hải Triều
Nhà xuất bản Đất Mới - Sài Gòn
Năm xuất bản 1973
Chương 10 - Tòa lâu đài huyền diệu
Trong nhiều năm - trong thời gian chiến
tranh và sau đó - Yakonov ngồi vững với địa vị kỹ sư trưởng Sở Tiếp liệu đặc biệt.
Y mang với một vẻ trang trọng đáng kính đôi cầu vai nền bạc viền xanh ở giữa có
ba ngôi sao mà sự hiểu biết của y đã đem lại cho y. Chức vụ của y đặc biệt đến
nỗi y có thể hoạt động trên một địa bàn rất rộng: đôi khi đọc một báo cáo đầy
những danh từ khoa học trước những nhân viên cao cấp trong guồng máy nhà nước,
đôi khi thảo luận một cách thông minh với một ngôn ngữ đầy những danh từ chuyên
môn với những kỹ sư về những phát minh mới nhất. Nhìn chung, y tự tạo cho y cái
uy tín là một nhà chuyên môn nhưng không phải lãnh trách nhiệm về bất cứ một
chuyện gì, và mỗi tháng y được lãnh vài ngàn đồng ruble. Yakonov chủ tọa cuộc lễ
khai sinh ra tất cả những phòng chuyên môn, những cuộc phát động thực hiện kế
hoạch, y biến mất trong giai đoạn khó khăn của kế hoạch để rồi lại xuất hiện
trước quan tài của những kẻ thất bại hoặc để choàng vòng hoa chiến thắng lên đầu
những kẻ thành công.
Anton Nikolayevich Yakonov không còn đủ trẻ
và đủ tự tin để mơ tưởng đến chuyện có ngày đoạt được huân chương Sao vàng hoặc
giải Stalin, hoặc mỗi khi có dịp là vồ lấy dự án lớn, quan trọng do Tổng thống
hay do chính Thủ lãnh tối cao đưa ra. Y đã có đủ kinh nghiệm và tuổi đời để
khôn ngoan lẩn tránh hệ thống rắc rối, phức tạp những xúc động, sợ hãi, âu lo
do tham vọng thái quá gây ra.
Với những quan điểm đó về cuộc đời, y sống
an nhàn, đầy đủ, sung sướng cho đến tháng Giêng năm 1948. Trong tháng Giêng ấy
có một kẻ nào đó đề nghị với Cha Chung của
dân tộc Nga La Tư ý kiến chế tạo một dàn máy điện thoại đặc biệt chỉ để
dành riêng cho Lãnh Tụ Tối Cao dùng mà thôi. Dàn máy điện thoại đó sẽ được chế
tạo sao cho không một kẻ nào có thể hiểu được Lãnh tụ nói gì, dù cho máy có bị
nghe trộm. Với ngón tay thần thánh, ngón tay vàng vì khói thuốc lá, vị Cha Hiền Dân Tộc chỉ lên tấm bản đồ.
Ngón tay đặt đúng lên Mavrino. Lúc ấy Mavrino là một xưởng chế tạo máy truyền
thanh xách tay cho cảnh sát dùng. Câu nói lịch sử của Người trong dịp này là “Ta cần những máy truyền thanh này để làm gì?
Để bắt kẻ trộm à? Ai thèm để ý đến bọn ăn trộm?”
Người ra thời hạn: ngày mùng một tháng
Giêng 1949. Người suy nghĩ rồi nói: “Thôi
được. Cho đến mùng một tháng Năm”.
Công tác này được đặt vào hàng ưu tiên số một
và quan trọng số một. Thời hạn của công tác quá chặt chẽ, quá gấp rút. Ở Bộ An
ninh, người ta thảo luận kỹ và người ta chọn Yakonov để trao cho việc đích thân
đốc xuất công tác này. Yakonov cố gắng một cách vô ích để trình bày rằng y đã
phụ trách quá nhiều việc và y không thể nào làm tròn được hai việc cùng một
lúc. Nhưng Foma Guryanovich Oskolupov, giám đốc Nha Kế hoạch Bộ An ninh, thượng
cấp trực tiếp của Yakonov, chiếu cặp mắt xanh như mắt mèo nhìn thẳng vào mắt
Yakonov - và Yakonov nhớ lại vết đen trên hồ sơ an ninh của y. Chính y cũng đã
từng phải ở tù sáu năm. Vì vậy, y ngậm miệng lại không dám nói gì nữa.
Từ đó - đã gần hai năm trời trôi qua - văn
phòng Trưởng Phòng Kỹ sư ở Tổng bộ An ninh vẫn để trống không có ai ngồi. Trưởng
Phòng Kỹ sư Yakonov sống suốt ngày đêm ở Viện Nghiên cứu Mavrino nằm ở ngoài
thành Mạc Tư Khoa, nơi có một tầng tháp hình lục lăng nổi cao trên mái tòa giáo
đường xưa cũ.
Thoạt đầu, việc một mình có toàn quyền quyết
định mọi việc là một lạc thú, Yakonov cảm thấy khoái lạc trong việc đóng cánh cửa
chiếc xe hơi Pobeda dành riêng cho y di chuyển với cử chỉ mệt mỏi. Y khoan
khoái ngồi trong chiếc xe êm đưa y tới Mavrino, đi ngang người binh sĩ chào
nghiêm với cây súng trên tay ở vọng gác ngoài cổng để vào tòa nhà chung quanh
có dây thép gai. Cuộc sống thật dễ chịu trong mùa xuân, khi cảnh vật đều trẻ
trung và tươi mởn, đi bộ dưới những hàng cây dẻ từng sống cả trăm năm bao quanh
Mavrino với một đám thiếu tá, đại úy tùy tùng. Trong thời gian đầu, những vị
thượng cấp của Yakonov không ai đòi hỏi gì ở Mavrino - Yakonov chỉ có việc đều
đặn gửi về Tổng bộ một lô những chương trình kế hoạch, sơ đồ và lời hứa sẽ làm
trọn những “bổn phận đối với chế độ”. Và vật dụng đủ thứ được tới tấp đổ xuống
Viện Nghiên cứu khoa học Mavrino: những bộ phận máy radio do Nga Xô chế tạo và
những bộ phận do ngoại quốc chế tạo, máy điện, dụng cụ nghiên cứu, bàn ghế, tủ,
tủ sắt, một tủ sách gồm ba mươi ngàn quyển sách chuyên khoa kỹ thuật, những tù
nhân chuyên viên được lấy ra từ những trại tập trung, những sĩ quan mật vụ ưu
tú nhất được phái đến, những viên chức lưu trữ hồ sơ được biệt phái tới làm việc
và sau cùng, một đại đội binh sĩ phòng vệ đặc biệt kéo đến. Cũng trong thời
gian đầu, Yakonov phải cho sửa lại tòa nhà, làm thêm phòng, chuyển những căn
phòng trong nhà y thành phòng thí nghiệm và văn phòng, xây hầm đặt máy điện.
Cho đến khi những hàng cây dẻ nở hoa vàng và tỏa ngát hương thơm, tiếng nói buồn
rầu của những tù binh Đức được gửi đến làm lao công vang lên trong vườn tòa
nhà.
Những tên phát-xít lười biếng đang sống năm
tù thứ tư sau chiến tranh ấy không muốn làm bất cứ một việc gì. Trước mắt những
người Nga, cảnh bọn tù binh Đức chuyển những viên gạch từ trên những chiếc xe vận
tải xuống là một cảnh chướng mắt chịu không nổi: chúng xếp hàng một từ xe vào đến
chỗ xếp gạch, chúng chuyền tay nhau từng viên gạch chậm chạp, cẩn thận, như đó
là những khối vàng nén. Chúng cố tình làm chậm như thế và chúng chỉ chuyển hết
số gạch trên một chiếc xe xuống là hết ngày. Trong lúc những công nhân đặt máy
thông hơi, máy sưởi ở cửa sổ và lát ván lại những căn phòng trong nhà, bọn tù
binh Đức đi lang thang khắp nhà, chúng vào cả những căn phòng tối mật và đứng
nhìn những thùng đồ ghi chữ Đức và chữ Anh. Bất cứ một chú học sinh người Đức
nào cũng có thể đoán biết phòng thí nghiệm gì được lập lên ở đó. Rubin đã ghi tất
cả những chi tiết này trong một bản báo cáo gửi đến đại tá kỹ sư Yakonov, báo
cáo này ghi nhận đúng nhưng cũng rất phiền cho hai sĩ quan phụ trách an ninh ở đây
- Shikin và Myshkin - (bọn tù nhân gọi hai nhân vật này bằng cái tên chung là
Shishkin và Myshkin) - bởi vì lúc đó, người ta chẳng còn sửa chữa gì được nữa.
Họ không thể gửi báo cáo đó lên thượng cấp vì sự sơ xuất đó là lỗi của họ. Và đến
lúc đó bọn tù binh Đức đã được trở về Đức quốc. Yakonov rùng mình kinh sợ khi
nghĩ rằng nếu trong bọn tù binh ấy có tên nào trốn sang Tây Đức, tên đó sẽ có
thể kể lại vị trí Viện Nghiên cứu này với bọn gián điệp đế quốc tư bản. Sau đó,
những biện pháp bảo vệ bí mật đến tối đa được áp dụng ở Mavrino: tù nhân làm việc
ở phòng thí nghiệm này không được đặt chân sang phòng thí nghiệm khác, các tù
nhân không được tiết lộ những công tác nghiên cứu với nhau, trừ khi nào được
ban giám đốc cho phép. Việc Yakonov được cử đi điều hành Viện Nghiên cứu khoa học
Mavrino cũng được giữ kín ở Tổng bộ An ninh. Ở trong Bộ, ai hỏi đến đại tá kỹ
sư Yakonov đều được yêu cầu ghi tên, cấp bậc và lý do cần gặp lên giấy và sẽ được
trả lời sau. Nếu cần phải gặp những người này, bao giờ Yakonov cũng về Bộ để gặp.
Y không tiếp bất cứ ai ở Mavrino.
Khi bọn tù bình Đức được gửi về nước, họ
đưa tới Mavrino đám tù khác để làm lao công. Đám tù này giống hệt những tù nhân
làm việc chuyên môn trừ điểm quần áo của họ dơ dáy hơn, rách rưới hơn và họ
không được quyền ăn bánh mì trắng. Đám tù Nga này làm việc khác hẳn bọn tù binh
Đức: họ vừa làm việc vừa chửi rủa tục tĩu, những viên gạch bay tới tấp từ trên
xe vận tải xuống sân và kết quả là gần như không còn viên gạch nào lành lặn
hoàn toàn. Với tiếng: “Một... hai... ba...”,
bọn tù Nga quăng tấm mui xe bằng vải bạt chùm lên xe và chúng chui vào đó để đi
về nhà giam, trên đường đi chúng đùa giỡn với những nữ tù nhân. Buổi sáng chúng
được đưa đến làm việc, buổi chiều đưa trả về nhà giam.
Và tòa lâu đài huyền diệu đó, nằm riêng rẽ ở
một khu ngoài thành phố, một khu tuy không thấy có gì khác lạ nhưng bọn thường
dân không dám tới gần, được thay đổi gần như toàn diện: lâu đài có một bồn chứa
nước, một hệ thống đốt rác tối tân, một nhà máy điện riêng, những căn phòng cửa
sắt được sưởi ấm vào mùa đông và những bồn hoa tươi trong vườn cỏ. Cũng trong
thời gian đó, Viện Nghiên cứu khoa học được ưu đãi đặc biệt này mỗi ngày một
phát triển lớn hơn, đông nhân viên hơn. Viện tiếp nhận cả một Viện Nghiên cứu
khác với toàn thể nhân viên của viện này. Đó là Viện Nghiên cứu được trao cho
thiếu tá kỹ sư Roitman chỉ huy. Viện này cũng được lập lên để nghiên cứu về điện
thoại và truyền tin. Thiếu tá kỹ sư Roitman trở thành vị phụ tá của đại tá kỹ
sư Yakonov. Người khai sinh và bảo vệ Viện Nghiên cứu bị sáp nhập này là đại tá
Yakov Ivannovich Mamurin, nguyên Trưởng Sở Liên lạc đặc biệt và nguyên là một
viên chức cao cấp, quan trọng của chính phủ Xô Viết. Trước đó ít lâu, đại tá
Mamurin đã biến mất trong một trường hợp bi thảm.
Số là có một lần vị Lãnh Đạo Nhân Loại Tiến
Bộ nói chuyện bằng điện thoại với một người ở tỉnh Yerevan và Lãnh Tụ bất mãn
vì đường dây rè rè khó nghe, khó nói quá. Người bèn gọi Beria tới và nói bằng
tiếng địa phương Georgia: “Lavrety... Anh
để cho thằng ngu nào giữ Sở Liên lạc đặc biệt vậy? Tống cổ nó đi”.
Và như thế là Mamurin bị tống đi. Bị tống
đi có nghĩa là đi tù. Họ giam Mamurin vào nhà tù Lubyanka. Họ tống y đi nhưng họ
không biết sau đó phải giải quyết tình trạng của y ra làm sao, phải đối xử với
y như thế nào. Họ không có chỉ thị phải làm về vụ Mamurin, không có lệnh phải xử
tù Mamurin và nếu xử tù thì cho tù bao nhiêu năm. Nếu Mamurin không phải là anh
em đồng chí của họ, họ đã xử y “một phần tư thế kỷ và năm năm khóa mõm”, nghĩa
là tù khổ sai hai mươi lăm năm và năm năm mất quyền công dân, và tống y đi
Norilsk. Nhưng họ bị ám ảnh bỏi lời nguyền: “Hôm nay tôi, mai đến bạn”, những người bạn đồng nghiệp cũ của
Mamurin ngấm ngầm bảo vệ y. Khi họ biết chắc rằng Stalin đã quên Mamurin, họ
dàn xếp cho Mamurin đến sống ở Viện Nghiên cứu khoa học Mavrino.
Vì vậy, trong một đêm mùa hạ năm 1948, họ
đưa một tù nhân mới đến Mavrino. Tất cả mọi sự kiện liên can đến tù nhân này đều
khác thường: Y được đưa tới trên một chiếc xe hơi du lịch chứ không phải trên một
chiếc xe Maria Đen như tất cả những tù nhân khác. Y được viên quản đốc nhà tù
đích thân đi đón về, và y được mời ăn bữa đầu tiên trong nhà tù ở trong văn
phòng của viên quản đốc, bàn ăn của y đêm đó có trải khăn trắng đàng hoàng.
Những tù nhân có trước trong nhà tù này
nghe biết - trên nguyên thể, họ không được nghe, thấy, biết gì hết nhưng trên
thực tế, họ vẫn nghe, vẫn thấy và vẫn biết hết mọi chuyện - tù nhân mới đến này
nói rằng y không thích ăn xúc xích và viên quản đốc lễ phép mời y chịu khó ăn
nhiều cho khỏe. Một tù nhân bị đau trên đường đi tới phòng khám bệnh nghe lỏm
được những lời trao đổi này. Anh trở về kể sự lạ ấy với các bạn và đám tù nhân
bán tán xôn xao một lúc về sự lạ ấy. Họ đi đến kết luận là dù sao đi nữa, kẻ mới
đến cũng chỉ là một anh tù. Sau đó, họ ngủ.
Những sử gia của Nhà tù đặc biệt Mavrino
không bao giờ xác định được rằng đêm đầu tiên ấy kẻ mới đến ngủ ở đâu. Sáng sớm
hôm sau, ở một khu mà các tù nhân bị cấm không được đặt chân đến, một tù nhân
chuyên viên thợ tiện, tình cờ chạm trán với một kẻ mới đến trong đêm qua.
- Ê bạn... - người tù thợ tiện hỏi vội với
ngón tay thô chọc mạnh vào ngực kẻ mới tới. - Bạn từ đâu đến? Bị vồ ở đâu? Vì
sao? Ngồi đây, hút thuốc không?
Nhưng kẻ mới đến lùi xa người tù thợ tiện với
vẻ kinh hãi, khinh mạn hiện rõ trên mặt. Người tù thợ tiện trợn mắt nhìn cái đầu
hói và đôi mắt trắng của kẻ mới đến, anh giận dữ nói:
- Đồ phách chó. Để rồi khi anh vào ở chung
với chúng tôi anh có chịu nói chuyện với chúng tôi hay không.
Nhưng “Phách
chó” không bị nhốt vào phòng ngủ chung với tù nhân. Bên cạnh hành lang đưa
tới những phòng thí nghiệm, ở tầng thứ ba, ban quản đốc làm được cho y một căn
phòng nhỏ, trước đây phòng này được dùng làm phòng tối rửa hình, họ khiêng vào
đó một cái giường, một cái bàn, một cái tủ, một chậu cây cảnh và một cái bếp điện.
Họ gỡ những tấm ván ra khỏi khung cửa sổ, cửa sổ này không mở ra ngoài trời mà
nhìn ra một cầu thang nhỏ. Vì vậy ngay cả những buổi trưa trời nắng nhất, ánh
sáng cũng không lọt được tới khung cửa sổ căn phòng nhỏ này. Cửa sổ còn có chấn
song sắt. Những chấn song này có thể gỡ ra được nhưng ban quản đốc nhà thù, sau
nhiều do dự, quyết định để nguyên. Những người có quyền ở đây cũng không ai hiểu
rõ về tình trạng rắc rối bao quanh tù nhân này và họ cũng không biết phải xử sự
làm sao cho đúng.
Từ đó, tù nhân mới tới được đặt tên là “Người mặt nạ sắt”. Trong một thời gian rất
lâu sau đó không ai biết tên y là gì. không ai có thể nói chuyện được với y.
Qua khung cửa sổ, những tù nhân đi lại trên cầu thang nhỏ trông thấy y ngồi cúi
đầu trong căn phòng cô đơn, hoặc đi vất vưởng như bóng một cô hồn dưới hàng cây
đề trong những giờ tù nhân bị cấm ra khỏi phòng giam. Mặt nạ sắt cũng gầy gò,
xanh xao như bất cứ một tù nhân nào sau hai năm bị giam cầm nhưng việc y từ chối
không chịu ăn xúc xích cho người ta biết rằng không phải y gầy xanh vì thiếu ăn
hay vì bị thẩm vấn.
Lại qua một thời gian rất lâu sau nữa, khi
Mặt nạ sắt làm việc với phòng Số bảy, tù nhân được những viên chức tự do cho biết
rằng y chính là đại tá Mamurin, người khi còn là giám đốc Sở Liên lạc đặc biệt,
đã cấm không cho bất cứ ai đi ngang cửa văn phòng của y được đặt gót giày xuống
sàn, nghĩa là tất cả mọi người đi qua cửa văn phòng y đều phải đi kiễng chân,
nhón gót để khỏi gây ra tiếng động. Nếu không, y sẽ từ trong phòng hầm hầm chạy
ra, quát lớn: “Đồ thô tục. Có biết văn
phòng ai đây không? Tên là gì?”.
Về sau, người ta được biết rằng sự khổ sở của
Mamurin thuộc về tinh thần. Thế giới những người tự do hắt hủi, chê bỏ y và y
không thể gia nhập thế giới của những người bị tù đày. Thoạt đầu, trong cảnh cô
đơn, y đọc sách. Y đọc những tác phẩm bất hủ như quyển “Chiến đấu cho hòa bình” của Panferov, quyển “Chàng kỵ sĩ sao vàng” của Babayevsky. Y đọc Sobolev, Nikulin, rồi đọc
thơ của Prokofiev và Gribachev. Và trong tâm hồn y một sự chuyển biến kỳ diệu xảy
ra: y bắt đầu làm thơ. Người ta biết rằng sự bất hạnh và tình trạng đau khổ về
tinh thần thường sản xuất ra những nhà thi sĩ và sự đau khổ của Mamurin sắc nhọn
hơn sự đau khổ của nhiều tù nhân khác. Sống trong nhà tù đã hai năm nhưng không
bị thẩm vấn cũng không bị đưa ra tòa xử, không có án, y vẫn sống giống hệt như
y sống trước khi bị tù, nghĩa là tuân theo đúng những chỉ thị của Đảng, tôn thờ
Lãnh tụ Tối cao. Mamurin thú thật với Rubin rằng không phải thức ăn trong nhà
tù tồi tàn - (những bữa ăn của y được nấu riêng) - cũng không phải vì tình trạng
phải xa những người thân trong gia đình - (mỗi tháng y được bí mật đưa về nhà
riêng của y, nơi y ngủ lại một đêm) - y khổ sở và cay đắng chính là vì tình trạng
Yosif Vissarionovich Stalin không còn tin cẩn y nữa. Y đau đớn vì y không còn
là một vị đại tá, vì y bị thất sủng. Chính vì vậy mà những người như Rubin và
Mamurin sống khổ sở trong tù hơn là những người tù khác thù hận, chống đối chế
độ.
Vốn là một đảng viên Cộng sản. Nhưng sau khi
nghe những lời thở than, tâm sự của Mamurin và nhất là sau khi đọc tập thơ của
y. Rubin trở thành lẩn tránh y. Rubin vui vẻ sống với những người chỉ trích anh
một cách bất công nhưng chịu chung cảnh ngộ với anh.
Về phần Mamurin, y bị thôi thúc vì một ý muốn,
ý muốn này cũng làm cho y nhức nhối, khó chịu như những cơn đau răng da diết: ý
muốn chứng tỏ giá trị con người của y qua việc làm. Nhưng than ôi, những hiểu
biết chuyên môn của Mamurin về liên lạc và truyền tin, mà y từng là một viên chức
cao cấp trong ngành, chỉ là việc nhấc ống điện thoại lên quay số và nói. Do đó
y không sao có thể tự y làm việc được, y chỉ có thể sai khiến người khác làm việc
mà thôi. Nhưng việc điều khiển một dự án nào đó do người khác làm ra không bao
giờ có thể làm cho y chiếm lại được sự tin cẩn của Người Bạn Thân Nhất của công nhân truyền tin, [Người Bạn Thân Nhất đây chính là Stalin. Ở Nga dưới thời Stalin
cai trị, tất cả mọi ngành công nhân đều gọi Stalin là Người Bạn Thân Nhất, cả những binh chủng cũng vậy],
y cần phải nghĩ ra một dự án riêng để đệ trình lên Lãnh tụ.
Trong thời gian Mamurin phát minh ra được
điều này, Viện Nghiên cứu Mavrino đang sửa soạn thực hiện hai dự án đáng kể, hứa
hẹn nhiều vinh quang. Đó là dự án chế tạo máy Vocoder, một máy đo tiếng nói, và
thiết lập Phòng Nghiên cứu số Bảy.
Vì những nguyên nhân sâu xa nhưng vô lý nào
đó, người ta thường có cảm tình hay ác cảm với nhau, chịu nhau hay không sao chịu
nổi nhau, ngay từ giây phút gặp gỡ đầu tiên, từ cái nhìn thấy mặt nhau thứ nhất.
Yakonov và Roitman có ác cảm với nhau và không chịu nhau. Thời gian trôi qua, sự
ác cảm này càng nặng nề, họ như hai con vật cùng bị một bàn tay mạnh hơn đưa
vào kéo chung một cái gông, họ như hai con ngựa bị ghép chung vào một cái xe,
hai con ngựa không sao thoát ra được nhưng kéo đi về hai hướng khác nhau. Khi
công tác chế tạo máy điện thoại bí mật được thực hiện ở Mavrino, Roitman quy tụ
tất cả những tù nhân chuyên viên xuất sắc mà y có thể quy tụ được vào làm việc
trong Phòng Âm thanh. Để trả đũa, Yakonov cũng nhặt nhạnh tất cả những chuyên
viên tài giỏi trong nhà tù về làm việc trong Phòng số Bảy do y lập ra và điều
khiển. Yakonov còn đem tất cả những dụng cụ khoa học tốt nhất tập trung về
Phòng số Bảy. Trong trận tranh chấp quyết liệt và tàn nhẫn này, Roitman có vẻ yếu
thế hơn.
Yakonov bắt buộc phải lập lên Phòng Nghiên
cứu số Bảy vì y không thể để cho Roitman làm hết mọi việc ở ngay Viện Nghiên cứu
mà y được cử làm giám đốc. Y phải chứng tỏ cho thượng cấp biết là y mẫn cán, y
có khả năng. Kể từ ngày đó Yakonov có thể có mặt trong Viện ban đêm hay không
tùy ý. Và người tù cô đơn với đôi mắt nhiều tròng trắng hơn tròng đen, viên cựu
đại tá từng giữ chức giám đốc Sở Liên lạc đặc biệt, người tù từ chối không chịu
ăn xúc xích, tạm đè nén hứng thơ để làm việc như một tên nô lệ cho đến hai giờ
sáng trong Phòng số Bảy. Chỉ có một mình Mamurin có thể làm việc được nhiều giờ
như thế vì y là tù nhân duy nhất không bị viên chức canh gác trong nhà tù này.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét