Thứ Năm, 25 tháng 7, 2013

Đất Vỡ Hoang - II-27


Đất Vỡ Hoang

Tác giả: M. Sholokhov

Dịch giả: Vũ Trấn Thủ

NXB Cầu Vồng - Moskva, 1985 (In tại Nga Xô)


Tập II

Chương 27

Cuộc sống ở Grêmiatsi Lốc vẫn xuôi dòng, và cao cao bên trên thôn xóm vẫn là cái cảnh trôi xuôi lững lờ và oai nghi có tự ngàn xưa ấy: vẫn những đám mây trôi đi bên trên xóm làng, đôi lúc trắng điểm màu sương giá, đôi lúc chuyển màu sắc, từ màu xanh thẫm giông bão sang cái màu đùng đục không xác định; đôi khi, lúc mặt trời lặn, chúng bốc cháy lên một ánh sáng rực hoặc xỉn, báo hiệu hôm sau có gió, và những lúc ấy, trong tất cả các sân nhà, đám đàn bà con trẻ lại được nghe thấy từ miệng các ông chủ gia đình hoặc những người sắp thành chủ gia đình, những câu ngắn gọn có giá trị thuyết phục cũng từ ngàn xưa: “Gió ấy thì đánh rơm, chở cỏ cái gì?”. Rồi một ai trong đám người ngồi đó - ông già bà cả trong nhà hoặc người hàng xóm - đáp lại sau một phút im lặng: “Chả phải nói. Gió bẻ gãy sừng bò đấy”.
Và trong cái không gian trên trời gió đông thổi lồng lộn, dưới đất người người bị dồn vào cảnh ăn không ngồi rồi, thì tại tất cả ba trăm ngôi nhà trong thôn xóm, người ta lại kể lại vẫn cái câu chuyện về một chàng Ivan Ivanôvits Đechiarép nào đó chết từ lâu rồi. Ngày xửa ngày xưa, anh chàng Ivan ấy đã nảy ra ý định đi chở lúa ngoài đồng về vào một hôm trời nổi gió đông, và khi thấy gió cuốn đi mất của anh từng bó lúa, từng lượm lúa chín vàng, thất vọng thấy mình chống lại gió không nổi, anh bèn cầm cây đinh ba xóc lên một bó lúa to tướng, rồi quay nhìn về hướng đông tức giận quát lên bảo gió: “Nào, mày đã khỏe thế thì mày cuốn nốt cả cái này đi này! Cuốn đi, đồ khốn kiếp!”. Rồi anh lật xe đổ hết những bó lúa xếp vuông vức ra, đi xe về không, miệng chửi vung tán tàn.
Cuộc sống ở Grêmiatsi Lốc vẫn đủng đỉnh xuôi dòng, nhưng mỗi ngày mỗi đêm lại mang đến cho mỗi một trong ba trăm ngôi nhà của thôn xóm những vui buồn, những niềm lo âu lớn nhỏ, những đau thương không phải chốc lát mà nguôi đi... Hôm thứ hai, cụ Agây, người chăn bò của làng từ bao năm nay, đã qua đời ở ngoài bãi thả vào lúc rạng đông. Cụ đuổi theo để lùa về một con bò cái non mất nết, nhưng mới lóc cóc chạy được một quãng thì bỗng đứng sững lại, ôm cái roi đè lên quãng tim, loạng choạng một phút, hai cẳng chân lòng khòng giẫm tại chỗ, rồi lảo đảo như người say rượu, cụ buông rơi cái roi, bước thấp bước cao từ từ quay trở lại. Người con dâu cụ Bexkhlépnốp đang dắt bò đi qua vội chạy lại nắm lấy hai bàn tay già lạnh giá của cụ, vừa hổn hển thở hơi thở nóng hổi của mình vào đôi mắt như sứ của ông lão, vừa hỏi:
- Cụ ơi, cụ khó chịu trong người hay sao thế?! - Và lấy lại được hơi, chị kêu lên: - Cụ ơi, cụ cần gì không để con giúp?!
Cụ Agây lắp bắp, lưỡi đã líu lại:
- Cháu ơi, đừng sợ... Đỡ lão tí, không lão ngã mất...
Rồi cụ ngã, đầu tiên là khuỵu đầu gối phải, rồi đổ nghiêng xuống. Và tắt thở. Tất cả chỉ có thế.
Và vào lúc ăn trưa, hầu như cùng một giờ, có hai chị nông trang viên sinh nở. Một chị đẻ rất khó. Đavưđốp đã phải vơ quàng một chiếc xe ngựa phái hỏa tốc sang Vôixkôvôi mời thầy thuốc. Anh đi viếng cụ Agây, vừa mới ở chỗ gia đình côi cút của cụ trở về thì anh nông trang viên trẻ tuổi Mikhây Kudơnétxốp chạy xộc vào trụ sở nông trang. Tái xanh tái xám và hớt hơ hớt hải, chửa đặt chân đến cửa anh ta đã mở máy:
- Đồng chí Đavưđốp ơi, lạy Chúa, đồng chí giúp cho! Nhà tôi đau đẻ đã hai hôm nay rồi mà không làm sao rặn ra được. Ngoài cô ấy ra, tôi lại còn một nách hai đứa nhỏ, và nom cô ấy mà rớt nước mắt. Đồng chí giúp cho cái xe, phải tìm thầy thuốc, chứ các bà mụ nhà ta thì chịu rồi...
- Đi theo tôi! - Đavưđốp nói, và bước ra sân.
Bác Suka đã đi chở cỏ khô ngoài thảo nguyên. Ngựa đều đi có việc cả.
- Ta đi về nhà anh, anh cứ vào với chị ấy, tôi ở ngoài này vớ được cái xe nào tôi sẽ phái ngay sang Vôixkôvôi.
Đavưđốp thừa biết đàn ông không nên có mặt quanh chỗ đàn bà đẻ, nhưng anh vẫn rảo chân đi đi lại lại bên hàng giậu thấp của nhà Kudơnétxốp, mắt nhìn dọc từ đầu này đến đầu kia con đường làng vắng tanh, tai nghe những tiếng rên rỉ âm thầm và tiếng kêu kéo dài của người đẻ; miệng anh cũng hầm hè đau hộ cái đau đẻ của người chẳng thân thích gì với anh, và lẩm bẩm những câu chửi rủa tục tĩu nhất của ngôn ngữ lính thủy. Và khi thấy đủng đỉnh trên đường cái xe chở nước của thằng bé mười sáu tuổi Anđrây Akimốp, anh chạy đâm bổ ra chặn lại, lăng xăng như một đứa trẻ, rồi hì hục vần cái thùng đầy nước từ trên xe xuống, và vừa thở dốc vừa nói:
- Này, mày ơi, ở đây có một bà đang gay go. Ngựa mày khỏe, mày phóng ngay sang Vôixkôvôi mời ông y sĩ, sống chết cũng chở về đây cho tao! Cứ cho ngựa phóng đi, tao chịu trách nhiệm, thực tế thế!
Và trong cái im lặng lắng đọng của buổi ban trưa, một lần nữa một tiếng kêu lại xé lên, rồi lắng xuống, nghẹn ngào, trầm trầm, rồi bặt, tiếng kêu của người quằn quại trong cơn đau đẻ rứt ruột. Đavưđốp nhìn chòng chọc vào mắt thằng bé, hỏi:
- Nghe thấy chưa? Thế thì đi đi!
Đứng thẳng người trên xe, thằng bé nhìn Đavưđốp một cái như người lớn:
- Chú Xêmiôn ạ, cháu hiểu rồi. Còn ngựa thì chú cứ yên tâm!
Đôi ngựa lao đi như tên bắn. Thằng bé đứng thẳng ưỡn trên xe, huýt miệng và vung roi một cách hiên ngang, còn Đavưđốp đứng nhìn bụi đường cuốn lên dưới cái bánh xe ngựa một lát rồi khoát tay một cái thất vọng, bước về trụ sở nông trang. Dọc đường anh còn nghe thấy một lần nữa cái tiếng đàn bà kêu thảm thương ấy. Anh nhăn mặt lại như chính mình bị đau, và đi quá được hai ngõ rồi anh mới hậm hực càu nhàu:
- Thế đấy! Đã định đẻ mà lại không biết đẻ cho ra hồn, thực tế thế!
Ngồi ở trụ sở, anh chưa kịp giở ra xem những cái gọi là công việc sự vụ hàng ngày thì một anh chàng trẻ nom vẻ bối rối, bước vào. Đó là anh con trai cụ nông trang viên Abramốp. Anh ta cứ đứng lắc lư đó, rồi ngượng ngịu nói:
- Báo cáo đồng chí Đavưđốp, hôm nay nhà chúng tôi có đám cưới, mời đồng chí đến dự với gia đình chúng tôi. Vắng đồng chí e không tiện.
Và thế là Đavưđốp xả hơi luôn. Đang ngồi, anh chồm bật dậy, kêu lên:
- Ô hay, cái làng này hóa rồ cả rồi hay sao đấy?! Họ bảo nhau chết, sinh đẻ, cưới xin, tuốt tuồn tuột cả vào một ngày! - Rồi trong bụng cười thầm mình nóng nảy, anh dịu giọng xuống hỏi: - Nhưng cậu đi đếch đâu mà vội thế? Đợi sang thu cưới có hơn không. Mùa thu mới đúng là mùa cưới.
Anh chàng như đứng trên than hồng, nói:
- Cái sự nó không đợi được ạ.
- Cái sự gì thế?
- Thưa đồng chí Đavưđốp, chắc đồng chí cũng tự hiểu được ạ...
- À ra thế... Cái sự ấy, chú nó ạ, phải nghĩ đến trước chứ! - Đavưđốp nói bằng giọng dạy đời. Và liền ngay đó, anh mỉm cười nghĩ bụng: “Mình chưa phải cái mặt dậy hắn, và hắn cũng chưa phải là cái đứa phải nghe mình”. Im lặng một lát cho có vẻ trịnh trọng rồi anh nói tiếp: - Thôi được, chiều chúng tôi sẽ lại qua, cả ba. Cậu đã nói với anh Nagunốp và Radơmiốtnốp chưa?
- Có mời cả rồi ạ.
- Được rồi, ba chúng mình sẽ đến, ngồi chơi độ một tiếng. Rượu thì chúng mình không uống nhiều được đâu, thời buổi này không tiện, gia đình cũng bỏ quá đi cho. Thôi, cậu về đi, tiện đây chúc cậu hạnh phúc. Lát nữa đến nhà chúng mình sẽ chúc cả đôi sau... À, thế bụng cô ấy đã to lắm chưa?
- Chưa to lắm, nhưng trông rõ ạ...
- Trông rõ thì càng hay, - Đavưđốp lại nhận xét với vẻ có chút dạy đời và nhận thấy cái giọng giả tạo của câu chuyện, anh lại mỉm cười.
Và một giờ sau, khi Đavưđốp đang ký giấy má thì ông bố Mikhây Kudơnétxốp tràn trề hạnh phúc xuất hiện, chạy đến ôm choàng lấy Đavưđốp, mừng quýnh tuôn ra một tràng:
- Thật là Chúa sai anh xuống làm chủ tịch cho chúng tôi! Thằng Anđrây đưa ông y sĩ về kịp thời quá: bu nó nhà tôi đã tưởng chết, thế rồi nhờ ông ta mà đã rặn ra được cho tôi một thằng cu hay ra phết, chà, phải bằng con bê, bế không nổi. Ông y sĩ bảo nó ra ngược thì phải. Nhưng theo tôi, ngược xuôi gì cũng mặc, cứ biết trong nhà thế là có thằng con giai! Đồng chí nhận cho làm cha đỡ đầu nó đấy, đồng chí Đavưđốp nhá!
Đavưđốp đưa tay lên xoa trán, nói:
- Được, mình nhận. Mừng rất mừng thấy chị ấy thế là mẹ tròn con vuông. Ở nhà cần thứ gì, mai cậu cứ đến gặp Ôxtơrốpnốp, mình sẽ có lệnh cho lão ấy. Còn việc thằng bé ra ngược thì không sao: cậu nên biết rằng con giai thực sự là con giai thì ít khi ra xuôi... - Và lần này anh không cười nữa, không cảm thấy mình có cái giọng dạy đời mà lúc nãy anh thấy buồn cười.
Còn chối vào đâu được nữa, rõ ràng chàng lính thủy là anh đã đâm ra tình cảm ủy mị rồi, một khi mà niềm vui của người khác và một bà mẹ sinh nở được vuông tròn đã làm cho anh phải ứa nước mắt cảm động. Và cảm thấy mình rưng rưng, anh đưa bàn tay to bè lên che mắt, kết thúc câu chuyện bằng một giọng hơi thô lỗ:
- Thôi về đi, chị ấy đang chờ cậu ở nhà. Cần gì cậu đến sau, còn bây giờ thì về đi, mình không có thời giờ. Cậu nên hiểu là chẳng cần cậu quấy, mình cũng đã đủ bù đầu rồi.

Cũng ngày hôm ấy, chiều tối rồi, đã xảy ra một sự kiện đặc biệt có tầm quan trọng không nhỏ đến với Grêmiatsi Lốc và hầu như chẳng ai biết: vào khoảng bảy giờ tối, một chiếc xe nhỏ lịch sự đã tới đỗ trước cửa nhà Ôxtơrốpnốp. Chiếc xe do đôi ngựa rất đẹp mã kéo. Một người tầm thước mặc áo cổ đứng vải thô và quần cũng bằng vải thô bước trên xe xuống, đi vào cổng. Với cái vẻ đỏm dáng của một ông già sang trọng, lão phủi bụi gấu quần, rồi nhanh nhẹn bước lên thềm nhà Ôxtơrốpnốp, đường hoàng đi vào hành lang ở đó Iakốp Lukits đang đứng đợi lão, trong lòng thấp thỏm lo lắng trước cuộc viếng thăm chưa từng có này. Lão khẽ nhe hàm răng vàng khè khói thuốc lá, đưa bàn tay nhỏ nhắn khô khốc nắm chặt lấy khuỷu tay Iakốp Lukits, mỉm cười thân mật hỏi:
- Iakốp Lukits phải không? Nhìn dáng, tôi nhận ra ngay anh là gia chủ đây. Ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits có nhà không?
Nhìn hình dáng và điệu bộ của khách lạ, và qua kinh nghiệm của một người lính từng trải đánh hơi thấy đây là một thượng cấp, Iakốp Lukits vội rập đôi gót giầy mòn vẹt kêu đánh bốp một cái, luống cuống đáp:
- Bẩm quan lớn! Ngài đấy ạ? Lạy Chúa, các ông ấy ở đây chờ ngài mãi!
- Dẫn ta đi!
Với một sự nhanh nhẩu vốn không phải bản tính lão, Iakốp Lukits xun xoe mở rộng cánh cửa gian phòng xép của Pôlốptxép và Liachépxki.
- Thưa ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits, xin ông thứ lỗi, tôi đã không bảo khách chờ, có thượng cấp đến gặp ông ạ!
Khách lạ bước vào khung cửa mở toang, giang rộng cánh tay với điệu bộ đóng kịch, nói:
- Xin chào các vị ẩn sĩ thân mến! Ở đây có thể nói to thoải mái được không đấy?
Pôlốptxép đang ngồi bên bàn và Liachépxki đang uể oải nằm ườn trên giường như thường lệ, bật cả dậy như có tiếng hô nghiêm.
Khách lạ ôm lấy Pôlốptxép hôn, còn Liachépxki thì chỉ được hắn đưa tay trái kéo sát vào người, và nói:
- Mời các ngài sĩ quan ngồi xuống. Tôi là đại tá Tóc bạc, người vẫn gửi lệnh cho các ngài, và do số phận xoay vần, hiện đang là cán bộ canh nông phòng nông nghiệp khu. Như các ông thấy, tôi đến với các ngài với danh nghĩa đi thanh tra. Thời gian của tôi có hạn. Tôi muốn cho các ngài biết qua tình hình.
Khách mời hai viên sĩ quan ngồi xuống, rồi vẫn với nụ cười để lộ hai hàm răng ám khói thuốc ấy, nói tiếp bằng giọng làm ra vẻ thân mật:
- Các ngài sống túng thiếu lắm nhỉ, chắc cũng chả có gì mà đãi khách... Nói thế thôi chứ không phải thết đãi gì đâu, tôi sẽ ăn tối ở chỗ khác. Chỉ yêu cầu cho ra mời anh xà ích của tôi vào bàn đây với chúng ta, và cho người vọng tiêu bảo đảm an toàn cho chúng tôi.
Pôlốptxép nhanh nhảu lao ra cửa, nhưng vừa lúc ấy, viên xà ích của ngài đại tá, một người dáng cao lớn, thân hình cân đối, đã bước vào. Hắn chìa tay ra bắt tay Pôlốptxép:
- Chào ngài đại úy! Theo phong tục Nga, không ai bắt tay nhau qua ngưỡng cửa... - Và quay sang phía tên đại tá, hắn kính cẩn đề nghị: - Ngài cho phép? Vọng tiêu tôi đã đặt rồi.
Lão đại tá vẫn mỉm cười như trước với Pôlốptxép và Liachépxki, nheo nheo đôi mắt xám trũng sâu:
- Giới thiệu với các ngài sĩ quan, đây là đại úy kị binh Kadantxép. Còn ngài Kadantxép ạ, các vị chủ nhà đây thì ngài biết rồi. Bây giờ ta vào việc. Ta ngồi quanh cái bàn của các vị độc thân này.
Pôlốptxép rụt rè đề nghị:
- Thưa ngài đại tá, có lẽ ngài cho phép chúng tôi mời ngài xơi tạm cái gì? Chả có gì đâu ạ, gọi là chút lòng thành.
Lão đại tá gạt phắt:
- Xin cảm ơn, không cần. Ta bàn việc ngay thôi, thời giờ tôi rất eo hẹp. Đại úy lấy cho tôi tấm bản đồ.
Viên đại úy Kadantxép rút ở túi ngực áo véttông ra tấm bản đồ gập tư vùng biển Adốp - Hắc Hải, tỷ lệ một phần năm trăm nghìn, trải ra trên bàn, rồi cả bốn tên châu đầu vào.
Lão đại tá sửa lại cái cổ đứng đang bẻ ra của chiếc áo vải bạt, rút trong túi ra cây bút chì xanh, gõ gõ xuống bàn, nói:
- Như các ngài biết, tên thật của tôi không phải là Tóc bạc... mà là Nhikônxki, đại tá ở Bộ tổng tham mưu quân đội Hoàng gia. Đây là một bản đồ phổ thông, nhưng với nhiệm vụ chiến đấu của các ngài thì cũng không cần bản đồ chi tiết hơn. Nhiệm vụ của các ngài là: với khoảng hai trăm lưỡi lê và kiếm các ngài có trong tay, đánh tan xong bọn cộng sản địa phương, đừng để những trận đụng độ nhỏ lằng nhằng kìm chân lại, theo đội hình hành quân tiến thẳng tới nông trường quốc doanh “Vừng hồng”, dọc đường tiến cắt đứt hết mọi liên lạc của chúng. Tới nông trường, làm xong những việc cần thiết, các ngài sẽ thu được gần bốn chục súng trường với số đạn tương ứng và cái quan trọng nhất là với số súng trường và súng máy nắm được trong tay mà các ngài phải giữ gìn nguyên vẹn, với gần ba chục ôtô vận tải thu được ở nông trường, phải hành binh cấp tốc tới Milêrôvô. Còn việc quan trọng này nữa... Các ngài xem đấy, tôi giao cho các ngài biết bao nhiêu là nhiệm vụ quan trọng... Tôi ra lệnh cho ngài, ngài đại úy ạ, phải đánh một đòn bất ngờ vào trung đoàn đóng quân trong thành phố Milêrôvô, làm cho nó không kịp triển khai, đánh tan nó trên đường hành tiến, tước vũ khí, chiếm lấy toàn bộ phương tiện hỏa lực của nó, thu nạp những binh sĩ Hồng quân nào muốn theo ta, rồi tất cả lên xe, tiến về hướng Rôxtốp. Tôi chỉ vạch nhiệm vụ của các ngài trên những nét đại cương, nhưng nhiều điều sẽ phụ thuộc vào sự hoàn thành nhiệm vụ ấy. Nếu chẳng may cuộc tiến quân của các ngài về Milêrôvô gặp phải một sự đề kháng bất ngờ, các ngài sẽ vòng tránh Milêrôvô mà tiến thẳng về Kamenxcơ, đây, theo đường này. - Lão đại tá cầm bút chì xanh uể oải vạch một nét thẳng trên bản đồ. - Tôi với quân đoàn của tôi sẽ đợi ngài ở Kamenxkơ, ngài đại úy ạ.
Ngừng một lát rồi lão nói tiếp:
- Có thể là trung tá Xavachêép sẽ yểm hộ các ngài từ phía bắc. Nhưng các ngài không nên quá trông mong vào điều đó, và hãy độc lập tác chiến. Cần hiểu rõ thành công của các ngài sẽ quyết định rất nhiều cái. Đây là tôi nói về việc tước vũ khí trung đoàn Milêrôvô và tận dụng các phương tiện hỏa lực của nó. Thế nào cũng có một đội pháo trợ chiến, những khẩu pháo ấy sẽ đỡ cho ta rất nhiều. Rồi từ Kamenxkơ chúng ta sẽ triển khai chiến sự, đánh chiếm Rôxtốp, vì biết rằng chúng ta sẽ được sự tiếp viện của các lực lượng quân ta ở Kuban và Chêrếch, sau đó ta sẽ có tiếp viện của quân đồng minh, và thế là toàn bộ miền Nam đã ở trong tay chúng ta. Các ngài sĩ quan ạ, các ngài thấy rõ rằng kế hoạch chiến dịch chúng tôi vạch ra như thế là khá mạo hiểm, nhưng chúng ta không còn đường nào khác! Nếu chúng ta không biết nắm lấy thời cơ mà lịch sử đã đem lại cho chúng ta vào năm ba mươi này thì thôi, vĩnh biệt nền đế chế, và chúng ta chỉ còn có chuyển sang hoạt động khủng bố lẻ tẻ mà thôi... Đó là tất cả những điều tôi cần nói với các ngài. Bây giờ ngài phát biểu đi, đại úy Pôlốptxép, nhưng nói ngắn thôi. Nên nhớ là tôi còn phải đến trụ sở Xôviết đây lấy dấu vào công lệnh rồi lên huyện. Tôi đã nói với các ngài, danh nghĩa tôi là cán bộ canh nông của phòng nông nghiệp, cho nên các ngài nên nói ngắn thôi.
Không nhìn viên đại tá, Pôlốptxép trầm trầm nói:
- Thưa ngài đại tá, ngài đã vạch ra cho chúng tôi nhiệm vụ chung, không có chi tiết cụ thể nào. Chúng tôi sẽ chiếm nông trường, nhưng tôi cho rằng sau đó chúng tôi phải đi lôi kéo dân kôdắc nổi dậy, nhưng ngài lại giao cho chúng tôi nắm một trung đoàn thường trực của Hồng quân mà chiến đấu. Ngài có thấy rằng với khả năng và lực lượng của chúng tôi thì đó là một nhiệm vụ không thể hoàn thành nổi không? Và chỉ cần một tiểu đoàn chặn đánh chúng tôi trên con đường tiến quân thôi... phải chăng ngài đã đặt chúng tôi vào tình thế chắc chắn là bị tiêu diệt?!
Lão đại tá Nhikônxki gõ gõ mấy ngón tay xương xẩu xuống bàn, cười khẩy:
- Tôi nghĩ rằng hồi người ta đề bạt ngài cấp đại úy là sai lầm. Nếu gặp phút khó khăn ngài do dự và không tin tưởng vào thắng lợi của kế hoạch tác chiến chúng tôi vạch ra thì ngài không xứng đáng là một sĩ quan của quân đội Nga chút nào! Ngài chớ có vỗ ngực ta đây rồi tự ý đặt ra kế hoạch của riêng mình! Tôi phải hiểu lời của ngài như thế nào đây? Ngài sẽ chấp hành mệnh lệnh hay là cần phải loại ngài ra?
Pôlốptxép đứng dậy, cúi nghiêng cái trán dô xuống, đáp nhỏ:
- Thưa ngài đại tá, tôi sẽ chấp hành mệnh lệnh. Có điều là... Có điều là trường hợp thất bại, ngài sẽ phải chịu trách nhiệm, chứ không phải tôi!
- Ô, ngài đại úy, điều ấy thì ngài khỏi lo! - Viên đại tá Nhikônxki mỉm cười không lấy gì làm vui vẻ lắm, vừa nói vừa đứng dậy.
Lập tức viên đại úy Kadantxép cũng đứng dậy theo:
Ôm hôn Pôlốptxép, Nhikônxki nói:
- Dũng cảm và dũng cảm hơn nữa! Đó chính là cái hiện đang thiếu cho đội ngũ sĩ quan của quân đội hoàng gia hùng mạnh ngày xưa! Họ đã bị mòn mỏi đi trong cái nghề giáo viên trung học và cán bộ canh nông. Truyền thống quân đội ta đâu cả rồi? Những truyền thống vẻ vang của quân đội Nga các ngài quên rồi sao? Nhưng không sao. Đầu tiên các ngài chỉ có việc chấp hành những cái người ta đã nghĩ thay cho các ngài, rồi sau đó... Rồi sau đó, càng ăn sẽ càng thấy ngon miệng! Ngài đại úy ạ, tôi mong sẽ được thấy ngài đóng lon thiếu tướng, ở Nôvôrôxixcơ, hoặc ở Mátxcơva chẳng hạn. Trông cái vẻ cô độc, ít cởi mở của ngài thì biết ngài là người dám làm nhiều việc! Thôi, hẹn gặp nhau ở Kamenxcơ! À, còn một điểm cuối cùng: lệnh phát hỏa nhất loạt ở tất cả các điểm nổi dậy sẽ được báo riêng cho các ngài sau, điều ấy thì các ngài hiểu. Tạm biệt, một lần nữa hẹn gặp nhau ở Kamenxcơ!
Lạnh lùng ôm hôn hai ông khách xong, Pôlốptxép mở tung cửa gian phòng xép và bắt gặp cái nhìn lo lắng của Iakốp Lukits đứng ngoài hành lang. Xong việc trở vào, Pôlốptxép không ngồi vào bàn mà lăn đùng xuống giường. Nằm một lát rồi y hỏi Liachépxki đang đứng tựa lưng vào cửa sổ:
- Ông có thấy con bọ hung nào như thế bao giờ chưa?
Liachépxki khinh bỉ khoát tay một cái:
- Giêsu Maria, ngài còn muốn đòi hỏi gì hơn nữa ở cái tay võ quan Nga ấy? Ngài Pôlốptxép ạ, lẽ ra ngài nên hỏi tôi ma quỷ nào xui khiến mà lại dây vào với các ngài?!

*
*    *

Và cũng trong ngày hôm ấy còn xảy ra một tấn thảm kịch: con dê Tơrôphim đã chết đuối dưới giếng. Tính nết thất thường và nhiều đêm cứ đi lang thang khắp làng, chắc là đêm qua nó đã vấp phải một đàn chó đi ăn sương, rồi bị bọn này đuổi, bức nó phải nhảy qua miệng giếng ở canh trụ sở ban quản trị. Do sơ xuất của bác Suka già lẫn cẫn chiều hôm trước quên không đậy nắp cho nên miệng giếng vẫn để mở tênh hênh. Chú dê già bị chó đuổi theo cắn, hoảng quá nhảy qua miệng giếng, đã trượt cái cẳng già và lăn tùm xuống giếng chết đuối.
Đến chiều bác Suka đi chở cỏ về, định cho ngựa uống nước, thả thùng xuống giếng múc thì thấy thùng chạm phải cái gì mềm mềm. Bác loay hoay hất dây gầu hết sang bên này lại đến bên kia cố múc lấy ít nước, nhưng mọi cố gắng của bác đều vô hiệu quả. Linh cảm thấy một chuyện gì kinh khủng, lão ngơ ngác đưa mắt nhìn khắp sân, hy vọng thấy tên kẻ thù truyền kiếp của mình đang đứng vắt vẻo quãng nào đó trên nóc nhà kho. Nhưng mắt bác đảo nhìn mọi chốn đều vô ích: chẳng thấy con Tơrôphim đâu cả. Bác Suka lật đật đi vào kho cỏ, rồi le te chạy ra cổng: vẫn chẳng thấy con Tơrôphim đâu... Thế là bác Suka mếu máo nom đến là tội nghiệp, bước vào phòng quản trị nơi Đavưđốp ngồi, buông phịch người xuống tấm ghế dài.
- Ôi anh Xêmiôn ơi, khốn to rồi, anh ơi! Con Tơrôphim nhà ta chết đuối dưới giếng rồi, không sai! Anh ơi, đi kiếm cái móc câu, phải cẩu nó lên.
- Bác xót nó à? - Đavưđốp mỉm cười hỏi. - Bác vẫn luôn mồm đòi thịt nó cơ mà?
- Nói chuyện đòi thì nói làm quái gì! - Bác Suka cáu sườn kêu lên. - Cũng tạ ơn Chúa là các anh không thịt nó! Không có thì lão sống thế nào đây bây giờ? Không ngày nào nó không làm lão sợ hết vía, từ sáng bảnh đến tối mịt không lúc nào rời được cái roi, phòng thủ nó, nhưng bây giờ thì lão biết sống ra sao đây? Chỉ độc có một nỗi buồn trơ trụi! Thôi thì bây giờ lão cũng đến đâm đầu xuống giếng chết nốt đi cho rồi... Lão với nó thì có tình nghĩa gì với nhau đâu! Không có tí ti nào! Lão và nó sống với nhau chỉ để chiến đấu với nhau thôi. Có lần, lão tóm lấy sừng nó, con khốn kiếp ấy, và bảo nó: “Này Tơrôphim ơi, cha đẻ ra con mẹ mày, mày là con dê chẳng phải non trẻ gì, vậy mà mày học được ở đâu cái thói độc địa ấy thế? Mày lấy ở đâu được lắm cái táo tợn thế đến nỗi không để cho tao được một phút yên thân? Lúc nào mày cũng cứ rình để húc tao vào đít hoặc vào bên sườn. Mày cũng phải hiểu tao hom hem ốm yếu và phải có tí xông cảm với tao chứ...”. Nó cứ giương mắt ếch nhìn lão, và chả thấy có tí gì nhân đạo trong con mắt nó cả. Lão không thấy có tí xông cảm nào trong đôi mắt nó. Thế là lão quất cho nó một roi vào lưng và quát theo nó: “Cút đi, trời đánh thánh vật mày, đồ quỷ sứ nhà giời! Tao với mày thì không nói được với nhau điều gì tử tế đâu!”. Nó cong đít chạy, cái quân mất dạy ấy, nhưng chỉ chạy độ mươi bước là lại nhởn nhơ gặm cỏ rồi, cứ làm như nó sắp chết đói không bằng, quân khốn kiếp! Trong khi đó thì hai con mắt trân trân của nó vẫn liếc lão, chắc là nó đang mưu mô hại gì lão đây. Không phải là lão sống với nó nữa, mà là làm trò hề với nó! Bởi vì cái đứa ngu ngốc như thế, nói đúng thì nó cũng chỉ là đứa ngớ ngẩn thôi, thì lão không tài nào mà hòa hảo được! Nhưng bây giờ nó chết đuối rồi thì lão thương nó, và đời lão thế là khốn nạn... - Bác Suka não nề khóc thút thít rồi đưa cánh tay áo cáu bẩn lên quệt nước mắt.
Mượn được bên nhà hàng xóm chiếc “cần cẩu”, Đavưđốp và bác Suka lôi ở dưới giếng lên cái xác đã bắt đầu trương phềnh của con Tơrôphim. Đavưđốp quay mặt đi, hỏi ông lão:
- Ta làm thế nào bây giờ?
Bác Suka vẫn thút thít như thế, lau nước mắt đáp:
- Anh về đi, anh Xêmiôn ạ, về mà lo công việc quốc gia, còn việc chôn cất nó để đấy cho lão. Đây không phải việc thanh niên các anh, mà là việc ông già bà cả. Lão sẽ chôn cất nó đàng hoàng, cái đồ báo hại này, rồi theo đúng tục lệ, lão sẽ ngồi bên mồ nó khóc vài tiếng... Đội ơn Chúa đã cho anh đến giúp, chứ nếu không một mình lão thì chả thể nào kéo nổi nó lên đâu: con ngựa có sừng này, nó cũng phải ngót nghét ba pút chứ chẳng bỡn. Nó chẳng ăn không của người ta nhiều quá mà, thế nên nó mới chết đuối, cái đồ ngu ấy, chứ nếu nó nhẹ cân hơn, nó đã nhảy qua được cái giếng dễ như không rồi! Chắc là bọn chó kia đuổi rát quá, nó bấn tung đầu óc lên mới bay qua giếng như thế. Nhưng cái giống già mà ngu như nó thì có đầu óc sáng suốt làm sao được? Nhưng anh Xêmiôn ơi, anh phúc đức cho lão tiền mua phần tư lít vốtka, để tối nay lão vào kho cỏ ngồi uống gọi là tưởng nhớ nó một tí. Chứ về nhà với bà nhà lão mà làm gì, lão về thì được cái tích sự gì cơ chứ? Độc cái thần kinh căng thẳng thôi. Rồi lại chiến đấu nữa chứ! Vào ở tuổi lão thì cái đó hoàn toàn chẳng có lợi gì cả. Đằng này lão cứ thủng thỉnh lão uống ngồi tưởng nhớ đến kẻ đã qua đời, rồi lão đi cho ngựa uống nước, rồi lão ngủ, thực tế thế!
Đavưđốp cố hết sức nén cười, dúi vào tay bác Suka đồng mười rúp, và ôm lấy đôi vai gầy của bác:
- Thôi bác ạ, bác đừng thương tiếc nó quá. Cùng lắm thì chúng tôi sẽ mua cho bác một con dê khác mới tinh.
Bác Suka buồn bã lắc đầu, đáp:
- Một con dê như nó thì chả tiền nào mua được đâu, trên thế giới này nó có một không hai. Lão đành ôm hận suốt đời lão thôi! - Rồi bác đi tìm cái xẻng, dáng đi gù gù, nom thật thảm hại, thật tức cười và thật tội nghiệp trong nỗi đau đớn chân thật của bác.
Và đến đây là chấm dứt một ngày đầy những sự cố lớn nhỏ của làng Grêmiatsi Lốc.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét