Tầng Đầu Địa Ngục
(The First Circle)
Tác giả: A. Solzhenitsyn
Dịch giả: Hải Triều
Nhà xuất bản Đất Mới - Sài Gòn
Năm xuất bản 1973
Chương 19 - Ngôn ngữ là dụng cụ của sản xuất
Đêm là thời gian làm việc tốt nhất của
Stalin.
Bản tính đa nghi của y như một cuộn dây mở
dần vào buổi sáng. Trong những buổi sáng âu sầu, y nghi ngờ tất cả mọi người. Y
cách chức những tên cần bị cách chức, y cắt giảm những ngân khoản dự chi, y ra
lệnh cho hai hoặc ba Bộ tổ hợp làm một. Ban đêm, tinh thần y sáng suốt và mềm dẻo,
y quyết định việc gia tăng một số Bộ trong chính phủ lên bằng cách đem một Bộ
chia ra thành hai, thành ba Bộ mới, y tìm tên đặt cho những Bộ mới lập, y ký chấp
thuận những ngân khoản dự chi mới và y ký sắc lệnh công nhận những nhân viên mới
được đặt vào những chức vụ mới.
Những tư tưởng giá trị nhất thường đến với
Stalin vào khoảng từ nửa đêm đến bốn giờ sáng. Vào thời gian này, y nghĩ ra
cách phát hành quốc-trái-phiếu mới thay thế những quốc-trái-phiếu cũ để tránh
phải trả tiền lời cho những kẻ có quốc-trái-phiếu, y quyết định đạo luật trừng
phạt những kẻ trốn lao động, y nghĩ ra những biện pháp kéo dài số giờ làm việc
trong ngày và số ngày làm việc trong tuần, biện pháp buộc chặt bọn nông dân và
công nhân vĩnh viễn vào những công việc họ đang làm, những đạo luật về tù khổ
sai và cấm cố, cũng trong khoảng thời gian đêm khuya này, y quyết định giải tán
Đệ Tam Quốc Tế và đặt kế hoạch lâu dài lưu đày bọn phản bội đến Tây Bá Lợi Á.
Kế hoạch lưu đày một số người gồm đủ mọi quốc
tịch lên vùng băng tuyết ấy để cho họ tạo thành một chủng tộc riêng là một thí
nghiệm trong những thí nghiệm tàn bạo nhất của Stalin, một đóng góp trong những
đóng góp lớn nhất của Stalin cho nhân loại, nhưng giờ đây y chẳng còn gì để làm
cho kế hoạch đó nữa. Suốt đời y, Stalin là người nhìn xa, thấy rộng nhất trong
lịch sử Xô Viết.
Y còn là cha đẻ ra nhiều đạo luật giá trị
đáng kể khác nữa. Tuy vậy, y thấy còn những nhược điểm trong toàn thể hệ thống
cơ cấu tổ chức xã hội và những đạo luật mới vẫn tiếp tục thành công trong việc
đóng chặt, khóa kỹ tất cả, mọi chống đối đều bị tận diệt, mọi dị biệt đều bị
san bằng, mọi kẽ hở đều bị bịt kín, tất cả 200 triệu người đều biết họ phải làm
gì, nghĩ gì - chỉ còn có bọn trẻ tuổi trong những nông xã sản xuất là thoát ra
khỏi vùng kiểm soát mà thôi.
Tất nhiên là mọi chuyện đều tốt đẹp trong
những nông xã. Rất tốt đẹp nữa là khác. Stalin biết chắc như thế sau khi xem
phim Nông dân miền Kuban và đọc tiểu thuyết Người kỵ mã sao vàng. Tác giả của
cuốn phim và cuốn sách trên đều tới sống ở những nông xã. Họ đã nhìn, đã thấy
và ghi lại những gì họ nhìn, họ thấy trong tác phẩm của họ, và rõ ràng là tất cả
những gì được ghi lại đó chứng tỏ sự tốt đẹp trong những nông xã. Chính Stalin
cũng từng nói chuyện với những nông xã viên khi y đến chủ tọa những đại hội của
họ.
Nhưng vì là một nhà cai trị sâu sắc và có đức
tính tự chỉ trích, tự kiểm thảo, Stalin đã đào sâu vào vấn đề hơn những nghệ sĩ
kia. Một viên bí thư đảng ủy cấp Tỉnh có lần đã lỡ miệng tiết lộ với Stalin rằng
(viên bí thư mau mồm mau miệng này chắc đã bị bắn sau đó) - không phải tất cả đều
tốt đẹp ở những nông xã: Những người đàn ông, đàn bà từng ghi tên làm việc
trong những nông xã từ năm 1930 đều hăng hái làm việc, nhưng bọn trẻ - tất
nhiên không phải là tất cả bọn trẻ, chỉ có một thiểu số vô trách nhiệm mà thôi -
sau khi học hết cấp trung học, đua nhau xin sổ thông hành bằng đủ mọi cách bất
lương để bỏ nông xã ra thành phố, Stalin nghe chuyện này và lập tức trong óc y
sắp đặt kế hoạch sửa chữa.
Giáo dục! Chương trình học bảy năm rồi mười
năm chung cho tất cả, con cái bọn bồi bếp cũng vào được trường đại học này đã tạo
ra một tình trạng lộn xộn, bê bối. Lênin lầm lẫn lớn về điểm này nhưng bây giờ
hãy còn quá sớm, chưa phải là lúc nên nói cho quần chúng biết như thế. Lênin chủ
trương bất cứ anh bếp nào, chị đàn bà nội trợ nào cũng có thể điều khiển tốt guồng
máy nhà nước! Lênin tưởng tượng ra sao mà lại có thể chủ trương kỳ cục như thế?
Lại còn cho bọn bồi bếp cái quyền nghỉ làm bồi bếp trong ngày thứ sáu mỗi tuần
để đi dự hội thảo trong Ủy ban hành chánh tỉnh! Một chị bếp chỉ là một chị bếp,
công việc của chị ta chỉ là việc nấu ăn. Còn việc cai trị cần phải có những người
có biệt tài, việc cai trị chỉ có thể trao cho một số người đặc biệt nào đó đã
được chọn lọc kỹ và được thử thách trong nhiều năm. Và việc điều khiển số người
đặc biệt này chỉ có thể nằm trong tay một người. Người đó là Lãnh Tụ.
Quy chế tổ chức nông xã phải có ghi điều
đó, cũng như điều đất đai vĩnh viễn thuộc về những xã viên, bất cứ ai ra đời
trong một làng quê, ngay từ lúc vừa lọt lòng mẹ, đã là một xã viên. Và chỉ có ủy
ban hành chánh của nông xã mới có quyền cho phép một người đi khỏi nông xã.
Dường như có một kẻ nào đó trong số những kẻ
gọi là khuynh tả đã có nói đến vấn đề như thế sẽ xảy ra ở các nông xã. (Thực
ra, nhóm gọi là “khuynh tả” không hề có thực, chính Stalin bày ra chuyện gọi một
số người bằng cái tên đó để khi cần đến thanh toán họ cho dễ).
Không biết vì sao người ta thường thấy bọn
kẻ thù của Stalin, bọn chủ trương khác với Stalin, hay nói đúng về nhiều chuyện.
Những kẻ ấy đều đã chết. Nhưng Stalin như vẫn nghe thấy tiếng họ nói từ dưới
đáy mồ vọng về.
Mặc dù việc ban hành những sắc luật mới về
nông xã là cần thiết, cũng như rất nhiều sắc luật mới cần ban hành trong mọi địa
hạt, đêm nay khi bước vào văn phòng, Stalin cảm thấy tâm trí y bị lôi cuốn vì một
vấn đề mơ hồ hơn.
Trên ngưỡng cửa những năm sắp tám mươi tuổi,
Stalin thấy rằng y không có quyền hoãn lại những việc cần làm này lâu hơn nữa.
Người khác có thể nghĩ rằng tất cả mọi việc
có thể làm được để giữ cho Stalin bất tử đều đã được làm, nhưng với Stalin - mặc
dù đã được những người đồng thời suy tôn là Lãnh Tụ Vĩ Đại Nhất, người anh minh
nhất, tài ba nhất - những suy tôn đó, những lời ca ngợi đó vẫn chưa đủ, y còn xứng
đáng được suy tôn hơn thế nhiều. Y thấy sự thán phục của mọi người đều nông cạn,
họ vẫn chưa thấy rõ thiên tài bao la của y.
Trong những ngày gần đây, một ý nghĩ thường
ám ảnh Stalin: Thực hiện một thành công vĩ đại nào đó trong địa hạt khoa học để
có thể nổi tiếng ngoài địa hạt triết học và lịch sử. Tất nhiên là y có thể
thành công rực rỡ trong địa hạt sinh vật học nhưng y đã trao việc này cho
Lysenko, một người lương thiện và cương nghị. Ngoài ra, toán pháp và vật lý hấp
dẫn Stalin nhiều hơn. Mỗi lần đọc những bài thảo luận về Số Không và Kém-Số-Không
đăng trong tập Biện chứng luận về thiên
nhiên, y lại cảm thấy ước ao cũng viết được như thế.
Cũng trong thời gian gần đây, sự tìm tòi
làm cho Stalin chú ý đến trường hợp của giáo sư Chikobava, trường hợp này làm
cho y chú ý đến ngôn ngữ học. Giáo sư Chikhobava vừa viết một cuốn khảo luận về
ngôn ngữ với nội dung chống chủ thuyết Mác-xít, ông chứng minh rằng ngôn ngữ chỉ
là tiếng nói của một quốc gia, một dân tộc, ngôn ngữ tự nó không có đặc tính,
rõ hơn, ngôn ngữ không thể là “ngôn ngữ
vô sản” hoặc “ngôn ngữ tư sản”.
Nhiều học giả đã lên tiếng chỉ trích nặng nề Chikhobava và vào giờ này, nhà
ngôn ngữ học hỗn xược đó chỉ còn có nước ngồi chờ nhân viên Mật vụ KGB đến nhà
gõ cửa đưa đi.
Không còn gì có thể cứu được Chikhobava nếu
Stalin không đích thân nhấc điện thoại lên và ra lệnh để cho ông ta sống.
Stalin để cho Chikhobava sống không phải là không có mục đích: Chính y sẽ lấy ý
kiến của nhà ngôn ngữ học này, y sẽ khai triển ý kiến tầm thường đó thành một
chủ thuyết rực rỡ với hy vọng chủ thuyết đó sẽ giúp y trở thành bất tử.
Nếu y có thể đập tan được những lý thuyết
phản động của bọn phản cách mạng, như lý thuyết về luật tương đối chẳng hạn, y
sẽ làm cho dư luận thế giới rung động hơn, nhưng y đã làm quá nhiều việc, trách
nhiệm của y đối với nhân dân thế giới đã quá nặng nề, y không sao còn thì giờ để
làm việc đó.
Thay y phục xong Stalin ngồi vào bàn viết.
Y dự định viết một thiên khảo luận về tính chất của ngôn ngữ. Viết chưa được nửa
trang y đã thấy mệt. Y ngáp dài và vươn vai. Rồi y đứng dậy đi tới ô kiếng nhỏ
nhìn ra vườn. Tấm kiếng này đạn bắn không thủng. Bên ngoài là một khu vườn chỉ
có người làm vườn được phép đặt chân vào với một binh sĩ gác. Vào giờ này y chỉ
nhìn thấy có sương mù. Y không nhìn thấy những vì sao trên nền trời, cũng không
thấy qua một vật gì.
Ở một mình trong căn phòng kín này Stalin
không chút lo âu, y cũng không chút băn khoăn, lo ngại mỗi khi nghĩ tới nửa
trái đất kia - nửa trái đất mà y vẫn chưa đặt tay lên được - y cảm thấy y có đủ
sức để nắm lấy nửa trái đất đó, bẻ cong nó theo như ý muốn. Y chỉ cảm thấy e ngại
mỗi khi y phải đến dự những đại tiệc, khi y phải đi trên khoảng cách từ cửa xe
hơi tới cửa tòa nhà, đi một mình lên cầu thang và đi qua hai dãy người - những
người đứng kính cẩn đến nhiều khi trở thành khúm núm - quá đông, quá xa lạ. Những
lúc ấy Stalin cảm thấy y yếu đuối, không được bảo vệ, y không biết phải dùng
hai tay y như thế nào, hai bàn tay đã quá lâu không còn được dùng đến nên đã trở
thành vô dụng. Y đặt hai tay lên bụng và mỉm cười. Người ta tưởng nhà độc tài
cười vì nhân từ, vì mến họ, nhưng sự thật y cười vì sợ.
Chính Stalin từng nói rằng không gian là điều
kiện căn bản cho đời sống của vật chất, nhưng sau khi đã làm chủ được một phần
sáu đất đai toàn trái đất, y bắt đầu kinh sợ không gian. Vì vậy mà y thoải mái
sống trong văn phòng chật hẹp này: Ở đây không có không gian.
Stalin đóng cánh cửa thép sau tấm kiếng và
chầm chậm đi trở lại bàn ngồi. Đêm đã khuya quá rồi, ngay cả một thiên tài cũng
không còn làm việc được nữa.
Những sự kiện xảy ra trong cuộc đời không
giúp y, không làm y hài lòng, nhưng y vẫn cứ phải làm việc. Những thế hệ sắp tới
rồi sẽ biết công trạng của Stalin vĩ đại.
Tất cả mọi người đều trông cậy vào Stalin.
Quần chúng lạ kỳ và nhát sợ quá đáng. Mất bao nhiêu công lao dạy cho họ biết thế
nào là dân chủ, nhưng họ vẫn ỷ lại. Nhai sẵn thức ăn mớm cho họ, việc của họ chỉ
là việc nuốt vậy mà họ cũng không nuốt nổi.
Khuôn mặt nâu xám, làn da gợn những vết sẹo
đậu mùa cúi xuống những tờ giấy trắng trên bàn, Stalin muốn viết nhưng cảm hứng
không đến, y không biết nên viết gì.
Có tiếng gõ nhẹ ở cửa, Stalin nhấn nút điện
mở khóa.
Bộ mặt anh hề của Sasha hiện ra giữa hai
cánh cửa, gã hỏi nhỏ như tiếng thì thào:
- Iosif Vissarionovich, ông cho phép tôi gọi
Abakumov vào hay cho hắn về?
- À, Abakumov.
Mải mê sáng tác Stalin đã quên mất Abakumov.
- Được rồi. Cho hắn vào.
Y rút chìa khóa ở dây lưng ra mở nắp kim
khí một bình rượu khác để sẵn trong ngăn bàn viết và uống một ly rượu nhỏ.
Lúc nào y cũng phải tỉnh táo, sáng suốt và
mạnh như một con chim ưng.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét