Đất Vỡ Hoang
Tác giả: M. Sholokhov
Dịch giả: Vũ Trấn Thủ
NXB Cầu Vồng - Moskva, 1985 (In tại Nga Xô)
Tập I
Chương 1
Cuối tháng Giêng, gặp buổi đầu trời trở ấm,
các vườn hoa anh đào tỏa hương thơm ngát. Vào buổi trưa, đây đó là những quãng
khuất gió, nếu như trời nắng, vỏ cây anh đào bốc lên một mùi thoang thoảng, rầu
rầu, hòa với hơi ẩm nhạt nhẽo của tuyết tan, với hương vị đậm đà, cổ xưa xông
lên từ dưới dải đất vừa mới ló ra khỏi lớp tuyết, và tầng lá mục.
Hương vị dịu ngọt của muôn hoa cứ quyện lấy
vườn tược cho đến lúc bóng đêm xanh lam buông xuống, cho đến lúc vành trăng lưỡi
liềm xanh phớt ló ra qua những cành cây trụi lá, cho đến lúc những chú thỏ rừng
ăn no béo mỡ nhảy nhót vứt lại trên mặt tuyết những đốm vết chân mịn màng.
Thế rồi gió đưa về từ các ngọn đồi thảo
nguyên mùi dịu dịu của cây ngải cứu héo khô vì băng giá; hương vị và âm thanh của
ban ngày chìm lắng đi và bóng đêm, như một con sói cái lông xám, từ đằng Đông lặng
lẽ đổ về, lướt qua những bụi ích mẫu, những đám cỏ dại, những thửa ruộng rạ héo
hon, những cánh đồng ải mùa thu nhấp nhô như sóng lượn, để lại đằng sau nó trên
thảo nguyên lê thê bóng hoàng hôn chạng vạng.
*
* *
Một tối tháng Giêng năm 1930, trên con đường
hẻm rìa thảo nguyên, có một người cưỡi ngựa đi vào ấp Grêmiatsi Lốc. Tới gần
ngòi, người ấy dừng con ngựa đã mệt nhoài hai bên sườn sương đóng bết từng mảng,
và nhảy xuống. Vầng trăng hạ tuần đã treo lơ lửng bên trên bóng đen ngòm của
các vườn cây chạy dọc hai bên con đường hẹp, bên trên những rặng cây dương um
tùm như những hòn đảo. Con đường hẻm tối và lặng ngắt. Đâu đó, bên kia con
ngòi, một tiếng chó sủa rống lên, một ánh lửa le lói. Người cưỡi ngựa nghếch
mũi hít một hơi cái không khí lạnh giá, thong thả tháo một bên găng tay, châm
thuốc hút, rồi thít căng đai ngựa lại, lùa mấy ngón tay xuống dưới đệm yên; và,
sau khi đã sờ thấy cái lưng nóng hổi và nhễ nhại mồ hôi của con ngựa, y lanh lẹn
tung người cao lớn của mình lên yên. Y cưỡi ngựa đi ngang qua con ngòi không bị
đóng băng ngay cả mùa đông. Con ngựa, khua móng sào sạo trên lớp sỏi phủ đầy
lòng sông, muốn uống nước lắm, nhưng chủ nó thúc, và nó thót bụng nhảy phốc lên
bờ sông dốc thoải.
Nghe có tiếng nói và tiếng cót két của càng
xe trượt tuyết đang đi ngược tới, người cưỡi ngựa dừng cương. Con ngựa dỏng tai
nghe ngóng, ngoái cổ lại. Cái đai ngực bạc và chiếc vành yên cao cao viền bạc
theo kiểu kô-dắc bắt gặp một ánh trăng bỗng sáng lên trong bóng tối đường làng
một tia trắng loé. Người cưỡi ngựa vắt dây cương trên vành yên, vội vã kéo cái
mũ kô-dắc lông lạc đà cho tới lúc ấy vẫn thả trễ xuống bên vai, đội lên đầu sụp
xuống mặt rồi thúc ngựa rảo nước kiệu. Qua khỏi chiếc xe trượt tuyết, y lại đi
bước một như ban nãy, nhưng vẫn không hạ mũ xuống.
Vào tới trong ấp, y hỏi một bà đang đi ngược
lại:
- Này, bác ơi, nhà ông Iakốp Ôxtơrốpnốp ở
đâu, hả bác?
- Iakốp Lukits ấy hả?
- Phải, phải.
- Đấy, nhà ông ta ở sau cây dương kia kìa,
lợp ngói đấy, ông trông thấy không?
- Thấy, cảm ơn bác.
Tới trước ngôi nhà rộng lợp ngói, y nhảy xuống,
dắt ngựa qua cổng hàng rào và lấy cán roi gõ nhẹ vào cửa sổ.
- Ông chủ ơi! Iakốp Lukits, ra cho tôi hỏi
tí.
Chủ nhà bước ra thềm, đầu trần, áo vét-tông
vắt vai, nhìn chằm chằm khách lạ rồi bước xuống bậc tam cấp, vừa mỉm cười trong
bộ râu điểm bạc, vừa nói:
- Ma đưa quỷ dẫn ông bà nào đến nhà tôi thế
nhỉ?
- Không đoán ra à, Iakốp Lukits? Cho ngủ nhờ
nào. Để con ngựa vào đâu cho ấm tí nhỉ?
- Không, anh đồng chí ạ, tôi không nhớ ra
anh là ai. Chẳng hay có phải anh ở trên huyện không? Hay bên Nông hội? Tôi hơi
nhận ra rồi đấy... Tiếng anh nói nghe quen quen...
Khách nhếch đôi mép nhẵn thín, mỉm cười, lật
mũ trùm ra:
- Pôlốptxép. Có nhớ không?
Iakốp Lukits bỗng nhớn nhác nhìn quanh, tái
mặt đi, thều thào:
- Quan lớn! Ngài ở đâu tới thế vậy?... Bẩm
ngài đại úy!.. Ngựa để đấy con dắt... nhà có chuồng... Chà, thấm thoắt thế mà
đã bao nhiêu năm rồi...
- Ấy, ấy, khe khẽ chứ! Ừ, lâu lắm rồi đấy...
Có chăn đắp ngựa không? Nhà có ai lạ không?
Khách trao dây cương cho chủ. Con ngựa uể oải
tuân theo những động tác của bàn tay lạ, đầu ngẩng cao, cổ vươn dài, và mệt nhọc
lê đôi cẳng sau bước vào chuồng. Nó gõ móng lộp cộp vào sàn gỗ và, đánh hơi thấy
cái mùi quen thuộc của một con ngựa khác, nó khịt nhặng xị lên. Bàn tay lạ đặt
lên cái tảng của nó, những ngón tay thành thạo cẩn thận tháo cái hàm thiếc nhạt
tanh, giải phóng cho đôi lợi ê ẩm của nó. Và con ngựa với một vẻ biết ơn sà vào
đống cỏ khô.
- Con đã nới đai cho nó rồi, cứ để đóng yên
như thế một lát, nó lại sức, ta sẽ tháo. - Chủ nhà vừa nói vừa chăm chút đắp
lên lưng ngựa tấm chăn lạnh ngắt. Và sờ nắn bộ đồ thắng ngựa, thấy đai bụng bị
kéo căng, dây treo bàn đạp trùng thõng hẳn xuống, lão tự xác định được ngay rằng
ông khách đã từ xa đến và trong ngày hôm ấy đã phi một đoạn đường chẳng ngắn.
- Nhà có thóc không, Iakốp Lukits?
- Có tí ti. Ta cho nó uống nước đã, rồi cho
ăn thóc. Nào mời ngài vào nhà, bây giờ xưng hô với ngài thế nào đây, thật cũng
chẳng biết nữa... Gọi như trước thì không còn quen mồm, và cũng bất tiện... -
Chủ nhà lúng túng mỉm cười trong bóng tối, dù biết rằng khách cũng chẳng trông
thấy mình cười.
- Cứ tên cúng cơm mà gọi. Còn nhớ không? -
Khách miệng hỏi chân bước đi trước ra khỏi chuồng ngựa.
- Quên sao được ạ! Dọt bọn Đức mãi với nhau
mà, lại cả cái cuộc nội chiến này nữa... Tôi vẫn thường nhớ đến ông đấy Alếchxanđrơ
Anhiximôvits ạ. Từ cái buổi chia tay nhau ở Nôvôrôxixcơ ấy, tôi chẳng được tăm
hơi gì của ông. Tôi cứ ngỡ ông vượt biển sang Thổ Nhĩ Kỳ với anh em kô-dắc rồi.
Họ bước vào gian bếp có đốt lò ấm ran.
Khách bỏ mũ trùm và cả chiếc mũ lông trắng đội trong ra, để lộ cái sọ chắc nịch,
có góc có bướu, phủ một lớp tóc thưa bềnh bệch. Từ dưới cái trán hói đổ thẳng
xuống như trán chó sói, đôi mắt đảo nhìn gian phòng. Và tươi cười nheo nheo đôi
mắt màu xanh nhạt lấp lánh giận dữ trong hai ổ mắt sâu, y nghiêng đầu chào hai
người đàn bà ngồi trên tấm ghế dài là mụ chủ nhà và nàng con dâu.
- Chào bà con mạnh khỏe!
- Lạy Chúa, - mụ chủ nhà dè dặt đáp, đưa mắt
nhìn chồng, chờ đợi, như muốn hỏi: “Ông dẫn ai về nhà thế vậy, và tiếp đãi người
ta thế nào bây giờ cho phải?”.
Sau khi mời khách lên nhà trên ngồi vào
bàn, lão chủ buông gọn một câu ra lệnh cho vợ:
- Dọn gì ăn đi.
Ngồi ăn xúp bắp cải thịt lợn, có mặt hai
người đàn bà, khách chỉ nói chuyện thời tiết, chuyện bạn bè đồng đội. Cái hàm
dưới bành bạnh của khách nom như đẽo bằng đá tảng, cử động một cách khó nhọc;
khách nhai chầm chậm, uể oải, như một con bò mộng kiệt sức nằm trên ổ. Ăn xong,
khách đứng dậy, ra trước tượng thánh đặt giữa những bông hoa giấy bám đầy bụi,
cầu kinh, rồi phủi xong những vụn bánh mì bám trên tấm áo khoác cũ kỹ bó sát
vai, nói:
- Iakốp Lukits, xin đa tạ về tấm lòng
thành! Bây giờ ta nói chuyện.
Mụ chủ và cô con dâu líu tíu dọn bàn; và
vâng theo đôi lông mày rướn lên ra hiệu của lão chủ, họ lảng xuống bếp.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét