Những Chiến Dịch Đặc Biệt
Tác giả: Pavel Xudoplatov
Người dịch: Nguyễn Văn Thảo
Thể loại: Hồi ký
Nhà xuất bản Công an nhân dân
Năm xuất bản: 2003 (Lưu hành nội bộ)
Chương 13: Những Năm Giam Cầm Đấu Tranh Để
Được Minh Oan
2. Nhà tù Vladimir là nơi giam giữ các nhân
chứng nguy hiểm, không mong muốn nhất đối với chế độ
Tôi lập tức được chuyển sang nhà tù
Lefortovo và sau hai ngày người ta cho phép gặp vợ và em trai Konxtantin. Cuối
cùng thì tôi khóc tự do, còn họ đến mức có thể, an ủi tôi. Tin tôi bị giam ở
nhà tù Vladimir dấy lên nỗi mừng được che giấu: em gái vợ sống tại thành phố
này, chồng cô, Alexandr Komalkov là cán bộ lãnh đạo bộ máy MVD tỉnh Vladimir,
phó chỉ huy sở cảnh sát giao thông. Họ sống ngay trong ngôi nhà nơi toàn bộ ban
phụ trách nhà tù sống, kể cả giám ngục. Komelkov và vợ có quan hệ rất tốt với
các hàng xóm. Chẳng bao lâu vào kỳ nghỉ hè con trai nhỏ Anatoli đến Vladimir, ở
đấy nó kết bạn với Iuri, cậu bé cùng lứa tuổi, con của giám đốc nhà tù
Vladimir, đại tá Kozin. Trong nhóm chúng có Olga, con gái của phó của Kozin sống
ngay cạnh.
Vợ tôi gặp may, cô không bị bắt khi tôi
đang bị điều tra như các bà vợ những nhân vật quan chức khác theo vụ Beria. Cô
thận trọng cắt đứt quan hệ với những đồng nghiệp cũ. Còn bạn bè không liên quan
với cơ quan an ninh thì giúp đỡ chúng tôi rất nhiều, đặc biệt là Mariana
Iaroxlavxkaia. Cha cô là Emelian Iaroxlavxky là Bí thư BCHTƯ đảng từ năm 1920 đến
1940, được xem là nhà tư tưởng của đảng một cách không chính thức. Tôi làm quen
với ông và vợ ông - nữ chiến sĩ cách mạng năm 1943, khi nhận biệt thự bên cạnh
nhà của ông. Việc làm quen với gia đình Iaroxlavxky có vai trò lớn trong cuộc sống
của tôi và giúp gia đình trụ vững. Qua Mariana vợ tôi kết bạn với các nhà điêu
khắc, họa sĩ, nhà văn. Sau khi Iaroxlavxky chết tôi đã quan tâm đến gia đình
ông và góa phụ Klavdia Ivanovna. Đến lượt mình, bà giới thiệu tôi với Bí thư
BCHTƯ Kuznetsov, người ủng hộ tôi trong đụng độ với Abakumov. Anna Tsukanova
sau khi Malenkov bị phê truất được Xuxlov chuyển khỏi BCH giữ chức vụ Thứ trưởng
bộ Văn hóa Liên bang Nga phụ trách cán bộ, cũng giúp chúng tôi nhiều về vật chất
và tinh thần. Chính Anna khuyên vợ tôi làm ra vẻ cô không biết người ta buộc chồng
tội gì. Vì thế những đơn xin của cô gửi Khrusev và Malenkov bao giờ cũng bắt đầu
từ cam đoan rằng cô không rõ bản chất các cáo buộc chống lại tôi. Cô làm tất cả
để chứng minh lòng trung thành của tôi trước đảng và chính phủ trong công tác
cũng như cả khi trong tù. Vợ thu thập được từ 30 đồng nghiệp cũ của tôi trong
đó có 5 Anh hùng Liên Xô, những nhận xét về tôi được chứng nhận bởi các đảng ủy
của họ, và gửi tới Viện Công tố và Tòa án quân sự với yêu cầu để những người
này được gọi với tư cách nhân chứng về vụ án của tôi.
Hai tình huống gắn với vụ án Beria, trong
chừng mực nhất định làm chậm việc tìm chứng cứ bôi nhọ thành viên các gia đình
của những người bị bắt. Và dù con dâu của Beria, cháu của Makxim Gorky thời ấy
đang được trọng vọng, đã ly dị với chồng sau khi anh ta cùng với bà mẹ bị bắt rồi
lưu đày, đối với chính quyền mối liên hệ này vẫn rất không tiện lợi. Thứ hai
liên quan với vụ Xukhanov, phụ trách ban thư ký của Malenkov trong Đoàn chủ tịch
BCHTƯ và Hội đồng bộ trưởng, người tham gia tích cực việc bắt giữ Beria. Ban
lãnh đạo tối cao đúng là sững sờ bởi thông báo về việc Xukhanov ăn cắp trong
két của Beria và cán bộ của ông 8 chiếc đồng hồ vàng và một số lớn các ngân phiếu
và tiền mặt, bao gồm cả tiền thưởng của Beria vì sự lãnh đạo công việc chế tạo
bom nguyên tử.
Vào thời gian ấy tình hình của vợ tôi tốt
lên trông thấy. Cô học may và nhanh chóng có uy tín như một thợ may giữa những
người bạn mới từ giới nghệ thuật, và có thêm thu nhập. Cô vẫn có thể đủ sức
nuôi dưỡng mẹ già và hai con. MVD cố đoạt căn hộ của chúng tôi giữa trung tâm
Moskva, nhưng không làm được điều đó, bởi vợ tôi là người tham gia chiến tranh
và ăn lương hưu quân đội. Anna Tsukhanova giúp đỡ vợ tôi chống lại Cục Kinh tế
MVD. Chiến thuật của họ là đơn giản: tôi chưa bị kết án, đang trong bệnh viện
nhà tù nên không thể bị trục xuất. Lúc ấy Cục Kinh tế tăng tiền thuê nhà nhưng
rất may, vợ tôi trả không mấy khó khăn.
Những năm 1956-1957 cô thấy rõ là sự thanh
lọc trong cơ quan an ninh mà nạn nhân là Beria và tôi, đã kết thúc. Các nhân chứng
biết quá nhiều đã bị bắn, kể cả những kẻ ngụy tạo các vụ án hình sự.
Raikhman nhờ sự can thiệp của vợ ông, người
có các liên hệ trong chóp bu Kremli, chỉ bị buộc tội vượt quyền hạn và nhanh
chóng được ân xá. Maixky cũng được tha khỏi nhà tù. Vợ tôi biết rằng Khrusev ra
lệnh khai trừ đảng và tước quân hàm khoảng 100 vị tướng và đại tá KGB-MVD về
hưu, những người vào những năm 30 giữ chức vụ lãnh đạo, đã tham gia tích cực
trong các vụ thanh trừng hay biết quá nhiều các mưu mô trong nội bộ đảng. Khác
với những năm trước, tất cả những người này, dù mất đi tiền hưu lớn và thẻ đảng,
nhưng được sống - họ không bị bắn, không bị nhét vào tù. Trong số đó có hai người
nổi bật trong công tác tình báo nguyên tử: thiếu tướng Ovakimian, những năm
1941-1945 điều phối công việc NKVD thu thập thông tin về bom nguyên tử ở Mỹ, và
phó của tôi, Vaxilevxky, mà lời buộc tội duy nhất chống ông là đâu như có quan
hệ gần gũi với Beria.
Tình thế ở Moskva rõ ràng biến đổi,
Vaxilevxky còn được phục hồi đảng. Ông lợi dụng các liên hệ cũ của mình với
Bruno Pontekorvo, người thời gian ấy ở Moskva và trở thành viện sĩ. Tự
Pontekorvo đã cầu xin Khrusev cho bạn mình. Vaxilevxky và Gorxky xuất sắc về mặt
tình báo “nguyên tử”, bèn làm công việc dịch các tiểu thuyết phiêu lưu từ tiếng
Anh và tiếng Pháp. Một số sĩ quan an ninh cũ - nhờ sự ủng hộ của Ilin sau khi
được minh oan năm 1954 trở thành bí thư phân ban nhà văn Moskva của Hội nhà văn
Liên Xô, - đã trở thành nhà văn, nhà báo. Dù quyền phục hồi lại chức vụ trước đấy
thực tế là không thể. Nhưng dù sao thì mọi người còn được cho phép bắt đầu cuộc
đời mới và nhận lương hưu cao hơn.
Thật may, tôi đến nhà tù Vladimir trùng với
giai đoạn cởi mở ngắn ngủi của hệ thống cải tạo. Và thế, tôi được phép nhận thực
phẩm bốn lần mỗi tháng. Dù thoạt đầu còn yếu, đau đầu, nhưng dần dần sức khỏe hồi
phục. Thực ra tôi bị giam ở xà lim biệt lập nhưng không bị cách ly hoàn toàn -
tôi được đọc báo, nghe đài, sử dụng thư viện nhà tù.
Nhà tù Vladimir danh tiếng về nhiều mặt. Được
xây dựng thời Nikolai II đầu thế kỷ XX, nó được dùng làm nơi giam giữ những tội
phạm nguy hiểm nhất, mà chính quyền luôn luôn cần có ở gần. Về bản chất, thời
Xô viết nhà tù Vladimir vẫn giữ vai trò đó, và tù nhân thường vẫn bị đưa về
Moskva để hỏi cung bổ sung. Theo sự trớ trêu của số phận, tôi bị nhốt ở tòa nhà
tù thứ hai mà trước đấy tôi từng đến hai lần để nói chuyện với các tướng lĩnh Đức
ngồi tù ở đây. Thời ấy người ta chỉ cho tôi một xà lim rỗng trong đó người anh
hùng cách mạng và nội chiến, một trong những nhà tổ chức Hồng quân, Mikhail
Frunze đã từng ngồi.
Vào thời của tôi nhà tù gồm ba khu nhà
chính trong đó giam giữ khoảng 880 tù. Sau năm 1960 nhà tù được mở rộng, và giờ
đây trong ba khu được cải tạo có thể giữ được đến một nghìn người. Chế độ trong
nhà tù rất nghiêm khắc. Tất cả bị dựng dậy vào 6 giờ sáng. Thức ăn được đưa đến
từng xà lim: thức ăn nghèo nàn chuyển qua ô cửa nhỏ khoét trên cánh cửa thép
dày. Cái đói là bạn đồng hành, chỉ cần nhìn vào những cặp mắt mờ đục của tù
nhân là đủ biết điều đó. Thời gian đầu giường bị nâng lên ép vào tường và bị khóa
lại nên ban ngày không thể nằm. Chỉ có thể ngồi trên cái ghế được vít chặt xuống
sàn ximăng. Ban ngày được phép đi dạo từ nửa giờ đến bốn mươi phút trong sân nhỏ
với những bức tường cao vút, giống một căn phòng chừng hai chục mét nhưng không
có trần. Sự có mặt của giám ngục là tất yếu. Có một giờ sau bữa trưa, khi giám
ngục mở khóa giường. Trong xà lim không có hố xí, nó được thay bằng bô. Mỗi lần
người tù muốn đi vệ sinh anh ta phải gọi giám ngục. (Nghe nói hiện nay trong xà
lim nhà tù Vladimir đã có hố xí). Và dù được phép ngủ từ mười giờ tối, nhưng
đèn sáng cả đêm.
Sau mấy ngày ngồi tù tôi cảm thấy thái độ đồng
cảm đối với tôi từ phía ban quản lý trại giam. Tôi được chuyển từ xà lim biệt lập
đến bệnh viện nhà tù, nơi người ta cho mỗi ngày một cốc sữa, và điều quan trọng
nhất đối với tôi là người ta cho phép ban ngày nằm trên giường bao nhiêu tùy
thích.
Khá nhanh tôi phát hiện ra rằng trong tù có
không ít người mà tôi biết rõ, thí dụ, Munterx, cựu Ngoại trưởng Latvia, rất
chóng đã được trả tự do. Năm 1940, sau đảo chính ở Latvia, tôi đã đưa ông về
Voronej, nơi ông làm giảng viên tại trường đại học tổng hợp địa phương. Hay
Sulgin, người bị tình báo NKVD săn lùng ở nước ngoài chừng hai chục năm. Sau
khi quân đội ta chiếm Belgrad năm 1945, cựu phó chủ tịch Duma quốc gia bị bắt,
đưa về Liên Xô và đưa ra tòa vì hoạt động chống Liên Xô trong nội chiến và những
năm sau đó.
Qua ba hay bốn xà lim cách chỗ tôi là một
Vaxiliev nào đó: trên thực tế đó là Vaxili, con trai của Stalin, người mà cả ở
đây, trong tù vẫn gây loạn được. Có lần khi vợ anh ta, con gái của nguyên soái
Timosenko, đến thăm, anh ta xông đến cô ta với nắm đấm, đòi cô lập tức đề nghị
Khrusev và Vorosilov thả tự do cho anh ta.
Mairanovxky cũng ở nhà tù Vladimir, ông ngồi
ở đây từ năm 1953 - tôi đã nói ông bị kết án mười năm tù. Khó lắm mới nhận ra
ông: có vẻ Mairanovxky chỉ còn cái vỏ. Để sống sót và tránh đòn tù, ông, bị bẻ
gãy và vô vọng, đã đồng ý cho lời khai chống Beria, Merkulov và Abakumov, chứng
minh sự tham gia của họ vào các vụ giết người bí mật. Thật ra, ông không nêu được
nạn nhân cụ thể nào. Cả ba - Beria, Merkulov, Abakumov - bị bắn, còn
Mairanovxky tiếp tục ngồi cho hết kỳ hạn, thỉnh thoảng các cán bộ Ban 5 đặc biệt
của KGB và Viện Công tố lại hỏi cung ông như nhân chứng về những vụ án họ quan
tâm.
Tại phiên xử án tôi ông đã khai chưa bao giờ
dưới quyền tôi và không nhận lệnh từ tôi trong việc thử nghiệm lên người sống
hoặc tiêu diệt họ. Tôi cảm ơn ông vì điều đó, cũng như vì công việc nguy hiểm
cao độ mà con người này đã tiến hành trong những năm chiến tranh. Tước vũ khí
những kẻ khủng bố là việc cực kỳ nguy hiểm. Đó là bọn nhảy dù đến điểm hẹn nơi
không gây ngờ vực gì cho chúng. Trong khi nhờ thuốc của Mairanovxky các điệp
viên Abwehr này ngủ mê, ông kịp thay thế những lọ thuốc độc khâu trong cổ áo để
khi chúng bị bắt sẽ không tự tử được.
Đôi khi chúng tôi gặp nhau lúc đi dạo trong
sân nhà tù, và nếu có khả năng nói đôi lời, tôi khuyên ông tìm sự ủng hộ ở các
bác học mà ông biết và họ đánh giá cao về ông. Mairanovxky được tha năm 1961,
Blokhin Chủ tịch Viện Hàn lâm y học chạy vạy minh oan cho ông.
Hai ngày sau khi Mairanovxky đến phòng tiếp
tân của Khrusev trong tòa nhà BCHTƯ đảng và chuyển đơn xin minh oan trong đó nhắc
tới cuộc gặp gỡ của họ trong toa tàu đặc biệt cuối năm 1947 ở Kiev, KGB lại bắt
giam ông. Do ngây thơ ông không hiểu rằng không thể nhờ sự giúp đỡ của Khrusev
và nhắc lại cuộc gặp gỡ của họ gắn với sự thủ tiêu tu viện trưởng Romja ở
Ujgorod. Lẽ ra ông nên lưu ý rằng Khrusev đang nắm quyền lực chỉ muốn gạt bỏ khỏi
trí nhớ toàn bộ những gì gắn với những công việc loại đó. Thật bất hạnh cho
Mairanovxky, luôn luôn nhắc nhớ về bản thân như một nhân chứng không mong muốn.
Ông nhanh chóng bị truất danh hiệu giáo sư và mọi học vị và bị đày đi
Makhatskala. Tại thị trấn này ông phụ trách phòng thí nghiệm hóa học.
Đôi khi Mairanovxky đến thăm viện sĩ
Blokhin ở Moskva, hi vọng phục hồi được đường công danh khoa học của mình.
Tháng 12-1964, trước cuộc gặp gỡ định kỳ để thảo luận kết quả những thử nghiệm
họ tiến hành với ung thư ác tính, Mairanovxky chết một cách bí ẩn. Chẩn đoán
như cợt nhạo số phận vẫn y như là của Vallenberg và Ogginx: suy tim.
Trong nhà tù Vladimir nảy ra một “câu lạc bộ”
khác thường của những cựu cán bộ cao cấp NKVD-MVD. Trong số họ có Eitingon, đến
Vladimir vào tháng 3-1957 với thời hạn 12 năm; Mamulov, phụ trách ban thư ký của
Beria và là Thứ trưởng Bộ Nội vụ chịu trách nhiệm về khai thác vàng. Dù Mamulov
là người Armeni, vào thời mình ông là bí thư phụ trách cán bộ của BCHTƯ ĐCS
Gruzia. Người cùng xà lim với ông ta, cũng là bí thư BCH ĐCS Gruzia, viện sĩ
Saria, một thời là phó Cục trưởng Cục tình báo đối ngoại NKVD.
Đại tá Liudvigov, phụ trách ban thư ký của
Beria ở Bộ Nội vụ, bị bắt vì biết quá nhiều về Beria và những trò phiêu lưu
tình ái của ông. Liudvigov lấy cháu gái của Mikoian, điều giúp ông ra khỏi tù
ngay mười ngày sau khi Khrusev bị đổ vào năm 1964. Ông được ân xá theo sắc lệnh
đặc biệt của Mikoian, người ba tháng trước đó được cử làm Chủ tịch Đoàn chủ tịch
Xô viết Tối cao Liên Xô. Mikoian cũng ân xá cho người họ hàng xa của mình, chỉ
huy đội bảo vệ của Beria, Xarkixov, kẻ cung cấp đàn bà cho Beria.
Ngồi trong nhà tù Vladimir có Daria Guxiak
và Maria Didưk, những kẻ đưa tin bí mật của Bandera mà tôi đã kể, bị bắt năm
1950. Họ làm công việc đưa thức ăn cho các tù nhân, nhưng khi gặp tôi hẳn không
thể nhận ra viên quan chức cao cấp MGB đã hỏi cung họ ở nhà tù Lvov.
Ngồi với chúng tôi có Vladimir Brik, cháu của
Oxip Brik, bạn gần gũi của Maiakovxky, bị KGB bắt khi có ý đồ chạy sang Mỹ. Ở đấy
có cả Makxim Steinberg, trưởng nhóm điệp viên ngầm của NKVD ở Thụy Sĩ những năm
30. Từ chối trở về do sợ bị xử bắn, ông cùng vợ, Elza, sau cái chết của Stalin
đã mắc lừa những lời hứa ân xá và trở về Moskva. Steinberg nhận mười lăm năm,
còn bà - mười năm, vì tội phản bội tổ quốc. Như sự hài hước, cáo trạng của tòa
án quân sự về vụ của ông nói: tòa không
cho rằng nhất thiết phải ứng dụng với ông ta hình thức trừng phạt cao nhất - tử
hình, vì nhà nước không bị thiệt hại thực tế bởi những hành động của ông ta và
ông ta đã trả lại các phương tiện được cấp cho các mục đích tác chiến năm 1937.
Ba tháng sau khi tôi đến nhà tù Vladimir, vợ
tôi cùng các con đến thăm tôi, nhưng vợ tôi không cho bọn trẻ vào nhà tù vì tôi
trông còn quá thiểu não. Giám đốc nhà tù cho phép hai buổi gặp thêm với vợ
ngoài một lần quy định. Trước khi về hưu năm 1959, đại tá Kozik bố trí cho tôi
gặp Alexandr, chồng của em gái, người cho tôi rõ những gì đang diễn ra trong
MVD và KGB. Thông tin về ai đang cầm quyền, ai thôi việc, những sáng kiến của
chủ tịch mới KGB Selepin mở rộng các chiến dịch của tình báo Xô viết ở nước
ngoài cho tôi hi vọng rằng tôi có thể còn có ích cho ban lãnh đạo mới nhờ kinh
nghiệm của mình và vì thế tôi có thể được ân xá và minh oan, như đã xảy ra với
các tướng và sĩ quan được Stalin và Beria tha năm 1939 và 1941.
Bất chấp những cầu khẩn của tôi được ở trong
xà lim biệt lập, sau một năm người ta xếp vào chỗ tôi đầu tiên là Brik, sau đó
là Mensagin, cảnh sát trưởng Xmonlenxk thời Đức chiếm đóng. Quan hệ của chúng
tôi là lịch sự, nhưng xa lạ. Dù họ là những người thú vị, nhưng cuộc sống trước
kia và tri thức hời hợt của họ về hiện thực của chúng ta làm tôi bực mình, vì
thế chúng tôi không thể gần gũi được.
Sau nửa năm ở nhà tù Vladimir tôi bắt đầu dội
bom Tòa án tối cao và Viện công tố bằng những yêu cầu xem xét lại vụ án của
tôi. Những đề nghị đó bị từ chối. Từ vợ, tôi biết cô đã hai lần cầu xin Khrusev
và Tòa án tối cao cho luật sư đến khi xem xét vụ án của tôi. Nhưng cầu xin này
cũng bị từ chối.
Cô đưa tôi xem bản sao các đơn của mình, và
tôi gửi về Moskva sự phản kháng, tuyên bố rằng cáo trạng của tôi không có hiệu
lực pháp lý, bởi tôi bị khước từ quyền được bảo vệ, cũng như được xem biên bản
phiên tòa mà tôi vẫn chưa ký. Điều đó có nghĩa là tôi ở trong tù trái với pháp
luật. Tôi chỉ nhận được một câu trả lời do Xmirnov, phó chủ tịch Tòa án tối cao
ký, trong đó nói rằng không có cơ sở để xét lại vụ án. Tôi không nhận được phúc đáp
cho 40 bản yêu cầu tiếp theo.
Những người cùng xà lim với tôi, nhất là
Eitingon cười chế nhạo những luận điểm tư pháp trong các yêu cầu của tôi. “Luật pháp và sự cạnh tranh quyền lực, -
Eitingon nói với tôi, - là không thể dung
hợp”.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét