Tầng Đầu Địa Ngục
(The First Circle)
Tác giả: A. Solzhenitsyn
Dịch giả: Hải Triều
Nhà xuất bản Đất Mới - Sài Gòn
Năm xuất bản 1973
Chương 3 - Một lễ giáng sinh Cơ đốc
Cây Nô en của họ là một cành thông cắm vào
một cái khe trên cái bục gỗ. Một dây bóng đèn nhỏ, ánh sáng yếu ớt được quấn
hai vòng quanh thân cây, đầu dây cắm vào bình điện nhỏ đặt dưới sàn.
Cây Nô en được đặt trong một góc phòng, giữa
hai dãy giường tầng, một tấm nệm giường được dựng lên để che ánh ngọn đèn điện
trên trần và chiếu vào đó.
Sáu người đàn ông bận những bộ quần áo binh
sĩ Nhảy dù dầy, màu xanh đậm, đứng xúm xít quanh cây Nô en tí hon. Họ chụm đầu
vào nhau và cúi mặt yên lặng. Max Richman, một người trong bọn họ, đọc khẽ bài
kinh cầu nguyện đêm Giáng sinh của đạo Cơ đốc.
Không còn ai khác ngoài sáu người này trong
căn phòng rộng chỉ có những chiếc giường hai tầng đứng xếp hàng. Tất cả đều là
giường sắt. Sau bữa ăn tối và một giờ đồng hồ đi bộ ngoài sân, mọi người đều đi
làm việc đêm.
Max đọc xong bài kinh và sáu người cùng ngồi
xuống. Năm người trong bọn họ đang ngẩn ngơ vì tâm hồn dạt dào những kỷ niệm vừa
dịu ngọt vừa cay đắng về quê hương họ, nước Đức mến yêu, nước Đức trật tự của họ,
ở đó dưới những mái nhà lợp ngói đá đen, cuộc lễ đêm nay được coi là lễ quan trọng
nhất trong năm, cuộc lễ được cử hành ở đó trong không khí thiêng liêng, tin tưởng
vui vẻ và ấm cúng biết là chừng nào. Người thứ sáu trong bọn họ là một người
đàn ông vóc dáng lực lưỡng với một bộ râu quai nón đen nhánh như những nhà tiên
tri trong Thánh Kinh - tên anh là Lev Rubin, anh là người Do Thái và anh là một
đảng viên Cộng sản.
Số mệnh của Lev Rubin liên hệ nhiều đến nước
Đức cả trong thời chiến và thời bình.
Trong thời bình, anh là một nhà ngôn ngữ học
chuyên về Đức ngữ, anh có thể nói tiếng Đức thông thạo không sai một âm tiết,
đôi khi cần đến anh còn có thể nói được cả những thổ ngữ của miền núi nước Đức.
Anh có thể nói đến bất cứ một văn thi sĩ người Đức có tác phẩm xuất bản như nói
đến một người bạn quen. Anh có thể tả cảnh những thị trấn nhỏ nhất hai bên dòng
sống Rhin như anh từng sống ở những nơi đó nhiều năm.
Nhưng thực ra, Lev Rubin chỉ mới đặt chân
lên đất Áo - rồi từ đó anh ra mặt trận.
Trong trận đại chiến thế giới, anh là một
thiếu tá Sô Viết trong đoàn đặc biệt mệnh danh là “Lực lượng phá hoại tinh thần chiến đấu của binh sĩ địch”. Anh tới
những trại giam tù binh tuyển chọn những tù binh Đức nào chịu giúp anh thi hành
công tác. Anh đem những tù binh này ra khỏi trại giam, anh huấn luyện và cấp
cho họ những vật dụng cần thiết. Vài người trong bọn này vượt được chiến tuyến
bằng những bộ quân phục giả, phù hiệu giả, căn cước quân nhân giả, giấy tờ giải
ngũ giả và những bánh thuốc nổ TNT thật. Họ đặt thuốc nổ phá hoại những cây cầu
ở sau lưng quân Đức Quốc xã và tìm đường về nhà để sống cho đến ngày họ bị bắt.
Với nhiều người khác, Lev Rubin thảo luận về Goethe và Schiller và những tờ truyền
đơn tuyên truyền, sau đó anh cho những người này lên những chiếc xe phóng thanh
đi ra mặt trận dùng loa kêu gọi những chiến hữu của họ hãy quay súng bắn lại
Hitler.
Với một số ít người khác, anh vượt qua mặt
trận, và chỉ dùng lời thuyết phục, anh chiếm được nhiều cứ điểm của quân Đức, cứu
được nhiều tiểu đoàn Xô Viết.
Nhưng Lev Rubin không thể thuyết phục được
những người lính Đức nếu anh không trở thành một người như họ, nếu anh không
yêu thương họ chân thành, và bắt đầu ngày quân Đức bại trận, anh không thể
không thương hại họ. Chỉ vì việc sau cùng này, anh bị bắt. Sau cuộc tấn công
tháng Giêng năm 1945, anh bị kết tội phản bội, vì anh đã chống lại chiến dịch
trả thù “máu trả máu, chết trả chết”
do Hồng quân Xô Viết phát động trên đất Đức chiến bại. Lời kết tội đúng, Lev
Rubin không hề nói là anh oan. Xong sự thật phức tạp hơn, tế nhị hơn, rắc rối
hơn nhiều những gì được đăng tải trên các báo hồi đó và ghi trong bản án kết tội
anh.
Hai chiếc bàn nhỏ được kê sát vào nhau cạnh
cây Noel làm thành bàn ăn. Họ bắt đầu thưởng thức món đồ hộp mua được từ những
Hợp tác xã thực phẩm - (tù nhân ở những nhà
tù đặc biệt được quyền gửi mua thức ăn ở những tiệm bán thực phẩm ở Mạc Tư Khoa
nếu họ có tiền) - Sau đó họ chia sẻ nhau chiếc bánh Nô en do họ làm
lấy và cà phê lạnh. Cuộc nói chuyện bình thường của những cuộc họp mặt anh em nổi
lên. Max hướng dẫn cuộc nói chuyện về những đề tài hòa bình: những phong tục, tập
quán xưa cũ, những câu chuyện cảm động về đêm Giáng sinh. Alfred, mang kính trắng,
một sinh viên không được học hết khoa vật lý ở Vienna, nói chuyện rất vui với
giọng nói người Áo của anh. Gustav, một đoàn viên đoàn Thanh niên Hitler, bị bắt
một tuần lễ sau ngày chiến tranh kết liễu, một thanh niên còn quá trẻ, má bầu,
tai hồng, ngồi mở lớn cặp mắt xanh nhạt nhìn cây Nô en, không dám tham dự vào
cuộc nói chuyện của các bậc tiền bối.
Tuy vậy, cuộc nói chuyện rồi cũng quay về với
chiến tranh. Một người trong bọn nhớ lại lễ Giáng sinh năm 1944, năm năm trước
đêm nay, khi tất cả những người Đức đều kiêu hãnh vì trận tấn công ở miền rừng
núi Ardennes, y như những chuyện đã xảy ra thời thượng cổ, trong trận tấn công
này, kẻ thua đuổi theo kẻ thắng. Họ nhớ lại trong đêm Giáng sinh năm ấy, toàn
thể nước Đức đã lắng nghe tiếng nói của Goebbels.
Rubin, những ngón tay rứt nhẹ những sợi trổ
ra ngoài bộ râu đen nhánh của anh, công nhận chuyện này. Anh nhớ rõ bài diễn
văn đêm Giáng sinh năm xưa của Goebbels nói với một sự xúc động sâu xa như y
đích thân gánh chịu tất cả gánh nặng đang làm cho nước Đức gục ngã. Có thể trong
đêm đó Goebbels đã có linh tính biết trước cái chết của riêng y.
Reinhold Zimmel, cựu Quận trưởng SS, vì quá
cao nên phải ngồi khom lưng để đầu khỏi chạm thành giường, bất mãn vì câu nói lịch
sự của Rubin. Y không thể chịu nổi việc gã Do Thái kia dám lên tiếng phê bình
Goebbels. Y không bao giờ thèm ngồi chung bàn với gã Do Thái đó nhưng đêm nay
là đêm Giáng sinh, nếu y không chịu thì y sẽ không được dự cuộc họp mặt với đồng
bào của y. Y không bằng lòng nhưng bốn người Đức kia quyết định phải mời Rubin
đến dự cho bằng được. Vì với nhóm người Đức nhỏ xíu lạc lõng, chìm mất vì số mệnh
trong nhà tù này, người duy nhất có thể hiểu được họ là viên cựu Thiếu tá của cái
quân đội đã đánh bại quân đội họ, người đã sống qua cuộc chiến với việc gieo rắc
nghi ngờ và phá hoại quanh họ. Chỉ có người này mới có thể giải thích cho họ biết
những phong tục, tập quán của giống người xa lạ ở đây, chỉ cho họ cách xử sự
như thế nào là đúng và dịch cho họ những tin tức thế giới từ tiếng Nga sang tiếng
Đức cho họ nghe.
Với mục đích nói ra một câu gì đó làm cho
Rubin phải khó chịu đến tối đa, Zimmel nói rằng Đức quốc thời đó có cả trăm diễn
giả tuyệt vời như Goebbels và y vẫn lấy làm lạ không hiểu tại sao những người
Bôn Sơ Vích chỉ thích đọc những bài diễn văn đã được viết trước và được cấp
trên chấp thuận cho đọc.
Đúng như ý muốn của Zimmel, lời nhận xét có
tính cách chê bai này làm cho Rubin khó chịu, anh càng khó chịu hơn khi thấy sự
chê bai đó đúng. Nhưng anh không thể giải thích những lý do lịch sử của việc ấy
với tên sát nhân này. Rubin ghê tởm Zimmel. Cảm giác ghê tởm vẫn mạnh như ngày
đầu. Anh nhớ lại lần đầu tiên anh nhìn thấy y đến đây từ khám đường Butyrshkaya
trong chiếc áo da đã rạn hãy còn dấu vết huy hiệu SS thường dân - bọn SS thường
dân là bọn tàn ác, dã man nhất hạng. Ngay cả nhà tù và những năm tù đày vẫn
không xóa được những nét tàn ác trên mặt Zimmel. Dấu hiệu riêng của những tên
hành hạ người đã được đóng sâu trên bộ mặt ấy. Sự có mặt của Zimmel trong bữa
ăn này làm cho Rubin mất vui nhưng nhóm người Đức lẻ loi này khẩn khoản mời anh
đến dự, và anh thương hại họ cô đơn và lạc lõng ở đây, anh thấy anh không thể
nào làm cho ngày lễ của họ trở thành đen tối vì sự từ chối của anh.
Nén giận, Rubin nói bằng tiếng Đức lời
khuyên của Pushkin cho một số người: Đừng
đưa ra lời xét đoán nào cao hơn mũi giầy của mình.
Max, hoảng hốt và vội vàng dẹp sự mâu thuẫn
đang nhen nhúm như ngọn lửa sắp bốc lên. Max là người, dưới dự hướng dẫn của
Lev Rubin, đã đọc được từng vần thơ của Puskhin bằng tiếng Nga. Tại sao, Max hỏi, Reinhold lại không ăn bánh với bơ? Và Lev Rubin ở đâu trong ngày Giáng
sinh năm 1944?
Reinhold phết một chút bơ lên miếng bánh và
Lev Rubin nhớ lại rằng ngày Giáng sinh năm ấy anh ở trong một pháo đài trên chiến
tuyến Narew gần Rozan.
Và trong lúc năm người đàn ông Đức tưởng nhớ,
mơ về nước Đức bị giày xéo, chia xẻ, tan nát của họ với những màu sắc rực rỡ nhất
do tưởng tượng của họ đắp lên đó, Rubin đột ngột nhớ lại tuyến đầu Narew và những
khu rừng ẩm ướt quanh hồ Ilmen.
Ánh đèn xanh đỏ trên cây Nô en sáng lên
trong mắt của sáu người ngồi dưới gốc cây.
Sau đó, Rubin được hỏi về những tin tức mới.
Anh cảm thấy xấu hổ, ngượng ngùng vì những sự kiện xảy ra trong tháng Chạp này ở
trên đất Nga cũng như trên khắp trái đất.
Nhưng anh vẫn không sao có thể xử sự như một
kẻ không phải là người Cộng sản và từ bỏ hy vọng truyền bá chủ nghĩa cho những
người này. Xong, anh vẫn không sao có thể giải thích cho họ hiểu được rằng
trong chế độ xã hội phức tạp này sự thật nhiều khi tiến diễn theo đường lối
quanh co và biến dạng. Vì vậy anh tuyển lựa cho họ - cũng như anh từng tuyển lựa
cho chính anh - những sự kiện nào có tính cách chứng tỏ chủ nghĩa xã hội sẽ thắng,
anh quên đi những sự kiện nào trái với điều ấy, kể cả những sự kiện làm cho người
ta khó hiểu.
Nhưng trong tháng Chạp đặc biệt này, ngoài
cuộc hội thảo Nga Xô Viết - Trung Hoa cộng sản vẫn kéo dài và ngày kỷ niệm sinh
nhật thứ bảy mươi của vị Lãnh đạo Nhân
dân, không còn sự kiện gì đáng để nói cả. Thực ra còn có nhiều chuyện có thể
nói về vụ xử án Traicho Kostov, nhưng nếu nói đến vụ xử này, anh sẽ bắt buộc phải
kể rằng đó là một trò hề sống sượng, vụng về, rằng những phóng viên nhà báo đến
dự phiên tòa xử đã được, sau một chậm trễ khó hiểu nhiều tiếng đồng hồ, phát một
bản thú tội giả mạo nói rằng do chính tay Kostov viét trong khám tử tội - những
chuyện này làm cho Rubin cảm thấy nhục và anh thấy rõ là chúng không thể có lợi
cho việc tuyên truyền chủ nghĩa.
Do đó Rubin chỉ nói với họ về những chiến
thắng lịch sử của Đảng Cộng sản Trung Hoa.
Max chăm chú nghe Rubin nói. Thỉnh thoảng y
lại gật đầu tỏ vẻ đồng ý, tán thành. Đôi mắt nâu như trái ô liu của Max biểu lộ
sự tin tưởng ngây thơ. Trước đây Max hoàn toàn tin tưởng và trung thành với
Rubin, nhưng từ ngày xảy ra cuộc phong tỏa Bá Linh, y bắt đầu nghi ngờ về sự đứng
đắn của những nguồn tin Rubin vẫn liều mạng sống để nghe trộm những bản tin của
hai đài phát thanh BBC và Colonge phát đi bằng tiếng Đức bằng một cái máy thâu
thanh tí hon do chính tay y chế tạo bí mật. Mỗi ngày Max đều ráp cái máy thâu
thanh này, nghe tin xong lại tháo rời ra từng bộ phận cất đi dù rằng đó là một
cái máy thâu thanh. Với cái máy này không những Max chỉ biết rõ rằng Traicho
Kostov đã lên tiếng tố cáo ở giữa tòa việc mình bị bắt buộc phải ký vào những bản
thú tội viết sẵn, những kế hoạch của Liên minh Bắc Đại Tây dương và những tin tức
kinh tế của Tây Đức. Tất nhiên là Max đều nói lại tất cả những tin tức này cho
những người Đức ở tù với anh cùng biết.
Tuy vậy, tất cả năm người vẫn chăm chú nghe
Rubin với những vẻ mặt tin tưởng.
Bây giờ Rubin thấy rằng đã đến lúc anh nên
từ biệt họ. Đêm nay cũng như mọi đêm, anh vẫn phải đi làm việc đêm. Rubin thốt
ra vài câu ca ngợi cái bánh ngon và chàng sinh viên Vienna, người tạo ra cái
bánh, sung sướng nhận lời khen ngợi. Sau đó Rubin xin kiếu từ. Năm người Đức giữ
anh lại theo phép lịch sự trước khi để anh đi. Sau khi Rubin đi khỏi phòng, họ
chuẩn bị nho nhỏ những bài ca Giáng sinh.
Lev Rubin đi ra hành lang, tay ôm một quyển
từ điển Mông Cổ - Phần Lan và một quyển tiểu thuyết của Hemingway bằng tiếng
Anh.
Hành lang rộng, đường đi lát bằng những phiến
gỗ lớn, hai bên vách không có cửa sổ và ở đây đèn điện được thắp suốt đêm. Cũng
trong hành lang này trước đây hơn một tiếng đồng hồ, Rubin cùng nhiều tù nhân
cũ đứng xúm xít hỏi chuyện những tù nhân mới đến. Một cánh cửa từ chân thang lầu
mở ra hành lang này, tiếp đó là nhiều cánh cửa phòng khác.
Cửa phòng và cửa xà lim. Được gọi là phòng
vì cánh cửa không có khóa, bị gọi là xà lim vì trên cánh cửa có lỗ lắp kiếng để
lính canh có thể đứng ngoài hành lang nhìn vào bên trong. Bọn lính canh ở đây
ít khi dùng đến những lỗ nhìn này nhưng người ta vẫn cứ cho đục chúng trên những
cánh cửa như trong một nhà tù thực sự theo đúng quy chế nhà tù, vì trên giấy tờ
chính thức, nơi này vẫn được gọi là “nhà tù đặc biệt”...
Qua một lỗ nhìn một cánh cửa đó, đêm nay
người đi qua hành lang có thể nhìn thấy một cuộc lễ Giáng sinh nữa. Đó là cuộc
lễ của nhóm tù nhân Latvia, nhóm người này cũng xin được phép nghỉ làm việc đêm
nay để hành lễ.
Tất cả những tù nhân khác đều đi làm việc.
Nghĩ đến chuyện này Rubin hơi lo lắng rằng anh có thể bị đưa tới Thiếu tà
Shikin để giải thích về sự vắng mặt của anh.
Hai đầu hành lang là hai cánh cửa lớn. Một
cửa hai cánh gỗ dẫn vào một nơi trước kia, khi tòa nhà này còn là một giáo đường
miền quê chưa bị biến thành nhà giam, là tầng lầu ở trên bàn thờ. Nơi này bây
giờ trở thành phòng giam người. Cửa thứ hai bọc sắt kín từ trên xuống dưới, có
lính canh và người đứng ngoài không thể tự mở ra để bước vào. Tù nhân gọi cửa
này là “Cửa thánh”...
Rubin đi tới trước cánh cửa bọc sắt đó và
gõ nhẹ lên khung cửa sổ nhỏ trên đó. Bên trong, khuôn mặt chăm chú, bất động của
người lính canh hiện ra sau mặt kiếng.
Chìa khóa xoay nhẹ trong ổ khóa. Người lính
này là một ông dễ tính và điều này là một may mắn cho Rubin. Người lính này có
thể không cho anh vào phòng làm việc vì đã quá giờ và đưa anh tới gặp thiếu tá
Shikin.
Rubin đi lên thang lầu. Hai đường thang làm
thành một vòng cung và gặp nhau ở tầng trên. Anh rảo bước dưới cây đèn đồng cổ
lỗ đã từ lâu rồi không còn xài được nữa và tới đẩy cánh cửa phòng nghiên cứu đề
hàng chữ: ÂM THANH.
-----------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét